← Quay lại trang sách

Chương 14 NINA

Trong cabin chật chội, Nina cố gắng vá víu cơ thể của Inej, nhưng cô không được huấn luyện cho công việc này.

Trong hai năm đào tạo đầu tiên tại thủ đô của Ravka, tất cả các Grisha Tâm Y học chung với nhau, cùng một chương trình và trải qua các buổi mổ xác như nhau. Nhưng sau đó việc đào tạo họ được tách làm hai hướng. Thiện Tâm Y học chữa lành vết thương, trong khi Độc Tâm Y trở thành những chiến binh - chuyên gây ra các thương tích, chứ không phải chữa trị chúng, cùng một năng lực, nhưng cách tư duy khác nhau hoàn toàn. Tuy vậy, người sống khiến bạn vất vả hơn nhiều so với người chết. Một cú ra đòn chí tử cần sự quyết đoán và rõ ràng trong mục đích, chữa lành thì chậm rãi, có cân nhắc, một nhịp độ đòi hỏi sự suy tính kĩ lưỡng trong từng lựa chọn nhỏ. Những việc mà cô đã thực hiện cho Kaz trong năm vừa qua thật hữu ích, cũng như việc thay đổi tâm trạng và diện mạo mà cô làm tại Nhà Hồng Bạch.

Nhưng giờ đây, khi nhìn xuống Inej, Nina thầm ước giá như quá trình học hành của mình không vắn tắt đến thế. Cuộc nội chiến nổ ra khi cô vẫn còn là một học sinh ở Tiểu Điện, buộc cô và các bạn cùng lớp phải đi sơ tán. Khi cuộc chiến kết thúc và lửa khói đã tắt, vua Nikolai muốn nhanh chóng huấn luyện số lượng ít ỏi các Grisha còn lại trên thực địa, nên Nina chỉ được học sáu tháng các môn chuyên sâu trước khi lên đường tham gia chiến dịch đầu tiên. Lúc đó cô thích lắm. Nhưng giờ cô chỉ mong được học thêm vài tuần.

Inej là một người mềm dẻo, đầy cơ bắp và có khung xương nhỏ, điển hình của dân nhào lộn. Con dao đã đâm vào phía bên dưới cánh tay trái của cô. Đúng là suýt soát. Chỉ cần sâu thêm một chút thôi, lưỡi dao sẽ chọc thủng mỏm tim của cô gái.

Nina biết nếu chỉ đơn thuần làm liền da vết thương của Inej, giống như điều cô đã làm với Wylan, cô gái sẽ tiếp tục chảy máu trong. Do vậy cô phải cầm máu từ trong ra ngoài. Cô nghĩ mình đã xoay xở làm điều đó tương đối tốt, nhưng Inej mất rất nhiều máu, và Nina không biết phải xử lí chuyện này bằng cách nào. Cô nghe nói một số Thiện Tâm Y có thể khớp máu của người này với người khác, nhưng nếu làm sai, hành động đó sẽ chẳng khác nào tiêm chất độc vào thẳng cơ thể bệnh nhân. Quy trình đó nằm ngoài tầm hiểu biết của cô.

Sau khi khép miệng vết thương, Nina đắp cho Inej một tấm mền len mỏng. Hiện giờ tất cả những gì cô có thể làm là theo dõi mạch và nhịp thở của cô gái. Khi đưa cánh tay của Inej vào bên dưới tấm mền, cô trông thấy vết sẹo ở mặt trong cẳng tay của cô gái. Cô nhẹ nhàng lướt ngón cái trên vết sẹo gồ ghề. Đây chắc từng là cái lông công, hình xăm mà các thành viên của Vườn Thú phải mang. Kẻ xoá nó đã thao tác không khéo léo cho lắm.

