Chương 5 KAZ
Kaz men theo Đông Stave đi về phía cảng, xuyên qua phần chóp khu cờ bạc của Barrel. Cái mớ rối rắm gồm các con phố nhỏ và những con rạch hẹp với tên gọi Barrel được đóng khung trong hai con kênh lớn, Đông Stave và Tây Stave, mỗi con kênh tiếp đón một loại khách riêng. Các toà nhà của Barrel không giống với bất kì đâu trong Ketterdam, chúng cao hơn, rộng hơn, sơn màu sặc sỡ, lôi kéo sự chú ý của khách qua đường - Rương Báu, Nút Vàng, Thuyền Của Weddell. Những sòng bạc tốt nhất nằm về phía bắc, trong khu bất động sản cao cấp Lid, chỗ đoạn kênh gần các hải cảng nhất, với vị thế thuận lợi để thu hút khách du lịch và thuỷ thủ.
Quạ Đen thì không, Kaz trầm ngâm suy nghĩ trong lúc ngước nhìn mặt tiền hai màu đen và đỏ của toà nhà. Phải tốn rất nhiều công sức để dẫn dụ khách du lịch cũng như các thương gia có máu cờ bạc đi xuống tận đây tìm thú tiêu khiển. Lúc này chuông nhà thờ đã sắp điểm bốn tiếng, nhưng khách khứa phía bên ngoài câu lạc bộ vẫn còn tấp nập lắm. Kaz nhìn dòng người di chuyển qua các cột trụ của cửa ra vào, dưới con mắt dò xét của con quạ bạc xỉn màu vì bị oxy hoá đang dang cánh phía trên cửa. Chúa ban phước cho đàn bồ câu, Kaz nhủ thầm. Chúa ban phước cho tất cả những kẻ tốt bụng hào phóng sẵn sàng dốc cạn hầu bao vào két sắt của băng Cặn Bã và gọi đó là một trò tiêu khiển.
Ba tay cò mồi trước cửa đang hò hét chèo kéo các vị khách tiềm năng, ra rả quảng cáo nước uống miễn phí, cà phê nóng và một luật chơi công bằng nhất Ketterdam. Kaz gật đầu chào họ rồi đi tiếp lên phía bắc.
Chỉ có một sòng bạc khác ở Stave hấp dẫn được anh: Cung Lục Ngọc, niềm hãnh diện và vui sướng của chủ nhân nó - Pekka Rollins. Toà nhà được sơn màu xanh lá cây xấu xí, trang trí bằng mấy cái cây giả trĩu nặng các đồng vàng đồng bạc giả. Toàn bộ nơi này được tân trang như một sự vinh danh di sản Kaelish của Rollins và băng Kim Sư của lão ta. Ngay cả những cô gái làm việc tại quầy đổi xèng và các bàn chơi bài cũng mặc những chiếc áo lụa xanh lá lấp lánh và nhuộm tóc thành màu đỏ sẫm để bắt chước vẻ ngoài của các thiếu nữ đảo Wandering. Khi đi ngang qua nơi đó, Kaz ngước nhìn những đồng vàng giả, để cho cơn giận dữ tràn vào trong đầu mình. Anh cần nó như một sự nhắc nhở về thứ mình đã đánh mất, thứ mà anh nhất định sẽ giành lấy. Anh cần nó để chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến mạo hiểm lần này.
“Từng bước một,” anh lẩm nhẩm với chính mình. Đó là những chữ duy nhất giúp kiểm soát được cơn giận dữ của anh và ngăn không cho anh lao qua những cánh cửa sơn hai màu vàng và xanh loè loẹt kia để hỏi tội Rollins. Từng bước một. Đó là lời hứa giúp anh ngủ hằng đêm, hoạt động hằng ngày, và đẩy lùi bóng ma của Jordie. Bởi lẽ một cái chết nhanh chóng là quá tốt cho Pekka Rollins.
Kaz quan sát dòng khách ra vào Cung Lục Ngọc và bắt gặp các cò mồi của mình. Đó là những người đàn ông và phụ nữ được anh thuê để lôi kéo khách hàng của Pekka đi về phía nam, với lời hứa hẹn về những cơ hội tốt hơn, giải thưởng lớn hơn, gái đẹp hơn.
