← Quay lại trang sách

Chương 3 KAZ

Tiếng reo hò chào đón Kaz lúc anh bước qua cửa đông cùng với Jesper lê bước theo sau, mặt hầm hầm tức giận.

Dirix, Rotty cùng những người còn lại lao tới chỗ họ, hú hét và giơ cao những khẩu súng của Jesper. Cả băng không thấy được chuyện xảy ra với Geels, nhưng cũng nghe được gần hết. Giờ thì họ đang hò reo: “Phố Burstraat cháy rồi! Cặn Bã không tạt nước đâu!”

“Tôi không thể tin nổi hắn lại bỏ chạy như chó cụp đuôi!” Rotty chế giễu. “Trong tay hắn có một khẩu súng đầy đạn kia mà!”

“Nói chúng tôi nghe gã vệ quân nợ anh chuyện gì đi!” Dirix nài nỉ.

“Không thể là chuyện thường rồi.”

“Tôi từng nghe kể về một gã ở Sloken thích lăn mình trong siro táo rồi lấy hai…”

“Còn lâu tôi mới tiết lộ,” Kaz đáp. “Holst có thể vẫn còn hữu dụng.”

Trong tâm trạng phấn khích, tiếng cười của nhóm người có chút cuồng loạn còn sót lại từ cú thoát hiểm trong chân tơ kẽ tóc. Một số đã chờ đợi cuộc ẩu đả và vẫn còn ngứa ngáy tay chân. Nhưng Kaz biết còn một nguyên nhân nữa. Anh nhận thấy không ai nhắc đến cái tên Bolliger Bự. Tất thảy đều bàng hoàng vì sự phản bội của hắn, cũng như cách thức mà Kaz trừng phạt hắn. Phía sau tất cả màn reo hò nhảy nhót, là sự sợ hãi. Tốt thôi. Kaz tin tất cả mọi người trong băng Cặn Bã đều là sát thủ, đạo chích, và những kẻ nói dối. Anh chỉ cần bảo đảm bọn họ không hình thành thói quen nói dối anh.

Kaz cắt cử hai đàn em đi theo dõi Bol Bự, để chắc chắn hắn rời khỏi thành nếu đứng dậy được. Đám còn lại có thể quay về Thanh Gỗ hoặc Quạ Đen để uống cho quên nỗi lo sợ, quậy phá và ba hoa về những sự kiện vừa diễn ra trong đêm. Bọn họ sẽ kể lại những gì vừa chứng kiến, thêm thắt đôi chút, tin tức càng lan truyền thì Tay Nhám sẽ càng trở nên điên rồ và nhẫn tâm hơn. Nhưng Kaz không việc gì phải bận tâm chuyện đó, chặng dừng chân đầu tiên của anh sẽ là Cảng số Năm.

Jesper bước tới cản đường Kaz. “Lẽ ra anh nên cho tôi biết về Bolliger Bự.”

“Đừng có bảo tôi phải làm cái này cái kia, Jes.”

“Anh nghĩ tôi cũng bẩn như hắn, đúng không?”

“Nếu tôi nghĩ thế thì lúc này cậu đã ôm cỗ lòng của mình nằm giữa Sàn giao dịch giống hắn rồi. Đừng có nhiều lời nữa.”

Jesper lắc đầu rồi đặt tay lên những khẩu súng vừa lấy lại từ Dirix. Mỗi khi bực mình, Jesper thích đặt tay lên một khẩu súng, tựa như một đứa trẻ tìm kiếm sự an ủi từ con búp bê ưa thích của mình.

Việc hoà giải đáng lẽ phải dễ dàng hơn. Kaz có thể trấn an Jesper rằng anh tin Jesper không chơi bẩn, rằng anh tin Jesper sẽ là người hộ vệ thực sự duy nhất của mình nếu mọi chuyện đêm nay diễn biến xấu đi. Nhưng thay vào đó anh chỉ nói: “Thôi nào, Jesper. Cậu được tha hồ chơi chịu ở Quạ Đen đấy. Cứ chơi đến sáng xem vận may của cậu kéo dài được bao lâu đi.”

Jesper quắc mắt, nhưng không giấu được tia khao khát trong ánh mắt của mình. “Lại mua chuộc à?”

“Tôi quen rồi.”

“May cho anh là tôi cũng thế.” Jesper ngần ngừ một lúc rồi nói tiếp. “Anh không muốn chúng tôi đi cùng à? Đám thuộc hạ của Geels chắc đang rất tức tối đấy.”

“Cứ để chúng dẫn xác đến.” Kaz quay gót đi xuôi về phía đường Nemstraat. Nếu anh không thể đi dạo một mình khi trời tối ở Ketterdam thì tốt nhất nên đeo cái biển đề ẻo lả trên cổ và nằm chờ bị đập đi là vừa.

Kaz có thể cảm thấy ánh mắt của những người khác chiếu vào lưng mình trong lúc anh đi về phía cây cầu. Không cần lắng nghe anh cũng biết họ đang nói điều gì. Họ muốn đánh chén với anh, nghe giải thích xem làm thế nào anh biết Bolliger Bự đã phản phé, nghe anh mô tả ánh mắt của Geels khi hắn buông súng xuống. Nhưng họ sẽ không bao giờ có được những điều đó từ Kaz, và nếu không thích thì họ có thể tìm một băng nhóm khác để gia nhập.

Bất luận họ nghĩ thế nào về anh, đêm nay họ cũng sẽ bước đi đầy kiêu hãnh hơn một chút khi ra về. Chính vì thế mà họ ở lại, và cố gắng trung thành nhất có thể với anh. Khi Kaz chính thức gia nhập Cặn Bã vào năm mười hai tuổi, cả băng chỉ là một trò hề với những đứa trẻ đường phố, dân lang thang và đám lừa lọc vặt vãnh sống trong một ngôi nhà đổ nát ở khu vực tệ hại nhất của Barrel. Nhưng anh không cần một băng nhóm vững mạnh, anh chỉ cần một băng nhóm mà mình có thể làm cho vững mạnh hơn - một băng nhóm cần anh.

Giờ thì họ có lãnh địa riêng của mình, có sòng bạc riêng, và ngôi nhà đổ nát kia nay đã trở thành Thanh Gỗ, một nơi ấm cúng để đánh chén và trú ẩn khi bạn bị thương. Giờ đây người ta phải nể sợ các thành viên của băng Cặn Bã. Kaz đã mang lại cho họ điều đó. Anh không nợ họ bất cứ lời giải thích nào.

Hơn nữa, đằng nào thì Jesper cũng sẽ dịu lại. Sau vài chầu rượu và vài lần đặt cược, tay thiện xạ sẽ lại quay về với bản chất tử tế của mình. Jesper giữ sự hận thù cũng như người ta giữ nước trong lòng bàn tay, và rất có năng khiếu trong việc biến thắng lợi của Kaz thành thắng lợi chung của mọi người.

Trong lúc đi về phía những con kênh đào nhỏ dẫn tới Cảng số Năm, Kaz nhận ra điều mà mình đang cảm thấy, thánh thần ơi, chính là một chút hi vọng. Có lẽ anh nên đi gặp một thầy lang. Băng Hắc Thủ đã lén lút ngáng chân anh trong suốt nhiều tuần qua, và bây giờ anh buộc chúng phải ngửa bài. Chân anh cũng không quá tệ, bất chấp cái lạnh của mùa đông. Cơn đau vẫn còn đó, nhưng đêm nay nó chỉ âm ỉ thôi. Đau vậy, một phần trong Kaz tự hỏi liệu cuộc điều đình vừa rồi có phải là một thử thách mà Per Haskell đã đặt ra cho anh hay không. Ông ta rất giỏi trong việc tự thuyết phục bản thân rằng mình chính là thiên tài giúp cho băng Cặn Bã phất lên, nhất là khi được một trong mấy gã nịnh thần rót mật vào tai. Kaz không thích điều đó, nhưng anh có thể gác lại mối bận tâm về Per Haskell sang ngày mai. Lúc này, anh muốn chắc chắn mọi chuyện ở cảng diễn ra theo đúng lịch trình, trước khi quay về Thanh Gỗ để ngủ một giấc cực kì cần thiết.