Tò mò, Nina vén ống tay áo bên kia của Inej lên xem. Phần da ở đó nhẵn nhụi và không có dấu vết gì. Inej không có hình xăm con quạ và cái li mà mọi thành viên chính thức của băng Cặn Bã đều mang. Các liên minh ở Barrel có thể thay đổi, nhưng băng nhóm của bạn cũng là gia đình bạn, là sự bảo vệ quan trọng duy nhất. Bản thân Nina có hai hình xăm. Trên cẳng tay trái của cô là hình xăm của Nhà Hồng Bạch. Còn bên tay phải mới là hình quan trọng: một con quạ đang cố uống nước từ một chiếc li gần cạn. Nó cho cả thế giới biết rằng cô thuộc về Cặn Bã, và đụng đến cô đồng nghĩa với nguy cơ bị họ trả thù.

Inej gia nhập băng Cặn Bã trước Nina, nhưng lại không xăm hình con quạ. Cô gái là một trong những thành viên giá trị nhất trong băng, và rõ ràng là Kaz rất tin tưởng cô - trong chừng mực mà một người như anh ta có thể làm được. Nina nhớ lại vẻ mặt của Kaz khi anh đặt Inej lên bàn. Vẫn là một con người lạnh lùng, thô lỗ, khó đoán, nhưng phía sau sự giận dữ của Kaz, hình như Nina còn thấy được một điều gì khác. Cũng có thể vì cô là một người lãng mạn vô phương cứu chữa.

Cô tự cười chính mình. Cô sẽ không ước cho tình yêu đến với ai đó. Tình yêu là một vị khách mà bạn chào đón để rồi không thể tống khứ.

Nina vuốt mớ tóc đen suôn mềm che mặt Inej. “Hãy bình yên nhé,” cô thì thầm. Cô không thích sự run rẩy trong giọng nói của mình. Nghe nó không giống với một chiến binh Grisha hay một thành viên cứng cựa của băng Cặn Bã. Nó giống với một cô bé không biết mình đang làm gì. Và đó chính là điều mà Nina đang cảm thấy. Kì huấn luyện của cô quá ngắn. Cô được cử đi chiến dịch từ quá sớm. Zoya đã cảnh báo chuyện đó, nhưng Nina nài nỉ để được đi, và người ta cần cô, thế nên vị Grisha kia đã phải nhượng bộ.

Zoya Nazyalensky là một Tiết Khí Sư quyền năng, đẹp đến phi lí và có khả năng biến sự tự tin của Nina thành tro bụi chỉ với một cái nhướng mày. Nina rất tôn thờ chị. Khinh suất, ngu xuẩn, dễ bị xao lãng. Zoya đã dùng những chữ đó để nói về Nina, thậm chí còn tệ hơn.

“Chị đã nói đúng, Zoya. Chị mừng chứ?”

“Nói chuyện một mình kìa,” Jesper cất tiếng từ trên ngưỡng cửa.

Nina giật mình ngước lên và thấy anh chàng đang đứng đổi chân. “Zoya là ai vậy?” Anh hỏi.

Nina chùng người xuống trên ghế. “Chẳng là ai cả. Một trong Tam Đại Grisha.”

“Ngầu nhỉ. Những kẻ cầm đầu Hạ Quân á?”

“Những gì còn lại của nó.” Lực lượng Grisha của Ravka đã chịu nhiều tổn thất trong chiến tranh. Một số trốn chạy. Hầu hết bị giết. Nina giụi đôi mắt mệt mỏi. “Anh có biết cách tốt nhất để tìm ra một Grisha không muốn bị tìm thấy là gì không?”

Jesper gãi gáy, chạm tay vào khẩu súng, rồi lại gãi gáy. Anh lúc nào cũng hoạt động luôn chân luôn tay. “Tôi chưa bao giờ nghĩ quá nhiều tới chuyện đó,” anh nói.

“Hãy tìm những phép màu và nghe ngóng các câu chuyện cổ tích.” Lần theo những câu chuyện về phù thuỷ và yêu tinh, cũng như những chuyện không lí giải được. Đôi khi chúng chỉ thuần tuý là mê tín, nhưng thường thì chúng có cốt lõi sự thật trong đó - những người được sinh ra với năng lực thiên phú mà đất nước của họ không thể hiểu được. Nina đã trở nên rất thành thục trong việc đánh hơi những câu chuyện như vậy.