“Anh đi đâu về mà mặt mũi tươi tỉnh thế?” Một người nói với người kia bằng giọng to hơn cần thiết.
“Vừa từ Quạ Đen về. Thắng được hai trăm kruge trong có hai giờ đồng hồ đấy.”
“Không phải thế chứ!”
“Thật đấy! Tôi chỉ lên đây để uống chút gì đó và gặp thằng bạn. Sao cậu không đi cùng chúng tôi luôn nhỉ?”
“Quạ Đen! Sao lại không?”
“Đi nào, tôi sẽ đãi cậu một chầu. Tôi bao cả quán luôn!”
Và hai người vừa cười vừa bỏ đi, để lại những người khách quanh đó thắc mắc tự hỏi liệu mình có nên quá bộ xuôi theo dòng kênh thêm vài cây cầu để xem vận may ở đó có tốt hơn không. Lòng tham, người đầy tớ của Kaz, lôi kéo họ xuống phía nam như người ta thổi ống sáo thần kì.
Kaz đã cẩn thận luân chuyển đội cò mồi để đám bảo vệ của Pekka không phát hiện ra, và với từng người khách một, anh hút bớt công việc làm ăn của Cung Lục Ngọc. Đây là một trong những biện pháp nhỏ nhặt mà anh có để tự củng cố bản thân trước Pekka - chặn các chuyến tàu chở jurda của hắn, bắt hắn đóng phí ra vào Cảng số Năm, giảm tiền thuê nhà để chèo kéo khách thuê của hắn, và dần dần, dần dần kéo tuột những sợi chỉ dệt nên cuộc sống của hắn.
Bất chấp mấy thông tin dối trá mà anh đã cho lan truyền và những lời đe dọa đối với Geels đêm qua, Kaz không phải là một thằng con hoang. Thậm chí anh còn không phải là người Ketterdam. Anh lên chín và Jordie mười ba khi họ lần đầu tiên đến đây, với tấm séc có được sau khi bán trang trại của bố được giấu kĩ ở túi trong áo khoác của Jordie. Kaz còn nhớ như in ngày hôm đó, khi anh đi dạo khu Stave với đôi mắt thán phục, bàn tay nắm chặt tay Jordie để không bị lạc trong đám đông. Anh căm hận vì hai đứa đã quá trẻ con, hai con bồ câu ngờ nghệch chờ bị vặt lông. Nhưng hai thằng nhóc đó đã biến mất từ lâu, chỉ còn Pekka Rollins ở lại để chờ sự trừng phạt.
Một ngày kia Rollins sẽ phải quỳ gối đến gặp Kaz, cầu xin sự giúp đỡ của anh. Nếu Kaz thực hiện thành công phi vụ của Van Eck, ngày đó sẽ đến nhanh hơn nhiều so với sự kì vọng của anh. Từng bước một, ta sẽ tiêu diệt ngươi.
Nhưng nếu muốn có hi vọng đột nhập được vào Lâu Đài Băng, anh cần phải tập hợp được một đội ngũ thích hợp, và trong những giờ tới đây anh sẽ tiến gần hơn nữa trong việc thu phục hai mảnh ghép trọng yếu của bức tranh.
Kaz rẽ vào trong một lối đi chạy dọc theo bờ một con kênh nhỏ. Các khách du lịch và thương gia thích đi lại trên những con phố được chiếu sáng, do vậy lưu lượng người tại đây ít hơn, Kaz di chuyển nhanh hơn. Chẳng mấy chốc, những ánh đèn và âm nhạc của Tây Stave đã xuất hiện, hai bờ kênh đặc kín những con người đủ mọi tầng lớp và quốc tịch đi tìm trò giải khuây.