Anh biết Inej đang bám theo mình. Cô đã theo dõi anh suốt từ lúc rời Sàn giao dịch. Anh không gọi cô. Inej sẽ tự lộ diện khi đã sẵn sàng. Thường thì anh thích sự tĩnh lặng, anh rất sẵn lòng khâu miệng của phần đông mọi người lại. Nhưng khi Inej muốn, cô có cách để làm cho người ta cảm nhận được sự im lặng của cô. Nó nặng như chì.

Kaz đã chịu đựng nó suốt chặng đường đi qua hàng lan can bằng sắt của cầu Zents, cây cầu với những song sắt được buộc các mẩu thừng thắt nút cầu kì. Lời cầu xin thượng lộ bình an của dân thuỷ thủ. Trò mê tín vớ vẩn. Cuối cùng anh bỏ cuộc và lên tiếng: “Nói phứt ra đi, Bóng Ma.”

Giọng nói của cô vang lên từ trong bóng tối. “Anh không hề cử người tới phố Burstraat.”

“Tại sao tôi phải làm chuyện đó?”

“Nếu Geels không đến đó kịp thời thì..

“Chẳng có ai phóng hoả ngôi nhà số mười chín cả.”

“Tôi đã nghe thấy tiếng còi hụ…”

“Một sự tình cờ thú vị.Tôi đã lấy cảm hứng từ đó.”

“Hoá ra anh chỉ loè bịp. Cô ta không hề gặp nguy hiểm.”

Kaz nhún vai, không muốn nói ra điều đó. Inej luôn cố soi mói từng mẩu đạo đức của anh. “Khi mọi người nghĩ cô là một con quái vật, cô sẽ không cần mất thời gian làm mọi trò ma quỷ nữa.”

“Tại sao anh đồng ý gặp hắn khi biết đó là một cái bẫy?”

Inej đang ở đâu đó phía bên phải Kaz. Cô di chuyển nhẹ nhàng không một tiếng động. Theo lời những thành viên khác trong băng thì cô di chuyển như một con mèo, nhưng anh thấy loài mèo còn phải bái cô làm sư phụ.

“Tôi cho rằng đêm nay đã thành công,” anh đáp. “Cô không nghĩ vậy sao?”

“Anh suýt nữa bị giết. Jesper cũng vậy.”

“Geels phải dốc cạn ngân quỹ của Hắc Thủ cho những khoản hối lộ vô dụng. Chúng ta đã loại bỏ một kẻ phản bội, đòi lại chủ quyền ở Cảng số Năm, và tôi bình an vô sự. Đẹp quá còn gì.”

“Anh biết chuyện của Bolliger Bự được bao lâu rồi?”

“Vài tuần. Chúng ta sẽ bị thiếu người đấy. À mà nói mới nhớ, cô tiễn Rojakke đi là vừa.”

“Tại sao? Không ai có thể qua mặt được anh ta trên bàn chơi bài.”

“Trên đời này thiếu gì người giỏi. Rojakke hơi nhanh tay quá. Anh ta ăn bớt tiền.”

“Anh ta là một người chia bài giỏi và có gia đình phải chu cấp. Anh có thể cảnh báo anh ta. Chặt một ngón tay chẳng hạn.”

“Khi đó anh ta sẽ không còn là một người chia bài giỏi nữa, đúng không nào?”

Khi một người chia bài bị phát hiện ăn bớt tiền của sòng bài, ông chủ sẽ chặt một ngón tay của anh ta. Đó là một trong những biện pháp trừng phạt ngớ ngẩn nhưng lại trở thành luật ngầm của các băng nhóm. Nó phá vỡ sự cân bằng của người chia bài, buộc anh ta học lại cách xào bài, và cảnh báo cho mọi ông chủ tương lai rằng anh ta cần được giám sát. Nhưng nó cũng làm cho anh ta vụng về đi trong công việc. Điều đó có nghĩa là anh ta phải tập trung vào thao tác của mình thay vì quan sát người chơi.

Kaz không trông thấy khuôn mặt Inej trong bóng tối, nhưng anh cảm nhận được sự phản đối của cô.

“Lòng tham là chúa trời của anh đó, Kaz.”

Kaz suýt phì cười khi nghe điều đó. “Không, Inej. Lòng tham quỳ gối trước tôi. Nó là đầy tớ, là đòn bẩy của tôi.”

“Vậy anh phụng sự chúa trời nào?”

“Bất cứ vị nào ban tặng vận may cho tôi.”

“Tôi không nghĩ chúa trời lại làm chuyện đó.”

“Tôi cũng chẳng cần.”

Inej bực bội thở hắt ra. Bất chấp tất cả những chuyện đã trải qua, cô vẫn tin các vị thánh Suli đang quan sát mình. Kaz biết chuyện ấy, và không hiểu sao anh thích chọc cho cô tức lên. Anh ước gì mình có thể đọc được vẻ mặt của cô lúc này. Luôn có gì đó làm anh thoả mãn khi thấy cái nhíu mày khẽ của cô.

“Làm sao anh biết tôi sẽ tiếp cận Van Daal kịp thời?” Cô hỏi.

“Vì cô luôn làm được.”

“Lẽ ra anh nên cảnh báo tôi nhiều hơn.”

“Tôi nghĩ các vị thánh của cô thích thử thách đó.”

Cô không nói gì trong giây lát, sau đó anh nghe thấy giọng cô từ đâu đó sau lưng mình. “Người ta dè bỉu thánh thần cho đến khi cần họ, Kaz à.”

Kaz không thấy cô bỏ đi, anh chỉ cảm nhận sự thiếu vắng cô.

Anh bực bội lắc đầu. Nói là anh tin tưởng Inej thì hơi quá, nhưng anh phải thừa nhận rằng mình đã trông cậy vào cô. Việc chuộc lại cô từ Vườn Thú là một quyết định liều lĩnh, và nó làm băng Cặn Bã tốn kha khá tiền. Anh đã phải thuyết phục Per Haskell, nhưng Inej là một trong những khoản đầu tư hữu hiệu nhất mà Kaz từng thực hiện. Khả năng ẩn mình điệu nghệ biến cô thành một đạo chích tuyệt vời, người giỏi nhất của Barrel. Nhưng việc cô có thể che giấu bản thân dễ dàng như vậy làm anh lo ngại. Thậm chí cô còn không có mùi riêng. Mọi người ai cũng có mùi cơ thể, và chúng nói lên nhiều điều - mùi xà phòng trên ngón tay người phụ nữ, mùi khói trong tóc cô ta, mùi len ẩm trên bộ comlê của một người đàn ông, hay mùi thuốc súng vương lại nơi cổ tay áo ông ta. Nhưng Inej thì không. Bằng cách nào đó cô đã làm chủ được phép tàng hình. Cô là một tài sản giá trị. Vậy tại sao cô không thể cứ làm việc của mình thôi và ngưng xả cảm xúc của cô lên đầu anh chứ?

Bỗng Kaz nhận ra anh đang không một mình. Anh dừng bước, nghe ngóng. Anh vừa đi tắt theo một ngõ hẻm nhỏ bị con kênh tăm tối cắt ngang. Ở đây không có đèn đường và vắng bóng người qua lại, chỉ có ánh trăng sáng và những chiếc thuyền nhỏ đập vào cọc neo. Anh đã mất cảnh giác và lơ đãng.

Một bóng người sắc nét xuất hiện ở cuối ngõ.

“Có chuyện gì?” Kaz hỏi.

Cái bóng lao vào Kaz. Anh vung cây gậy chống của mình, lẽ ra nó phải đập trúng vào chân của kẻ tấn công, nhưng cây gậy chỉ vụt vào khoảng không. Kaz loạng choạng mất thăng bằng sau cú vung gậy.

Thế rồi, không hiểu sao kẻ đó đã đứng ngay trước mặt Kaz. Một cú đấm giáng thẳng vào quai hàm của anh. Kaz lắc mạnh đầu để xua đi những ngôi sao đang chao lượn trong đó. Anh nhảy lui lại và vung gậy lần thứ hai. Nhưng đã không còn ai đứng tại đó nữa. Cái đầu gậy nặng trịch của anh bay vút qua khoảng trống và đập vào tường.

Kaz cảm thấy cây gậy bị giật khỏi tay mình bởi kẻ nào đó đứng bên phải. Không lẽ chúng có hơn một người?