“Với tôi thì nếu họ đã không muốn bị tìm thấy, chúng ta nên để họ yên.”

Nina liếc xéo Jesper. “Các drüskelle sẽ không để bọn tôi yên. Họ săn lùng Grisha khắp nơi.”

“Có phải tất cả đều là những anh chàng quyến rũ như Matthias không?”

“Còn tệ hơn thế.”

“Tôi cần phải tìm ra cái cùm để xích chân anh ta lại. Kaz giao cho tôi những việc hết sức hay ho.”

“Muốn đổi với tôi không?” Nina hỏi với giọng mệt mỏi.

Năng lượng mạnh mẽ trong cơ thể cao gầy của Jesper dường như tan biến. Anh đứng im phăng phắc, lần đầu tiên tập trung nhìn Inej kể từ lúc bước vào cabin. Jesper đã tránh không nhìn cô ấy, Nina chợt nhận ra. Anh ta không muốn nhìn cô ấy. Tấm mền khẽ di chuyển theo nhịp thở cạn của Inej. Khi Jesper nói tiếp, giọng anh nghe giống như một cây đàn bị căng dây quá mức.

“Cô ấy không thể chết được. Không phải theo cách này.”

Nina nhìn anh thắc mắc. “Cách này là cách nào?”

“Cô ấy không thể chết,” anh lặp lại.

Nina cảm thấy như bị giằng xé giữa mong muốn ôm Jesper thật chặt và việc hét vào mặt anh ấy rằng cô đã cố hết sức. “Thánh thần ơi, Jesper,” cô nói. “Tôi đang cố hết sức đây.”

Jesper đổi tư thế, cơ thể anh dường như sống lại. “Xin lỗi,” anh bẽn lẽn đáp, rồi vụng về vỗ vai cô. “Cô đang làm rất tốt.”

Nina thở dài. “Nghe chẳng thuyết phục gì cả. Sao anh không đi xích anh chàng tóc vàng đi?”

Jesper chào cô rồi rút lui khỏi cabin.

Dù anh gây phiền toái, Nina vẫn rất muốn gọi Jesper quay lại. Anh đi rồi, trong đầu cô chỉ còn lại giọng nói của Zoya nhắc nhở rằng khả năng tối đa của cô vẫn là chưa đủ.

Làn da của Inej lạnh quá. Nina đặt hai bàn tay lên đôi vai cô gái, cố cải thiện tuần hoàn của cô để nâng thân nhiệt lên thêm một chút.

Cô đã không hoàn toàn thành thật với Jesper. Tam Đại Grisha không chỉ muốn cứu các Grisha khỏi các thợ săn phù thuỷ người Fjerda. Họ cử phái viên tới đảo Wandering và Novyi Zem bởi vì Ravka cần tuyển quân. Những người này tìm đến các Grisha đang lẩn trốn và cố thuyết phục họ quay về Ravka để phục vụ cho quân đội hoàng gia.

Lúc nổ ra cuộc nội chiến thì Nina còn quá nhỏ, nhưng sau đó cô rất nóng lòng muốn được tham gia vào công cuộc tái thiết Hạ Quân. Chính năng khiếu ngoại ngữ của cô đã thắng được sự dè dặt của Zoya - cô nói được tiếng Shu, Kaelish, Suli, Fjerda và thậm chí cả một ít tiếng Zemeni. Zoya đồng ý để Nina đi cùng mình và một đội thẩm tra tới đảo Wandering, và bất chấp những nghi ngại của Zoya, Nina đã thành công. Đóng giả làm khách du lịch, cô len lỏi vào các tửu quán và nhà để xe ngựa để nghe ngóng hoặc trò chuyện với dân địa phương, sau đó về báo cáo lại.