Tiếng nhạc tràn ra từ các phòng tiếp khách qua những cánh cửa mở rộng, phô bày những người đàn ông, đàn bà nằm dài ở trường kỉ, trên người khoác thứ trang phục loè loẹt làm từ những mảnh lụa vụn. Những người biểu diễn xiếc đi thăng bằng trên mấy sợi dây căng ngang qua kênh, kim tuyến dát đầy người, trong lúc đám nghệ sĩ đường phố ra sức trổ tài, mong kiếm được vài đồng xu từ người qua đường. Còn cánh bán hàng rong thì la hét chèo kéo những chiếc gondel sang trọng của các thương gia giàu có hoặc những con thuyền lớn hơn chở đầy khách du lịch và thuỷ thủ từ Lid đi vào.
Rất nhiều du khách chưa từng đặt chân vào các nhà chứa của Tây Stave. Họ chỉ đến để quan sát đám đông, vốn dĩ đã là một thứ đáng xem. Nhiều người chọn đi thăm khu vực này của Barrel trong trang phục cải trang - đeo mạng hoặc mặt nạ, hay khoác áo choàng kín mít chỉ chừa lại đôi mắt. Họ mua trang phục ở một trong những tiệm chuyên kinh doanh nằm bên bờ các con kênh lớn, để thỉnh thoảng lẻn đi vui thú một ngày hay cả tuần lễ, hoặc cho đến khi tiêu cạn quỹ đen. Họ mặc giả làm những nhân vật của Hài kịch Thô lỗ: Ngài Đỏ thẫm, Cô dâu thất lạc, hoặc đeo chiếc mặt nạ kì dị có cặp mắt lồi của Gã điên. Ngoài ra còn có nhóm Chó rừng, gồm những thanh niên bày trò quậy phá khắp nơi trong Barrel và đeo mặt nạ sơn mài màu đỏ của thầy bói Suli.
Kaz còn nhớ lần đầu tiên Inej trông thấy những chiếc mặt nạ chó rừng trong một tủ kính bày hàng, cô đã không thể nén được sự phẫn nộ của mình. “Thầy bói người Suli thực thụ rất hiếm. Họ là những người có phép thánh. Mấy cái mặt nạ được chuyền tay nhau như món đồ chơi tiệc tùng này là một biểu tượng thiêng liêng.”
“Tôi đã từng thấy các ông bà thầy bói người Suli bán chúng trên những đoàn xe lữ hành hoặc các chuyến tàu hành lạc, Inej. Bọn họ chẳng có vẻ gì là thần thánh cả.”
“Đó chỉ là những kẻ mạo danh. Tự biến mình thành trò hề cho anh và cái đám như anh.”
“Đám như tôi?” Kaz bật cười.
Inej phẩy tay với vẻ mặt kinh tởm. “Shevrati” cô đã nói như thế. “Những kẻ không biết gì. Họ cười vào các anh phía sau lớp mặt nạ đó.”
“Không phải tôi, Inej. Tôi chưa bao giờ bỏ phí một xu nào để nghe tương lai của mình được lảm nhảm bởi một ai đó, dù là thánh nhân hay bọn lừa đảo.”
“Định mệnh đã an bài sẵn cho tất cả chúng ta rồi, Kaz.”
“Vậy là định mệnh đã đưa cô khỏi gia đình và tống vào một nhà chứa ở Ketterdam? Hay đó chỉ là vận rủi?”
“Tôi chưa biết,” cô đã đáp như vậy với giọng lạnh lùng.
Trong những lúc như thế, anh nghĩ cô ghét anh.
Kaz len lỏi đi qua đám đông như một bóng đen giữa hỗn hợp màu sắc. Mỗi nhà chứa đều có một điểm đặc biệt, ít nhiều dễ nhận biết. Anh đi ngang qua Diên Vĩ Xanh, Mèo Hoang, những gã đàn ông râu ria bặm trợn trên các cửa sổ của Lò Rèn, rồi Đèn Mờ, Liễu Rủ, những cô nàng tóc vàng ở Lầu Tuyết, và dĩ nhiên cả Vườn Thú, còn được biết đến với tên gọi Nhà Viễn xứ, nơi Inej từng phải khoác lên người những chiếc áo lụa Suli giả. Anh để ý thấy Dì Heleen trong bộ áo lông công và cái vòng cổ choker đính kim cương nổi tiếng đang tiếp khách trong căn phòng mạ vàng của mình. Bà ta điều hành Vườn Thú, cung cấp các cô gái, bảo đảm họ biết cư xử. Khi trông thấy Kaz, Heleen mím môi thành một lằn kẻ chua chát và nâng li lên, một cử chỉ hàm ý đe dọa nhiều hơn là chào mừng. Mặc kệ bà ta, anh đi tiếp.