Tiếp đó, một cái bóng đi xuyên qua bức tường. Bộ não của Kaz khựng lại và quay cuồng, cố gắng lí giải điều anh vừa chứng kiến, trong lúc màn sương trở thành một chiếc áo choàng, đôi bốt, và làn da tai tái của một khuôn mặt.

Một bóng ma, Kaz nghĩ thầm. Nỗi sợ trẻ con ập tới với sự chắc chắn tuyệt đối. Rốt cuộc Jordie cũng xuất hiện để phục thù. Đã đến lúc trả món nợ của em rồi, Kaz. Em không bao giờ quỵt nợ được đâu.

Ý nghĩ đó vụt qua tâm trí của Kaz trong một làn sóng hoảng loạn đáng xấu hổ trước khi bóng ma lao tới, và anh cảm nhận được cú chích đau nhói của một mũi kim nơi cổ. Ma mà cũng dùng kim tiêm sao?

Ngu quá, anh chỉ kịp nghĩ tới đó trước khi rơi vào trong bóng tối.

•••

Kaz tỉnh lại vì bị mùi amoniac cay nồng xộc vào mũi. Đầu anh ngửa ra sau trong lúc ý thức quay trở lại.

Người đàn ông lớn tuổi ở trước mặt anh mặc chiếc áo thụng của một thầy lang. Ông ta đang cầm một lọ muối ngửi trong tay và rà nó qua lại dưới mũi Kaz. Cái mùi tởm không thể chịu nổi.

“Tránh xa tôi ra,” Kaz kêu lên.

Ông thầy lang nhìn anh một cách bình thản và cất chỗ muối ngửi vào trong cái túi da. Kaz co ngón tay lại, nhưng anh chỉ làm được có thế. Anh đang bị trói quặt tay ra sau trên một chiếc ghế. Thứ mà họ tiêm cho Kaz làm đầu anh váng vất.

Ông thầy lang tránh sang bên cạnh. Kaz chớp mắt hai lần, cố nhìn cho rõ và lí giải sự xa hoa phi lí xung quanh mình. Anh tưởng đâu mình phải tỉnh lại giữa hang ổ của bọn Hắc Thủ hoặc một băng nhóm địch thủ nào khác. Nhưng đây không phải là một cảnh tượng rẻ tiền kiểu Barrel. Để có thể trang hoàng như thế này cần phải có nhiều tiền - những tấm ván gỗ dái ngựa chạm khắc dày đặc hình con sóng bạc đầu và cá bay, các kệ chất đầy sách, cửa sổ ghép kính, và anh gần như chắc chắn kia là một bức hoạ của DeKappel. Một trong số những bức chân dung sơn dầu ít phổ biến của ông ta, vẽ một người phụ nữ với cuốn sách mở trong lòng và con cừu non nằm dưới chân. Người đàn ông đang quan sát anh từ phía bên kia cái bàn làm việc lớn có nét phú quý của một thương gia. Nhưng nếu đây là nhà của ông ta thì tại sao lại có mấy gã thị tuần đứng gác ngoài cửa thế kia?

Chết tiệt, Kaz nhủ thầm, không lẽ mình đã bị bắt? Nếu như vậy thì gã lái buôn này sẽ có một bất ngờ thú vị. Nhờ Inej, anh đã nắm được thông tin về mọi quan toà, thừa phát lại, cũng như các ủy viên hội đồng cao cấp ở Kerch. Anh sẽ ra khỏi buồng giam trước khi mặt trời mọc. Nhưng đây không phải là một buồng giam, và anh còn đang bị trói chặt vào ghế. Chuyện quái gì đang xảy ra vậy?

Người đàn ông trạc tứ tuần, có một gương mặt đẹp nhưng hốc hác và phần trán bắt đầu có dấu hiệu bị hói. Bắt gặp ánh mắt của Kaz, ông ta hắng giọng và chắp hai tay lại.

“Cậu Brekker, tôi hi vọng cậu không cảm thấy quá khó chịu trong người.”

“Đem gã lang băm này ra chỗ khác đi. Tôi khoẻ.”

Vị thương gia gật đầu với ông thầy lang. “Ông có thể đi. Gửi hoá đơn cho tôi nhé. và dĩ nhiên tôi sẽ rất cảm kích nếu ông giữ kín chuyện này.”

Ông thầy lang đóng túi lại rồi rời khỏi phòng. Trong lúc đó, vị thương gia đứng dậy và cầm lấy một xấp giấy trên bàn. Ông ta mặc một chiếc áo choàng cắt may cực khéo cùng với áo vest giống như mọi thương gia của Kerch - màu tối, trang nhã, thâm trầm một cách cố ý. Nhưng cái đồng hồ bỏ túi và chiếc ghim cài cravat đã báo cho Kaz những gì anh cần biết: Những mắt xích hình lá nguyệt quế kết thành phần dây đeo đồng hồ bằng vàng, còn chiếc ghim cài là một viên hồng ngọc lớn đẹp hoàn hảo.

Tôi sẽ trấn món trang sức đó rồi găm chiếc ghim kia thẳng vào cái cổ của ông vì tội dám trói tôi vào ghế, Kaz nhủ thầm. Nhưng anh chỉ nói vỏn vẹn hai chữ: “Van Eck.”

Người đàn ông gật đầu. Không phải cái cúi mình thi lễ, tất nhiên rồi. Cánh thương gia không thi lễ với bọn cặn bã đến từ Barrel. “Vậy ra, cậu biết tôi?”

Kaz biết các biểu tượng và đồ trang sức của mọi thương gia tại Kerch. Gia huy của Van Eck là cành nguyệt quế mầu đỏ. Chẳng cần phải là chuyên gia để nhìn ra được mối liên hệ.

“Tôi biết ông,” anh đáp. “Ông là một trong những thương gia luôn tìm cách dọn sạch Barrel.”

Van Eck khẽ gật đầu lần nữa. “Tôi chỉ tìm công việc tử tế cho mọi người.”

Kaz bật cười. “Có gì khác biệt giữa đánh bạc ở Quạ Đen và đầu cơ tại Sàn giao dịch nào?”

“Một đằng là lừa lọc, một đằng là kinh doanh.”

“Một khi đã mất tiền thì người ta khó lòng phân biệt được sự khác nhau giữa chúng đấy.”

“Barrel là hang ổ của tục tĩu, đổi trụy, bạo lực…”

“Những con tàu mà ông phái đi từ Ketterdam, bao nhiêu trong số đó không bao giờ trở lại?”

“Chuyện đó không…”

“Một trên năm, thưa ông. Cứ năm con tàu mà ông phái đi để tìm kiếm cà phê, jurda và tơ lụa, lại có một chìm xuống biển, va phải đá, rơi vào tay hải tặc. Một trên năm thuỷ thủ đoàn mất mạng, thân xác nằm lại nơi đất lạ quê người, làm mồi cho cá biển sâu. Làm ơn đừng nói tới bạo lực ở đây.”

“Tôi không tranh cãi các vấn đề đạo đức với một thằng ranh con Barrel.”

Kaz không thực sự muốn ông ta làm điều đó. Anh chỉ đang tìm cách câu giờ trong lúc thử độ chắc chắn của cặp còng tay. Anh lần ngón tay xa hết mức có thể dọc theo chiều dài của sợi dây xích, vẫn chưa hết thắc mắc về nơi Van Eck đưa mình tới. Mặc dù chưa bao giờ gặp ông ta, anh đã có dịp nghiên cứu sơ đồ ngôi nhà của Van Eck từ trong ra ngoài. Bất kể họ đang ở đâu thì đây cũng không phải là tư dinh của gã thương gia.

“Ông không đưa tôi tới đây để đàm đạo, vậy ông cần gì?” Đó là câu hỏi thường mở đầu cho mọi cuộc gặp. Lời chào đón của một người ngang hàng, chứ không phải tiếng van xin của một tù nhân.

“Tôi có một đề nghị dành cho cậu. Hay đúng hơn là Hội đồng có một đề nghị.”

Kaz cố giấu sự ngạc nhiên của mình. “Hội đồng Thương buôn bắt đầu mọi cuộc thương lượng bằng trò đánh đập à?”

“Hãy coi đó là một sự cảnh báo. Một cách thể hiện.”