Nhà Hồng Bạch là một trong những nhà chứa cao cấp của Tây Stave. Nó có bến thuyền riêng, mặt tiền ốp đá trắng trông giống với tư dinh của thương gia hơn là một nhà chứa. Các chậu cây trang trí cửa sổ luôn mọc đầy giống hồng leo mầu trắng, hương hoa nồng nàn tỏa ngát cả một đoạn kênh.
Phòng khách của ngôi nhà còn nồng nặc mùi hương hơn. Các bình thạch cao cắm đầy hồng bạch, còn những người đàn ông, đàn bà - một số đeo mạng hoặc mặt nạ, số khác để lộ mặt - chờ đợi trên trường kỉ mầu ngà, uống món rượu vang gần như không màu và nhấm nháp những chiếc bánh vani nhỏ tẩm rượu mùi hạnh nhân.
Cậu trai ngồi ở bàn mặc một bộ comlê nhung màu kem, ve áo gài một bông hồng bạch. Cậu ta có mái tóc trắng và đôi mắt không màu. Ngoại trừ đôi mắt, cậu trông giống với một người bạch tạng, nhưng Kaz tình cờ biết một Grisha làm thuê đã biến đổi cậu ta cho hợp với sự bài trí.
“Thưa ngài Brekker,” cậu ta nói, “Nina đang tiếp khách.”
Kaz gật đầu rồi đi vào một hành lang nằm khuất sau một chậu hoa hồng, cố cưỡng lại ham muốn kéo áo lên che mũi. Chú Felix, ông trùm của Hồng Bạch, thích nói rằng các cô gái của ông ta cũng ngọt ngào như những đoá hồng, nhưng điều nực cười đó chỉ có thể lừa được các khách hàng. Giống hoa hồng bạch này, thứ duy nhất chịu được loại khí hậu ẩm ướt của Ketterdam, vốn dĩ không có mùi thơm. Tất cả các bông hồng ở đây đều được xịt nước hoa.
Kaz lướt ngón tay dọc theo tấm ván gỗ ốp tường phía sau chậu hoa và ấn ngón cái vào một cái rãnh. Bức tường mở ra, và anh trèo lên một cầu thang xoắn dành riêng cho nhân viên.
Phòng của Nina nằm ở tầng ba. Phòng ngủ bên cạnh đang mở toang cửa và không có người nên Kaz lẻn vào trong, dời một bức tranh tĩnh vật sang bên cạnh, rồi ghé mặt sát vào tường. Lỗ nhìn trộm là một đặc sản của mọi nhà chứa. Chúng là phương tiện để giữ cho các nhân viên an toàn và trung thực, đồng thời cũng mang lại niềm vui thú cho những kẻ thích nhìn lén người khác hành lạc. Kaz đã không ít lần chứng kiến đám cư dân của các khu ổ chuột hành sự trong các góc hẻm khuất, đến nỗi chuyện đó không còn làm anh hứng thú nữa. Ngoài ra, anh thừa biết bất cứ ai nhòm qua cái lỗ này với hi vọng tìm được một chút kích thích sẽ chỉ thất vọng tràn trề.
Một người đàn ông nhỏ thó hói đầu mặc quần áo đầy đủ đang ngồi bên cái bàn tròn phủ vải màu ngà. Bàn tay ông ta xếp lại ngay ngắn bên cạnh một khay cà phê bằng bạc chưa được đụng tới. Nina Zenik đứng phía sau ông ta, quấn mình trong bộ kefta bằng lụa đỏ thông báo thân phận Grisha Độc Tâm Y của cô. Nina áp một bàn tay vào trán của ông khách, tay còn lại đặt sau gáy ông ta. Cô cao lớn và có thân hình như bức tượng bán thân được tạc bởi một bàn tay điêu luyện gắn ở đầu các con thuyền. Hai người im lặng như thể bị đông cứng tại chỗ. Trong căn phòng không có lấy một cái giường, chỉ có chiếc trường kỉ để cô cuộn mình nằm ngủ.