Kaz nhớ lại dáng người trong con hẻm, cách nó xuất hiện và biến mất như một bóng ma. Jordie.

Anh thầm phản bác suy nghĩ đó trong đầu. Không phải Jordie, đồ hâm. Tập trung đi. Bọn họ tóm được anh vì anh vừa trải qua một thắng lợi và lơ đãng. Đây là hình phạt dành cho sai lầm của anh, một sai lầm mà anh sẽ không bao giờ lặp lại. Điều đó không giải thích được vụ bóng ma. Nhưng lúc này anh gạt ý nghĩ đó sang một bên.

“Hội đồng có thể dùng tôi vào việc gì đây?”

Van Eck lật xấp giấy trong tay. “Cậu bị bắt lần đầu tiên vào năm lên mười,” ông ta vừa nói vừa xem lướt trang giấy.

“Mọi người đều nhớ lần đầu tiên của mình.”

“Thêm hai lần nữa trong cùng năm đó, và hai lần khác năm mười hai tuổi. Sau đó cậu bị tóm cổ năm mười bốn tuổi khi đội thị tuần đột kích vào một sòng bạc, nhưng kể từ đó cậu hoàn toàn sạch sẽ.”

Đó là sự thực. Không một ai chộp được Kaz trong suốt ba năm vừa qua. “Tôi đã hoàn lương,” Kaz đáp. “Tìm cho mình một công việc tử tế, dùng cuộc sống để lao động và cầu nguyện.”

“Đừng có báng bổ,” Van Eck nói khẽ, nhưng đôi mắt ông ta toé lửa giận dữ.

Một kẻ có đức tin, Kaz ghi nhận trong lúc thầm kiểm kê lại tất cả những gì mình đã biết về Van Eck - giàu có, ngoan đạo, goá vợ nhưng vừa tục huyền với một cô nàng không lớn hơn Kaz là bao. Và bên cạnh đó còn có câu chuyện bí ẩn về cậu con trai của ông ta, tất nhiên rồi.

Van Eck tiếp tục lật giở tập tài liệu. “Cậu cá độ đấm bốc, đua ngựa, cùng những trò may rủi tự mình bày ra. Cậu điều hành sòng bạc tại Quạ Đen từ hơn hai năm nay. Là người trẻ nhất từng làm công việc đó, cậu đã làm lợi nhuận của nó tăng gấp hai lần. Cậu là một kẻ tống tiền…”

“Tôi chỉ đổi chác thông tin.”

“Một tên lừa đảo…”

“Tôi chỉ tạo cơ hội.”

“Một tên ma cô, một kẻ sát nhân…”

“Tôi không dắt gái, và tôi giết chóc có mục đích.”

“Với mục đích gì?”

“Cũng giống như ông thôi. Lợi nhuận.”

“Cậu moi thông tin bằng cách nào?”

“Có thể nói tôi là một người bẻ khoá.”

“Hẳn cậu là một người bẻ khoá rất cừ.”

“Quả vậy.” Kaz hơi ngửa người ra sau. “Ông thấy đấy, ai cũng có một cái két sắt cất giữ các bí mật và ham muốn của mình. Này nhé, có những kẻ dùng bạo lực, nhưng tôi thích một cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn. Một áp lực thích hợp vào đúng thời điểm, đúng vị trí. Đó là một công việc tinh tế.”

“Cậu lúc nào cũng ăn nói ví von như thế à?”

Kaz mỉm cười đáp. “Đó không phải là một sự ví von.”

Anh thoát ra khỏi chiếc ghế trước cả khi sợi dây xích chạm mặt sàn. Anh nhảy lên bàn, một tay chộp con dao rọc giấy nằm trên đó, tay kia túm áo sơmi của Van Eck. Lớp vải áo nhăn nhúm lại khi anh ấn lưỡi dao vào cổ ông ta. Kaz vẫn còn choáng váng, chân tay anh tê rần do bị trói quá lâu, nhưng với một vũ khí trong tay thì mọi chuyện ngon lành hơn hẳn.

Đội vệ quân của Van Eck lúc này đứng đối mặt với anh, gươm súng lăm lăm trong tay. Anh có thể cảm thấy quả tim thương gia đập thình thịch sau lớp vải len của áo khoác.

“Tôi nghĩ mình không cần phí hơi để đe doạ,” Kaz lên tiếng. “Nói cho tôi biết cách đường hoàng ra khỏi đây, nếu không tôi sẽ đem ông qua cửa sổ cùng với tôi.”

“Tôi có thể làm cậu đổi ý.”

Kaz thúc nhẹ vào ông ta. “Tôi không quan tâm ông là ai, hay viên hồng ngọc của ông lớn cỡ nào. Ông đừng hòng bắt cóc tôi rồi bày trò thoả thuận này nọ trong lúc tôi bị trói.”

“Mikka,” Van Eck gọi.

Và chuyện đó xảy ra một lần nữa. Một thằng bé đi xuyên qua bức tường để giá sách. Nó tái nhợt như một xác chết, trên người khoác chiếc áo choàng màu xanh biển của Tiết Hải Sư, với sợi ruy băng hai mầu đỏ và vàng trên ve áo thể hiện mối liên hệ với gia tộc Van Eck. Nhưng ngay cả một Grisha cũng không thể đi xuyên tường được.

Thuốc, Kaz tự nhủ, cố gắng không hoảng sợ. Mình bị đánh thuốc rồi. Hoặc đây là một màn ảo thuật, giống như những gì người ta vẫn trình diễn tại các nhà hát trong khu Đông Stave - một cô gái bị cắt làm đôi, những con bồ câu bay ra từ ấm trà.

“Chuyện quái gì thế này?” Anh gầm lên.

“Thả tôi ra, tôi sẽ giải thích.”

“Ông có thể giải thích ngay tại đây.”

Van Eck run run thở hắt ra. “Điều mà cậu trông thấy là tác động của jurda parem.”

“Jurda chỉ là một chất kích thích.” Những bông hoa nhỏ sấy khô được trồng tại Novyi Zem và bày bán khắp các cửa hiệu của Ketterdam. Hồi mới vào băng Cặn Bã, Kaz đã nhai chúng để tỉnh táo mỗi khi đi thám thính. Nó làm răng anh chuyển sang màu cam trong nhiều ngày sau đó. “Nó vô hại,” anh nói.

“Jurda parem là một thứ hoàn toàn khác, và chắc chắn là nó không vô hại.”

“Vậy đúng là ông đã cho tôi xài thuốc?”

“Không phải cậu. Là Mikka.”

Kaz ghi nhận vẻ xanh xao bệnh hoạn trên khuôn mặt của thằng bé Grisha. Đôi mắt nó trũng sâu, cơ thể nó toát lên sự yếu ớt và run rẩy của một người ốm đói và không màng chuyện ăn uống.

“Jurda parem là họ hàng của jurda thông thường,” Van Eck nói tiếp. “Nó cũng xuất phát từ cùng một loài cây. Chúng tôi không rõ quy trình sản xuất của nó, nhưng một lượng nhỏ đã được gửi tới Hội đồng Thương buôn Kerch từ một nhà khoa học có tên là Bo Yul-Bayur.”

“Người Shu à?”

“Phải. Vì muốn đào thoát khỏi đất nước, ông ta đã gửi cho chúng tôi mẫu thử để thuyết phục chúng tôi về những tác dụng kì diệu của loại thuốc này. Làm ơn đi, cậu Brekker, đây không phải là một tư thế thoải mái. Nếu cậu muốn, tôi sẽ đưa cho cậu một khẩu súng và chúng ta sẽ ngồi xuống bàn luận chuyện này theo cách thức văn minh hơn.”

“Một khẩu súng và cây gậy của tôi.”

Van Eck ra hiệu cho một thị tuần. Người này ra khỏi phòng rồi quay lại trong chốc lát cùng với cây gậy chống của Kaz. Anh thấy mừng vì anh ta đi bằng cái lối cửa chết tiệt.

“Súng trước,” Kaz nói. “Từ từ thôi.” Người vệ quân tháo súng rồi đưa nó cho Kaz, báng súng quay về phía anh. Kaz chộp lấy và lên đạn trong nháy mắt, trước khi thả Van Eck, quẳng con dao rọc giấy xuống bàn, rồi giật phăng cây gậy chống của mình từ tay anh ta. Khẩu súng hữu dụng hơn, nhưng cây gậy mang lại cho Kaz một sự nhẹ nhõm mà anh không cần phải đong đếm.

Van Eck lùi lại vài bước, giữ khoảng cách với khẩu súng đã lên đạn mà Kaz cầm trong tay. Có vẻ như ông ta không vội ngồi xuống ngay, Kaz cũng vậy. Anh tiếp tục đứng gần cửa sổ, sẵn sàng lao ra ngoài nếu cần.

Van Eck hít một hơi thật sâu và tìm cách vuốt phẳng bộ trang phục. “Cây gậy đó là một món vũ khí tốt ra phết đấy. Nó được làm bởi một Sáng Chế Gia à?”

Quả thực, cây gậy chống của Kaz là tác phẩm của một Sáng Chế Gia. Nó được bọc chì và có trọng lượng hoàn hảo để đập gãy xương. “Không phải chuyện của ông. Vào đề đi, Van Eck.”

Ông ta hắng giọng. “Sau khi nhận được mẫu jurda parem của Bo Yul-Bayur gửi, chúng tôi đã thử nó trên ba Grisha thuộc các nhóm khác nhau.”

“Tình nguyện viên à?”

“Người giúp việc theo giao kèo,” Van Eck thừa nhận. “Hai người đầu tiên là Sáng Chế Gia và Thiên Tâm Y, thuộc sở hữu của ngài Hội đồng Hoede. Mikka là Tiết Hải Sư. Thằng bé là của tôi. Cậu đã thấy nó có thể làm được chuyện gì nhờ xài jurda parem rồi đó.”

Hoede. Cái tên này sao nghe quen quá vậy?

“Tôi không biết mình đã thấy điều gì,” Kaz vừa nói vừa liếc nhìn Mikka. Ánh mắt của thằng bé tập trung vào Van Eck như thể đang chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo từ ông ta. Hoặc là một liều jurda parem nữa.

“Một Tiết Hải Sư bình thường có thể kiểm soát các dòng hải lưu, triệu hồi nước và hơi ẩm từ trong không khí hoặc từ một nguồn gần đó. Họ kiểm soát thuỷ triều tại các hải cảng của chúng ta. Nhưng dưới tác động của jurda parem, Tiết Hải Sư có thể tự thay đổi trạng thái từ rắn sang lỏng hay khí, và ngược lại, cũng như có thể làm điều tương tự với các đồ vật. Kể cả một bức tường.”

Kaz định phản bác chuyện đó, nhưng anh không thể lí giải điều mình vừa chứng kiến theo cách nào khác. “Bằng cách nào?”

“Thật khó để giải thích. Chắc cậu đã biết về bộ khuếch đại mà một số Grisha vẫn mang theo?”

“Tôi đã trông thấy chúng,” Kaz đáp. Xương, răng, vảy thú. “Tôi nghe nói chúng không dễ tìm.”

“Rất khó tìm là đằng khác. Nhưng chúng chỉ làm tăng năng lực của một Grisha mà thôi. Trong khi jurda parem làm thay đổi nhận thức của họ.”

“Thì sao?”

“Grisha điều khiển được vật chất ở cấp độ cơ bản nhất. Họ gọi nó là thuật Điều Nhiên. Dưới ảnh hưởng của parem, sự điều khiển này sẽ trở nên nhanh chóng và chính xác hơn nhiều. Trên lí thuyết, jurda parem chỉ là một chất kích thích giống như jurda thông thường. Nhưng hình như nó có thể làm cho các giác quan của một Grisha trở nên sắc bén và nhanh nhạy hơn. Nhờ vậy họ có thể liên hệ các thứ với một tốc độ phi thường. Những điều không thể bỗng trở thành có thể.”

“Nó có tác dụng gì với đám thường nhân như ông và tôi?”

Van Eck tỏ ra phật ý khi bị đánh đồng với Kaz, nhưng ông ta chỉ nói: “Nó gây chết người. Những bộ óc bình thường không thể dung nạp được parem, dù là ở liều thấp nhất.”

“Ông nói là các ông đã cho ba Grisha dùng thử. Hai người kia có thể làm được gì?”

“Cậu xem đây,” Van Eck vươn tay về phía một ngăn kéo bàn.

Kaz nâng súng lên. “Từ từ thôi.”

Với một sự chậm rãi cường điệu hoá, Van Eck luồn tay vào trong ngăn kéo rồi rút ra một cục vàng. “Lúc đầu cái này là một cục chì.”

“Tôi cóc tin ông.”

Van Eck nhún vai. “Tôi chỉ có thể kể cho cậu những gì mình đã chứng kiến, cậu Sáng Chế Gia đã bỏ một cục chì vào lòng bàn tay, và giây lát sau nó thành ra thế này.”

“Làm sao ông biết nó là thật?” Kaz thắc mắc.

“Nó có cùng điểm chảy với vàng, cùng trọng lượng và dễ dát mỏng như vàng. Nếu không phải là nó giống hệt vàng trên mọi phương diện thì điểm khác biệt giữa hai thứ nằm ngoài tầm nắm bắt của chúng tôi. Cậu cứ việc xem thử nếu thích.”

Kaz kẹp cây gậy chống vào nách rồi cầm lấy cục kim loại từ tay Van Eck. Anh bỏ nó vào trong túi. Cho dù nó là đồ thật hay đồ giả như thật, một cục vàng to như vậy cũng có thể mua được nhiều thứ trên đường phố Barrel.

“Ông có thể đã kiếm được thứ này ở đâu đó,” Kaz bắt bẻ.

“Lẽ ra tôi đã đưa người Sáng Chế Gia của Hoede đến đây để cho cậu xem tận mắt, nhưng cậu ta không khoẻ.”

Ánh mắt của Kaz liếc nhanh sang phía gương mặt xanh xao và vầng trán đẫm mồ hôi của Mikka. Việc xài ma dược rõ ràng có cái giá của nó.

“Cứ coi như chuyện này hoàn toàn là thật chứ không phải một trò ảo thuật rẻ tiền đi. Nó thì có liên quan gì với tôi?”

“Có lẽ cậu đã biết chuyện nước Shu trả toàn bộ khoản nợ cho Kerch bằng một số lượng vàng lớn bất ngờ? Chắc cậu cũng biết vụ ám sát ngài đại sứ thương mại đến từ Novyi Zem? Và vụ ăn trộm tài liệu ở một căn cứ quân sự tại Ravka?”

Vậy ra đây là bí mật đằng sau vụ ám sát ông đại sứ trong phòng vệ sinh. Số vàng chất đầy trong ba con tàu của nước Shu chắc phải được tạo ra bởi Sáng Chế Gia. Kaz chưa hề nghe nói tới vụ trộm tài liệu ở Ravka, nhưng anh vẫn gật đầu.

“Chúng tôi tin rằng tất cả những sự việc đó đều là tác phẩm của các Grisha, chịu sự kiểm soát của chính quyền nước Shu và dưới tác động của jurda parem.” Van Eck đưa tay gãi hàm. “Cậu Brekker, tôi muốn cậu suy nghĩ điều tôi đang nói với cậu. Với những người có thể đi xuyên tường, không một hầm vàng hay pháo đài nào còn được an toàn, với những kẻ có thể làm ra vàng từ chì hay bất cứ thứ gì khác, những kẻ có thể thay đổi vật chất của thế giới này, thị trường tài chính sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Nền kinh tế thế giới có thể sụp đổ.”

“Rất đáng chú ý. Có phải đó là điều ông muốn ở tôi không, Van Eck? Ông muốn tôi đi cướp tàu? Cướp công thức bí mật đó?”

“Không, tôi muốn cậu cướp người.”

“Bắt cóc Bo Yul-Bayur á?”

“Cứu ông ta. Một tháng trước chúng tôi đã nhận được lời nhắn xin được tị nạn từ Yul-Bayur. Ông ta lo lắng về những kế hoạch của chính phủ mình đối với jurda parem, và chúng tôi đã đồng ý giúp ông ta đào thoát. Chúng tôi đã sắp đặt một cuộc gặp, nhưng đã xảy ra một vụ giao tranh nhỏ tại điểm hẹn.”

“Với người Shu?”

“Không, với người Fjerda.”