Khi Kaz hỏi Nina nguyên nhân của chuyện đó, cô chỉ đáp ngắn gọn: “Tôi không muốn người ta nghĩ này nọ.”
“Đàn ông thì không cần đến giường chiếu cũng đã nghĩ này nọ rồi, Nina.”
Nhưng Nina đã chớp chớp hàng mi, đáp lại: “Cậu thì biết gì về chuyện đó, hở Kaz? Cởi đôi găng tay đó ra đi, để xem chúng ta sẽ có suy nghĩ gì.”
Kaz đã lườm cô bằng cặp mắt lạnh lùng cho đến khi cô cụp mắt xuống. Anh không thiết tha chuyện tán tỉnh Nina Zenik, và anh tình cờ cũng biết cô không hề để mắt đến anh. Cô chỉ thích đùa bỡn với mọi thứ. Anh từng thấy cô đá lông nheo với một đôi giày mà mình thích trong một tủ kính bày hàng.
Nina và người đàn ông ngồi đó, không nói gì, trong lúc thời gian trôi qua, và khi chiếc đồng hồ treo tường đổ chuông, ông ta đứng lên hôn tay cô.
“Anh đi đi,” cô nói với giọng trịnh trọng. “Bình an nhé.”
Người đàn ông hôn tay Nina lần nữa, với đôi mắt ngấn lệ. “Cảm ơn em.”
Ngay khi ông khách đi khuất trên hành lang, Kaz bước ra khỏi căn phòng trống và gõ cửa phòng Nina.
Cô thận trọng mở hé cửa, giữ nguyên sợi xích an toàn. “Ồ”, cô thốt lên khi trông thấy Kaz. “Ra là anh.”
Cô không tỏ ra đặc biệt vui sướng khi thấy Kaz. Cũng không ngạc nhiên. Việc có Kaz Brekker xuất hiện trước cửa hiếm khi là điềm lành. Nina tháo dây xích và để anh bước vào phòng trong khi cô trút bỏ lớp áo kefta, phơi bày bộ đồ lót bằng satin không thể mỏng hơn.
“Thánh thần ơi, tôi ghét cái thứ này quá đi.” Cô vừa nói vừa đá văng chiếc áo đi và lôi ra từ trong ngăn kéo một cái áo choàng ngủ đã cũ sờn.
“Nó bị làm sao?” Kaz thắc mắc.
“Nó là đồ giả. Lại còn gây ngứa nữa.” Cái áo kefta đấy được sản xuất tại Kerch, không phải tại Ravka - một bộ đồ hoá trang chứ không phải đồng phục. Kaz biết Nina không bao giờ mặc nó ngoài đường vì đó là hành động quá liều lĩnh đối với một Grisha. Việc Nina gia nhập Cặn Bã đồng nghĩa với bất kì ai động đến cô sẽ có nguy cơ bị băng nhóm này trả thù, nhưng tất cả cũng vô nghĩa nếu như khi đó cô đã lênh đênh trên một con thuyền nô lệ đi tới một phương trời chẳng ai biết được.
Nina buông mình xuống một chiếc ghế bên cạnh cái bàn, bỏ chân ra khỏi đôi dép đi trong nhà trang trí cầu kì và bấm ngón chân vào tấm thảm nhung màu trắng. “Ôi, đã quá!” Cô khoan khoái thốt lên, trước khi tọng một chiếc bánh ngọt để trong khay cà phê vào miệng và lúng búng nói tiếp. “Anh có việc gì vậy, Kaz?”
“Vụn bánh rơi xuống khe ngực cô kìa.”
“Kệ,” Nina cắn thêm miếng bánh nữa. “Đói lắm rồi.”
Kaz lắc đầu, nửa thích thú nửa ấn tượng trước sự nhanh chóng của Nina khi cô rũ bỏ vai một nữ tu Grisha. Cô mà đi diễn kịch thì sẽ thành công thực sự. “Có phải là Van Aakster không, gã thương gia vừa rồi ấy?” Kaz hỏi.