Kaz nhíu mày. Người Fjerda chắc là có gián điệp được cài sâu trong chính quyền Shu Han hoặc Kerch, nếu không họ đã không thể biết được kế hoạch của Bo Yul-Bayur nhanh chóng đến thế. “Vậy ông cử người của ông đi tìm ông ta đi.”

“Đây là một tình huống ngoại giao khá nhạy cảm. Chủ yếu là không được để chính quyền của chúng ta bị liên đới với vụ Yul-Bayur.”

“Ông nên biết rằng ông ta có thể đã chết. Người Fjerda đặc biệt thù ghét các Grisha. Bọn họ không đời nào để cho loại ma dược này tồn tại.”

“Theo nguồn tin của chúng tôi thì ông ta vẫn còn sống và đang đợi phiên toà xét xử…” Van Eck hắng giọng. “Tại Lâu Đài Băng.”

Kaz nhìn sững Van Eck hồi lâu, rồi bật cười. “Vâng, thật sung sướng khi bị các ông đánh ngất và đem về đây. Ông có thể yên tâm rằng lòng hiếu khách của ông sẽ được đền đáp vào một thời điểm thích hợp. Còn bây giờ, vui lòng bảo đám hầu cận của ông tiễn tôi ra về.”

“Chúng tôi sẵn sàng trả cho cậu năm triệu kruge.”

Kaz cất súng vào túi. Lúc này anh không lo sợ cho mạng sống của mình nữa, anh chỉ bực bội vì mất thời gian với Van Eck. “Có thể điều này làm ông ngạc nhiên, nhưng bọn lưu manh hạ tiện chúng tôi cũng trân quý mạng sống của mình chẳng kém gì các ông.”

“Mười triệu.”

“Một gia tài để làm gì khi tôi không còn sống để tiêu nó. Mũ của tôi đâu rồi? Tiết Hải Sư của ông đã bỏ nó lại trong hẻm à?”

“Hai mươi.”

Kaz khựng lại. Anh có cảm giác lạ lùng rằng đàn cá bay chạm trên lớp ốp gỗ của bức tường vừa dừng lại nửa chừng để lắng nghe. “Hai mươi triệu kruge á?”

Van Eck gật đầu. Ông ta trông có vẻ không vui.

“Tôi cần thuyết phục một ê-kíp tham gia vào một sứ mạng tự sát. Cái giá của nó sao rẻ vậy được?” Chuyện đó không hoàn toàn đúng. Bất chấp điều anh vừa nói với Van Eck, tại Barrel có hàng đống người chẳng có lí do gì để sống.

“Hai mươi triệu kruge thì khó có thể coi là rẻ,” Van Eck gắt lên.

“Chưa từng có ai đột nhập thành công Lâu Đài Băng.”

“Chính vì vậy chúng tôi mới cần cậu, cậu Brekker. Có thể là Bo Yul-Bayur đã chết, hoặc đã tiết lộ mọi bí mật của mình cho người Fjerda, nhưng chúng tôi tin rằng ít nhất chúng tôi cũng có một chút thời gian để hành động trước khi bí mật của jurda parem được đưa vào sử dụng.”

“Nếu người Shu đã có công thức…”

“Yul-Bayur khẳng định ông ta đã thành công trong việc đánh lừa thượng cấp và giữ kín công thức bí mật. Chúng tôi nghĩ họ đang sử dụng nguồn jurda parem giới hạn mà Yul-Bayur bỏ lại.”

Lòng tham quỳ gối trước tôi. Có thể Kaz đã quá tự mãn với câu nói đó. Giờ thì lòng tham đang ngả theo lời đề nghị của Van Eck. Đòn bẩy đang hoạt động, nó mạnh hơn sự kháng cự của Kaz và đẩy anh vào chỗ.

Hai mươi triệu kruge. Công việc này sẽ như thế nào đây? Kaz chẳng biết gì về gián điệp hay những xung đột giữa các quốc gia, nhưng việc giải thoát Bo Yul-Bayur khỏi Lâu Đài Băng có gì khác với việc đánh cắp những món đồ giá trị khỏi két an toàn của một thương gia kia chứ? Nơi được bảo vệ nhất thế giới, anh tự nhắc trong đầu. Anh cần một nhóm hành động đặc biệt, một nhóm người liều lĩnh không nao núng trước khả năng họ sẽ không quay trở về vì công việc này. Và anh sẽ không thể chỉ tuyển lựa trong hàng ngũ của băng Cặn Bã. Ở đó không có đủ những tài năng anh cần. Điều này đồng nghĩa với việc anh phải dè chừng phía sau lưng nhiều hơn bình thường.

Nhưng nếu họ thành công, thì kể cả sau khi Per Haskell nhận phần của ông ta, phần chia của Kaz cũng đủ để thay đổi mọi thứ và hiện thực hoá giấc mơ mà anh đã có từ cái lần đầu tiên lết ra khỏi nơi hải cảng lạnh lẽo với lòng hận thù khoét sâu trong tim. Món nợ của anh với Jordie rốt cuộc sẽ được thanh toán.

Ngoài ra còn có những mối lợi khác nữa. Hội đồng của Kerch sẽ mắc nợ anh, chưa kể phi vụ này sẽ làm tiếng tăm của anh nổi như cồn. Lọt được vào trong Lâu Đài Băng chưa từng bị đột nhập để cướp người từ biểu tượng sức mạnh quân sự và niềm tự hào của người Fjerda ư? Với một tấm huy chương như vậy trước ngực và khoản tiền thưởng kia trong tay, anh sẽ chẳng cần đến Per Haskell nữa. Anh có thể hành động theo ý mình.

Nhưng có một điều gì đó không đúng. “Tại sao lại là tôi? Tại sao là băng Cặn Bã? Ngoài kia có cả đống băng nhóm dày dạn kinh nghiệm hơn chúng tôi.”

Mikka bắt đầu ho, và Kaz trông thấy máu trên ống tay áo thằng bé.

“Ngồi xuống đi,” Van Eck nhẹ nhàng ra lệnh rồi giúp thằng bé Grisha ngồi vào một chiếc ghế, đoạn đưa cho nó chiếc khăn tay của mình. Ông ta ra hiệu cho một vệ quân. “Lấy nước.”

“Tại sao nào?” Kaz hỏi dồn.

“Cậu bao nhiêu tuổi rồi, cậu Brekker?”

“Mười bảy.”

“Cậu không hề bị tóm kể từ năm mười bốn tuổi, và vì tôi biết bây giờ cậu cũng chẳng đàng hoàng hơn gì so với ngày trước, nên tôi chỉ có thể kết luận rằng cậu có phẩm chất mà tôi cần nhất nơi một tên tội phạm: Không để bị bắt.” Van Eck khẽ mỉm cười. “Nó cũng làm tôi nghĩ đến bức DeKappel của tôi.”

“Tôi dám chắc ông không biết mình đang nói gì đâu.”

“Sáu tháng trước, một bức sơn dầu của DeKappel trị giá gần một trăm ngàn kruge treo trong nhà tôi đã biến mất.”

“Tổn thất ghê nhỉ.”

“Đúng, nhất là khi tôi tin chắc phòng tranh ở nhà mình là không thể đột nhập, và các ổ khoá trên cửa là không thể phá được.”

“Tôi nhớ đã đọc về nó ở đâu đó.”

“Phải,” Van Eck thừa nhận với một tiếng thở dài khẽ. “Kiêu hãnh là một thứ nguy hiểm. Tôi đã nhiệt tình phô trương bộ sưu tập của mình cũng như việc tôi dày công bảo vệ nó như thế nào. Thế nhưng bất chấp lực lượng bảo vệ, bầy chó, chuông báo động và đội ngũ gia nhân trung thành nhất Ketterdam, bức tranh của tôi vẫn biến mất.”

“Xin chia buồn.”

“Nó vẫn chưa xuất hiện ở bất cứ đâu trên thị trường thế giới.”

“Có lẽ tên trộm kia đã được một người mua đặt hàng trước.”

“Tất nhiên đó là một khả năng. Nhưng tôi khá tin rằng hắn đánh cắp nó vì một lí do khác.”

“Lí do gì?”

“Chỉ để chứng minh rằng hắn làm được.”

“Một sự liều lĩnh ngu ngốc.”

“Ờ thì, ai mà đoán được mọi động cơ của bọn trộm cắp kia chứ?”