“Phải.”
“Vợ ông ta mới chết cách đây một tháng, và công việc làm ăn của ông ta xuống dốc từ đó. Giờ thì ông ta đến gặp cô. Liệu chúng ta có thể trông mong một sự xoay chuyển tình thế nào không?”
Nina không cần đến giường, vì cô là chuyên gia trong việc điều khiển cảm xúc: vui vẻ, bình thản, tự tin. Hầu hết các Tâm Y tập trung vào cơ thể - để giết hoặc để cứu chữa - nhưng Nina cần một công việc giúp cô ở lại Ketterdam và không gặp rắc rối. Thế nên thay vì đánh liều mạng sống và kiếm thật nhiều tiền với tư cách một kẻ đánh thuê, cô làm chậm nhịp tim, hơi thở, thư giãn cơ bắp. Cô kiếm thêm bằng cách đi làm Thợ May cho đám nhà giàu Kerch muốn xoá nhăn hoặc gọt hàm, nhưng phần lớn thu nhập của cô là từ công việc điều chỉnh tâm trạng. Người ta tìm đến cô trong tâm thế cô độc, sầu thảm, hoặc buồn bã vô cớ, để được ra về với cảm giác có nơi nương tựa, mọi muộn phiền tan biến. Hiệu quả đó không kéo dài, nhưng đôi khi chỉ cần một chút ảo tưởng của hạnh phúc cũng đủ để làm các khách hàng của cô có can đảm đối mặt với cuộc đời thêm một ngày. Nina bảo là nó có liên quan sao đó với các tuyến nội tiết, nhưng Kaz không quan tâm lắm về chi tiết, chừng nào cô còn xuất hiện mỗi khi anh cần và chi trả hoa hồng cho Per Haskell đúng hạn.
“Tôi nghĩ anh sẽ thấy một sự thay đổi,” Nina đáp. Cô đã ăn xong chiếc bánh cuối cùng và mút ngón tay thích thú, trước khi bỏ cái khay ra ngoài cửa và nhấn chuông gọi người dọn dẹp. “Van Aakster bắt đầu đến đây từ cuối tuần trước, ngày nào cũng đến.”
“Tuyệt vời.” Kaz ghi nhớ thông tin vào đầu để mua một số cổ phiếu đang rớt giá của công ty Van Aakster. Ngay cả khi sự thay đổi tâm trạng của ông ta là nhờ Nina, việc kinh doanh cũng sẽ khởi sắc. Anh ngần ngừ một chút rồi nói: “Cô làm cho ông ta cảm thấy khá hơn, quên đi ưu phiền này nọ… nhưng cô có buộc ông ta làm gì đó được không? Lãng quên bà vợ quá cố chẳng hạn?”
“Thay đổi các kết nối trong đầu ông ta á? Đừng có dở hơi thế chứ.”
“Bộ não cũng chỉ là một cơ quan trong cơ thể,” Kaz nói, nhắc lại lời của Van Eck.
“Phải, nhưng nó cực kì phức tạp. Kiểm soát hoặc làm thay đổi suy nghĩ của người khác… hừm, nó không giống như làm chậm nhịp tim hoặc phóng thích một hoá chất nào đó để cải thiện tâm trạng của họ. Có quá nhiều tham số. Không Grisha nào có thể làm được chuyện đó.”
Chưa thôi, Kaz tự nhủ. “Vậy là cô chỉ điều trị triệu chứng chứ không phải căn nguyên.”
Nina nhún vai. “Ông ta đang né tránh sự lo phiền, chứ không xử lí nó. Nếu chọn tôi làm giải pháp, ông ta sẽ không bao giờ có thể vượt qua cái chết của vợ.”
“Vậy cô sẽ xua đuổi ông ta chứ? cô sẽ khuyên ông ta tìm một người vợ mới và thôi không ám cô nữa chứ?”
Nina chải mái tóc màu nâu nhạt bằng một chiếc lược và liếc xéo Kaz trong gương. “Per Haskell có ý định xoá nợ cho tôi à?”
“Không hề.”