“Không phải tôi, chắc chắn rồi.”

“Theo những gì tôi được biết về Lâu Đài Băng, thì kẻ đã đánh cắp bức tranh quý của tôi chính là người tôi cần cho công việc này.”

“Vậy tốt hơn ông nên đi thuê hắn ta. Hay cô ta.”

“Quả vậy. Nhưng tôi sẽ phải bằng lòng với cậu thôi.”

Van Eck nhìn thẳng vào mắt Kaz, như thể mong đợi thấy một lời thú tội trong đó. Cuối cùng, ông ta hỏi: “Vậy chúng ta coi như đã thoả thuận nhé?”

“Không nhanh thế đâu. Còn Thiện Tâm Y kia thì sao?”

Van Eck tỏ ra bối rối. “Ai cơ?”

“Ông nói là ông đã đưa thuốc cho ba Grisha thuộc ba nhóm khác nhau. Mikka là một Tiết Hải Sư, cậu ta là Tiết Độ Sư của ông. Người biến chì thành vàng là một Sáng Chế Gia. Vậy chuyện gì đã xảy ra với người Thiện Tâm Y còn lại?”

Van Eck hơi nhăn mặt đề nghị: “Cậu đi với tôi nhé, cậu Brekker?”

Không rời mắt khỏi Mikka cùng tốp vệ quân, Kaz theo chân Van Eck ra khỏi phòng và đi xuôi theo hành lang. Ngôi nhà toát lên sự giàu có: những bức tường được ốp ván gỗ mầu tối, sàn nhà lát đá hai màu trắng đen sạch bóng, mọi thứ đều có gu, tối giản một cách hoàn hảo và được gia công kĩ lưỡng. Nhưng nó cho cảm giác của một nhà mồ. Các căn phòng trống vắng, rèm cửa kéo kín, đồ đạc được phủ những tấm vải trắng, biến những gian phòng mờ tối mà họ đi ngang qua thành thứ giống như mặt biển lởm chởm băng trôi.

Hoede. Giờ thì cái tên đó đã khớp vào đúng chỗ. Tuần qua có một biến cố xảy ra trong tư dinh của Hoede ở Geldstraat. Toàn bộ chỗ đó đã được chăng dây cách li và lúc nhúc thị tuần. Kaz nghe người ta đồn về một vụ bùng phát dịch hoả đậu, nhưng ngay cả Inej cũng chẳng tìm hiểu được gì hơn.

“Đây là nhà của Hội đồng Hoede,” Kaz nói và nổi da gà. Anh không muốn bị lây bệnh, nhưng có vẻ như Van Eck và đội vệ quân của ông ta không mảy may lo ngại chuyện đó. “Tôi tưởng nơi này đang bị cách li.”

“Điều đã xảy ra tại đây không nguy hiểm cho chúng ta. Và nếu cậu làm xong việc tôi nhờ, nó sẽ không bao giờ lặp lại nữa.”

Van Eck dẫn Kaz băng qua một cánh cửa ra một khu vườn được tỉa tót cẩn thận, thơm nồng mùi hoa nghệ tây nở sớm. Mùi thơm ngọt ập vào Kaz như một cú đấm trúng mặt. Những kí ức về Jordie vẫn còn quá tươi mới trong tâm trí anh, và trong một thoáng, anh dường như không phải đang đi qua khu vườn bên bờ kênh của một thương gia giàu có, mà đang quỳ trên lớp cỏ xuân, ánh nắng mơn man đôi má, tiếng anh trai gọi về nhà văng vẳng bên tai.

Kaz lắc đầu. Mình cần một cốc cà phê đậm nhất, đắng nhất có thể, anh nghĩ bụng. Hoặc là một cú đấm vào mặt.

Van Eck đang dẫn anh tới một nhà thuyền trông ra con kênh. Ánh đèn lọt ra ngoài qua lớp cửa chớp của các ô cửa sổ tạo thành những hoa văn trên lối đi bộ trong vườn. Một thị tuần đứng nghiêm phía bên ngoài cửa trong lúc Van Eck rút chiếc chìa trong túi ra tra vào một ổ khoá lớn. Kaz đưa ống tay áo lên che mũi để cản thứ mùi khó ngửi bốc ra từ bên trong - mùi phân và nước tiểu. Hương hoa nghệ tây hoàn toàn bị át đi.

Bên trong, gian nhà thuyền được chiếu sáng bởi hai ngọn đèn lồng thuỷ tinh treo trên tường. Một nhóm vệ quân đang đứng đối mặt với một căn buồng thép lớn, mảnh thuỷ tinh vương vãi đầy trên mặt sàn dưới chân họ. Một số mặc bộ đồng phục tím của đội thị tuần, số khác mặc chế phục xanh biển của nhà Hoede. Qua thứ mà Kaz vừa nhận ra là một ô cửa sổ, anh trông thấy một người vệ quân nữa đang đứng trước cái bàn trống và hai chiếc ghế lật nghiêng. Giống như những người khác, anh ta đứng đó với hai cánh tay xuôi theo thân mình, khuôn mặt trơ trơ, mắt hướng về phía trước, không tập trung vào đâu cả. Van Eck chỉnh hướng một trong hai ngọn đèn, và Kaz trông thấy một người nằm dưới sàn trong bộ đồng phục tím, mắt nhắm nghiền.

Van Eck thở dài, khom xuống lật thi thể lại. “Chúng tôi lại mất thêm một người nữa,” ông lên tiếng.

Người thanh niên còn rất trẻ, hàng ria mép chỉ mới lún phún.

Van Eck gọi người vệ quân ngoài cửa vào, và cùng với sự giúp sức của một người tuỳ tùng khác, họ khiêng cái xác ra khỏi phòng. Những người vệ quân còn lại không hề phản ứng, chỉ tiếp tục nhìn đăm đăm phía trước.

Kaz nhận ra một trong số họ - Henrik Dahlman, trưởng đội thị tuần.

“Dahlman?”Anh gọi, nhưng người đàn ông không đáp. Kaz vẫy tay trước mặt anh ta, thậm chí búng tai anh ta một cái thật đau.

Không có gì ngoài một cái chớp mắt chậm rãi và thờ ơ. Kaz nâng súng lên, chĩa thẳng vào trán của Dahlman. Anh lên đạn. Tay đội trưởng không hề nao núng hay phản ứng lại. Đồng tử của mắt anh ta cũng không co lại.

“Anh ta coi như chết rồi,” Van Eck nói. “Bắn đi. Thổi tung bộ óc của anh ta đi. Anh ta sẽ không phản đối, và những người kia cũng vậy.

Kaz hạ vũ khí xuống, cảm giác lạnh toát nơi sống lưng. “Chuyện gì thế này? Chuyện gì đã xảy ra với họ?”

“Đó là một Grisha Tâm Y giúp việc theo giao kèo của Hội đồng Hoede. Ông ta cho rằng vì cô ta là một Thiên Tâm Y chứ không phải Độc Tâm Y, nên đã chọn cô ta để thử parem cho an toàn.”

Cũng khá khôn ngoan. Kaz đã từng chứng kiến Độc Tâm Y ra tay. Họ có thể phá vỡ các tế bào của bạn, làm tim bạn nổ tung, rút cạn không khí trong phổi bạn, hoặc làm chậm nhịp tim đến mức bạn rơi vào hôn mê. Họ có thể làm tất cả những chuyện đó mà không hề chạm một ngón tay nào vào bạn. Nếu những lời Van Eck nói là đúng thì không nên cho một Độc Tâm Y dùng jurda parem. Do vậy họ đã thử thuốc trên một Thiện Tâm Y. Nhưng rõ ràng mọi chuyện đã không diễn ra như dự định.

“Các ông đã cho cô ta dùng thuốc, và cô ta đã giết chủ nhân của mình?”

“Không hẳn thế,” Van Eck hắng giọng. “Họ đã nhốt cô ta trong cái buồng kiên cố này. Nhưng chỉ vài giây sau khi dùng parem, cô ta đã kiểm soát người vệ quân đứng trong buồng…”

“Bằng cách nào?”

“Chúng tôi không biết chính xác. Nhưng bất luận cách thức đó là gì thì nó cũng đã giúp cô ta khống chế những vệ quân này.”

“Không thể thế được.”