“Vậy thì Van Aakster nên được thoải mái đau buồn theo cách của ông ta. Tôi phải tiếp một khách hàng trong vòng nửa tiếng nữa, Kaz. Anh cần gì ở tôi?”
“Khách hàng của cô sẽ phải chờ. Cô biết gì về jurda parem?”
Nina nhún vai. “Có nhiều lời đồn thổi, nhưng tôi thấy toàn những thứ vớ vẩn.” Ngoại trừ Hội đồng Thuỷ triều, số ít Grisha làm việc ở Ketterdam quen biết nhau và sẵn sàng chia sẻ thông tin. Hầu hết đều chạy trốn một thứ gì đó và không muốn thu hút sự chú ý của bọn buôn nô lệ hoặc của chính quyền Ravka.
“Không chỉ là tin đồn đâu.”
“Tiết Khí Sư biết bay, Tiết Hải Sư tàng hình á?”
“Sáng Chế Gia biến chì thành vàng.” Kaz thò tay vào trong túi và lôi cục kim loại màu vàng ra, ném cho Nina. “Thật đấy.”
“Sáng Chế Gia tạo ra vải vóc. Họ làm việc với kim loại và sợi vải. Họ không thể biến thứ này thành thứ khác.” Nina giơ cục kim loại ra trước ánh sáng. “Anh có thể kiếm được cái này từ bất cứ nơi đâu,” cô nói, giống y như lời phản bác của Kaz với Van Eck trước đó không lâu.
Không đợi mời, Kaz ngồi xuống chiếc trường kỉ bọc nhung và duỗi dài cái chân yếu của mình. “Jurda parem là có thật, Nina, và nếu cô vẫn là một binh sĩ Grisha ngoan đạo như tôi nghĩ, thì cô sẽ muốn nghe điều mà nó gây ra cho những người như cô.”
Nina xoay xoay cục vàng trong tay, rồi siết dây áo choàng ngủ chặt hơn quanh eo và co mình lại ở đầu kia của chiếc trường kỉ. Một lần nữa, Kaz lại kinh ngạc với sự biến đổi của Nina. Trong căn phòng này, Nina đóng vai mà các khách hàng của cô muốn thấy - một Grisha mạnh mẽ, bình thản với sự hiểu biết của mình. Nhưng ngồi đây với đôi lông mày nhíu lại và hai bàn chân kê dưới mông, cô trông giống với bản chất của mình: một cô gái mười bảy tuổi, được nuôi dạy trong Tiểu Điện xa hoa biệt lập, xa gia đình và phải tự xoay xở để tồn tại qua ngày.
“Kể tôi nghe đi,” cô nói.
Kaz bắt đầu kể. Anh giữ lại các chi tiết liên quan đến đề nghị của Van Eck và kể cho cô nghe về Bo Yul-Bayur, jurda parem, và tính gây nghiện của nó, đặc biệt nhấn mạnh vào vụ trộm tài liệu quân sự của Ravka mới đây.
“Nếu tất cả chuyện này là thật thì Bo Yul-Bayur cần phải bị trừ khử.”
“Đó không phải là nhiệm vụ của chúng ta, Nina.”
“Chuyện này không phải chỉ là tiền bạc, Kaz.”
Trước giờ tiền bạc vẫn luôn là vấn đề trung tâm. Nhưng Kaz biết cần phải có một sức ép kiểu khác. Nina yêu quý đất nước và dân tộc của mình. Cô vẫn còn tin vào tương lai của Ravka và Hạ Quân - đơn vị quân tinh nhuệ gồm toàn Grisha đã gần như bị xoá sổ trong cuộc nội chiến. Bạn bè của Nina ở Ravka tin rằng cô đã chết như một nạn nhân của đám săn phù thuỷ người Fjerda, và hiện tại cô muốn họ tiếp tục nghĩ như thế. Nhưng Kaz biết cô hi vọng một ngày nào đó sẽ được hồi hương.
“Nina, chúng ta sẽ đi tìm Bo Yul-Bayur, và tôi cần một Tâm Y để làm điều đó. Tôi muốn cô về đội của tôi.”
“Cho dù ông ta đang ẩn trốn ở đâu, thì một khi anh đã tìm thấy Bo Yul-Bayur, việc để cho ông ta sống sẽ là một sự vô trách nhiệm khủng khiếp. Câu trả lời của tôi là không.”
“Ông ta không ẩn trốn. Người Fjerda đang nhốt ông ta trong Lâu Đài Băng.”
Nina khựng lại. “Vậy thì ông ta coi như chết rồi.”
“Hội đồng Thương buôn không nghĩ như vậy. Họ sẽ không mất công bày ra trò rắc rối này hoặc treo giải thưởng nếu nghĩ ông ta đã bị vô hiệu hoá. Van Eck đang lo lắng. Tôi có thể thấy rõ điều đó.”
“Lão thương gia mà anh đã nói chuyện đó hả?”
“Phải. Ông ta tin đội ngũ gián điệp của họ hoạt động hiệu quả. Nếu không phải thế, tôi sẽ chịu trách nhiệm. Nhưng nếu Bo YuL-Bayur còn sống, ai đó chắc đang cố gắng giải cứu ông ta khỏi Lâu Đài Băng. Tại sao không phải là chúng ta?”
“Lâu Đài Băng,” Nina lặp lại. Kaz nhận ra cô đã bắt đầu lắp ghép được mọi thứ với nhau. “Anh không chỉ cần một Tâm Y, đúng không?”
“Tôi cần một người biết rõ lâu đài đó từ trong ra ngoài.”
Nina bật dậy và bắt đầu đi tới lui, tay chống hông, tà áo choàng bay lật phật. “Anh đúng là đồ khốn, anh có biết không? Đã bao nhiêu lần tôi tìm đến anh, cầu xin anh giúp Matthias? Giờ anh lại còn muốn này nọ…”
“Per Haskell không phải người làm từ thiện.”
“Đừng có đổ chuyện này cho ông ta,” cô gắt lên. “Nếu anh muốn giúp thì anh thừa sức làm được.”
“Thế tại sao tôi phải giúp?”
Nina quay ngoắt về phía Kaz. “Tại vì… tại vì…”
“Tôi có bao giờ làm một việc nào đó mà chẳng vì điều gì không, Nina?”
Cô há miệng ra, rồi ngậm lại.
“Cô có biết tôi sẽ phải đi nhờ vả bao nhiêu người không? Có biết tôi sẽ phải đút bao nhiêu tiền để đưa Matthias Helvar ra khỏi tù không? Cái giá đó quá cao.”
“Giờ thì sao?” Nina khó nhọc thốt lên, đôi mắt vẫn bừng bừng giận dữ.
“Giờ thì tự do của Helvar có một giá trị…”
“Nó…”
Anh giơ tay ngắt lời cô. “… có một giá trị đối với tôi.”
Nina day day thái dương. “Ngay cả khi anh tìm đến Matthias, anh ấy cũng sẽ không bao giờ đồng ý hỗ trợ anh.”
“Chỉ là vấn đề đòn bẩy thôi, Nina à.”
“Anh không biết anh ấy đâu.”
“Thật sao? Anh ta là một con người giống như bao người khác, bị dẫn dắt bởi lòng tham, sự ngạo mạn và nỗi đau. Cô nên hiểu điều đó hơn ai hết.”
“Helvar bị dẫn dắt bởi danh dự, và chỉ danh dự mà thôi. Anh không thể mua chuộc hoặc ép buộc được anh ấy.”
“Ngày trước thì có thể là như thế, Nina. Nhưng cả năm trời đã trôi qua. Helvar đã thay đổi rất nhiều.”
“Anh gặp anh ấy rồi à?” Đôi mắt xanh lục của cô mở to khấp khởi. Đó, Kaz nghĩ thầm, Barrel chưa làm cô tắt hết hi vọng đâu.
“Phải.”
Nina hít một hơi thật sâu. “Anh ấy muốn được trả thù, Kaz.”
“Đó là điều anh ta muốn, không phải điều anh ta cần,” Kaz đáp. “Dùng đòn bẩy có khéo hay không nằm ở chỗ phân biệt được hai cái đó.”