“Sao lại không? Bộ não chỉ là một cơ quan, một tập hợp của các tế bào và xung lực. Một Grisha dưới ảnh hưởng của jurda parem có thể điều khiển những xung lực đó chứ?”

Sự ngờ vực lộ rõ trên khuôn mặt của Kaz.

“Cứ nhìn những người này mà xem,” Van Eck nhấn mạnh. “Cô ta đã bảo họ chờ. Và đó chính xác là điều họ làm kể từ khi ấy.”

Kaz quan sát nhóm người kĩ hơn. Đôi mắt họ không dại đi hay đục ngầu. Cơ thể họ cũng không thả lỏng. Họ đang chờ đợi. Anh cố nén cơn rùng mình. Anh đã từng chứng kiến nhiều chuyện dị thường, nhưng chưa bao giờ mục kích một cảnh tượng giống như thứ mình đang thấy.

“Điều gì đã xảy ra với Hoede?”

“Cô ta ra lệnh cho ông ta mở cửa buồng, và sau khi ông ta làm theo, cô ta khiến ông ta cắt một ngón tay cái của mình. Chúng tôi chỉ biết câu chuyện thông qua thằng bé phụ bếp có mặt lúc ấy. Cô ta đã không làm hại nó. Thằng bé nói chính Hoede đã tự cắt ngón tay cái của ông ta, với một nụ cười trên môi.”

Kaz không thích ý tưởng bị Grisha điều khiển này nọ trong đầu. Nhưng anh cũng không ngạc nhiên khi Hoede bị thứ mà ông ta đã trải qua. Trong cuộc nội chiến Ravka, rất nhiều Grisha phải đi lánh nạn và trả khoản chi phí đắt đỏ cho chuyến vượt biển tới Kerch thông qua các giao kèo làm việc mà không nhận ra họ đã tự biến mình thành nô lệ.

“Ông ta chết rồi à?”

“Hội đồng Hoede mất rất nhiều máu, ông ta đã được gia đình và đám hầu cận đưa về quê. Hiện tại ông ta cũng ở trong tình trạng giống như những người này.”

“Nữ Grisha kia đã quay lại Ravka à?” Kaz hỏi.

Van Eck ra hiệu cho Kaz ra khỏi nhà thuyền và khoá cửa lại sau lưng họ.

“Có lẽ cô ta đã cố làm chuyện đó,” ông đáp trong lúc họ quay lại lối đi băng qua khu vườn và đi dọc theo bên hông ngôi nhà. “Cô ta đã đánh cắp một chiếc thuyền nhỏ, và chúng tôi đoán cô ta có ý định quay về Ravka. Nhưng cách đây hai hôm, xác của cô ta được tìm thấy ở gần cảng số Ba. Chúng tôi nghĩ cô ta bị chết đuối trong lúc cố quay trở lại đây.”

“Tại sao?”

“Để kiếm thêm jurda parem.”

Đôi mắt long lanh và làn da trắng bệch của Mikka bỗng hiện lên trong đầu Kaz. “Nó khiến người ta bị nghiện?”

“Theo như chúng tôi quan sát thì có vẻ như chỉ cần một liều cũng đủ gây nghiện. Sau khi thuốc hết tác dụng, nó làm cho cơ thể của Grisha rệu rã, và sự thèm thuốc bùng lên rất dữ dội. Cực kì hại sức.”

Hại sức. Nói như vậy còn hơi nhẹ. Hội đồng Thuỷ triều kiểm soát sự ra vào tại các hải cảng của Ketterdam. Nếu cô gái Thiện Tâm Y kia cố gắng quay lại trong đêm trên một con thuyền nhỏ, cô ta sẽ không có cơ may nào trong việc lội ngược dòng nước. Kaz nghĩ đến khuôn mặt hốc hác và cơ thể gần như bơi trong bộ đồ của Mikka. Ma dược đã làm thằng bé trở thành như vậy. Chưa hết cơn phê jurda parem, nó đã bắt đầu thèm thuốc. Trông thằng bé như sắp ngã vật ra đến nơi. Một Grisha có thể tiếp tục như vậy được bao lâu?

Đó là một câu hỏi thú vị, nhưng không liên quan với anh. Họ đã đi tới cổng chính của dinh thự. Đã đến lúc hạ màn.

“Ba mươi triệu kruge,” Kaz lên tiếng.

“Chúng ta đã thoả thuận hai mươi mà!” Van Eck lắp bắp.

“Là ông ra giá hai mươi. Nhưng rõ ràng ông đang ở trong tình thế tuyệt vọng.” Kaz liếc nhìn về phía nhà thuyền, nơi những con người xấu số đang chờ chết. “Và giờ thì tôi đã hiểu nguyên nhân.”

“Hội đồng Thương buôn sẽ cắt đầu tôi mất.”

“Họ sẽ ca ngợi ông đến tận mây xanh một khi ông đưa được Bo Yul-Bayur đến nơi mà ông định sẽ che giấu ông ta.”

“Novyi Zem.”

Kaz nhún vai. “Ông có nhét ông ta trong một cái bình cà phê thì tôi cũng chẳng bận tâm.”

Van Eck nhìn thẳng vào mắt Kaz. “Cậu đã chứng kiến điều mà thứ thuốc này có thể gây ra. Tôi bảo đảm với cậu đó chỉ là sự khởi đầu. Nếu jurda parem được phổ biến trên thế giới, chiến tranh là điều không tránh khỏi. Những tuyến đường giao thương của chúng ta sẽ bị cắt đứt, các thị trường sẽ sụp đổ. Kerch sẽ không thể tồn tại. Mọi hi vọng của chúng tôi đều dồn vào cậu, cậu Brekker. Nếu cậu thất bại, toàn thế giới sẽ hứng chịu hậu quả.”

“Ồ, còn tệ hơn thế nữa kìa, thưa ông. Nếu tôi thất bại, tôi sẽ không được trả tiền.”

Vẻ ghê tởm trên khuôn mặt Van Eck xứng đáng được lưu truyền hậu thế trên một bức tranh của DeKappel.

“Đừng tỏ ra thất vọng như thế chứ. Thử tưởng tượng mà xem, ông sẽ còn sốc như thế nào nếu khám phá ra một con chuột cống như tôi cũng có lòng yêu nước. Khi đó ông sẽ phải giãn cặp môi đang cong cớn kia và cư xử lễ độ hơn với tôi.”

“Cảm ơn vì đã miễn cho tôi sự bất tiện đó,” Van Eck nói với giọng khinh khỉnh. Ông ta mở cổng, nhưng rồi dừng lại nửa chừng. “Tôi tự hỏi một thằng nhóc khôn lanh như cậu sẽ làm như thế nào trong những hoàn cảnh khác.”

Hỏi Jordie ấy, Kaz thầm nghĩ với một chút cay đắng. Nhưng anh chỉ nhún vai. “Thì tôi chỉ việc đánh cắp từ những kẻ giàu hơn. Ba mươi triệu kruge.”

Van Eck gật đầu. “Ba mươi. Nhất trí.”

“Nhất trí,” Kaz đáp. Hai người bắt tay nhau.

Khi bàn tay được chăm chút cẩn thận của Van Eck chạm vào những ngón tay đeo găng da của Kaz, ông ta nheo mắt lại.

“Tại sao cậu lại đeo găng vậy, cậu Brekker?”

Kaz nhướng mày. “Tôi dám cá ông đã nghe họ kể đầy tai về chuyện đó.”

“Toàn những điều khủng khiếp.”

Kaz cũng đã nghe đầy tai. Bàn tay của Brekker lấm máu. Bàn tay của Brekker đầy sẹo. Brekker có móng vuốt thay cho các ngón tay bình thường, vì anh ta có một phần quỷ trong người. Chạm vào tay Brekker, người ta sẽ phải bỏng như chạm vào lưu huỳnh - chỉ cần một tiếp xúc nhẹ với lớp da trần là đủ khiến da thịt họ teo lại và hoại tử.

“Ông cứ việc chọn lấy một cái,” Kaz đáp trong lúc biến vào bóng đêm, tâm trí đã bắt đầu nghĩ tới khoản tiền ba mươi triệu kruge và ê-kíp mà anh cần để thực hiện phi vụ. “Tất cả đều có một phần sự thật trong đó.”