Nếu cô muốn đi tới Maroch Glen thì nhớ đi vào ban ngày. Hồn ma bóng quế ở đó nhiều lắm, những cơn bão có thể tự dưng xuất hiện mà không báo trước.

Phù thuỷ vùng Fells là có thật. Anh họ tôi từng đi gặp mụ sau một cơn bạo bệnh, và thề sống thề chết rằng mình chưa bao giờ khoẻ hơn. Cô nghĩ anh ấy bị lú lẫn à? Không, anh ấy tỉnh táo hơn cô nhiều đấy.

Họ đã tìm thấy hai gia đình Grisha trốn trong nơi được coi là các hang động thần tiên tại Istamere, và cứu được một cặp cha mẹ cùng hai con trai – Tiết Hoả Sư, người có thể điều khiển lửa - khỏi một đám đông cuồng loạn ở Fenford. Thậm chí cả đội đã kịp chặn đứng một con tàu chở nô lệ ở gần cảng Leflin. Sau khi họ được phân loại, những ai không có năng lực được giúp hồi hương an toàn. Thẩm tra viên Grisha xác nhận những người có năng lực và đề nghị cho họ một nơi nương náu ở Ravka. Chỉ có duy nhất người Độc Tâm Y có biệt danh Phù thủy vùng Fells quyết định ở lại. “Nếu bọn chúng muốn lấy máu tôi, cứ để chúng tới đây,” bà ta đã vừa cười vừa nói như thế. “Tôi sẽ xin chúng tí huyết luôn thể.”

Nina nói tiếng Kaelish thành thục như tiếng mẹ đẻ và thích thú với thử thách thay đổi danh tính mỗi khi tới một địa điểm mới. Nhưng sau tất cả những thành công của họ, Zoya vẫn chưa hài lòng. “Giỏi ngoại ngữ thôi chưa đủ,” chị ta mắng Nina như thế. “Em cần phải học để đừng… lộ liễu như thế. Em quá ồn ào, quá nhiệt tình, quá dễ nhớ. Em đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ.”

“Zoya,” người thẩm tra viên cùng đi với họ đã xen vào. “Nhẹ nhàng thôi.” Anh ta là một người khuếch đại. Sau khi chết, xương cốt của anh sẽ được phục vụ cho việc nâng cao năng lực của Grisha, không khác mấy so với những chiếc răng cá mập hoặc vuốt gấu mà nhiều Grisha vẫn đeo trên người. Nhưng lúc còn sống, anh có một giá trị không gì sánh được đối với công việc của họ, vì anh được huấn luyện để sử dụng khả năng khuếch đại của mình trong việc cảm nhận năng lực của các Grisha chỉ bằng cách chạm vào họ.

Trong phần lớn trường hợp, Zoya vẫn nghe theo anh, nhưng lần ấy chị nheo đôi mắt xanh thẳm của mình lại và nói: “Các giáo viên luôn khắc nghiệt đối với tôi. Nếu con bé rơi vào tình thế bị một đám nông dân khát máu truy đuổi trong rừng thì anh cũng bảo bọn họ nhẹ nhàng thôi à?”

Nina đã vùng vằng bỏ đi với lòng tự trọng bị tổn thương và xấu hổ vì mình mau nước mắt. Zoya quát với theo rằng cô không được bước qua đường phân thuỷ, nhưng cô bỏ ngoài tai, chỉ muốn đi thật xa khỏi vị Tiết Khí Sư khó tính ấy. Rốt cuộc cô tiến thẳng vào một lều trại của drüskelle. Nhóm sáu chàng trai tóc vàng nói tiếng Fjerda trên một vách đá trông ra biển. Bọn họ không đốt lửa trại và ăn mặc như dân Kaelish, nhưng Nina lập tức nhận ra chân tướng của họ.

Bọn họ đã nhìn cô một lúc lâu dưới ánh trăng bàng bạc.

“Ôi, tạ ơn trời,” cô đã nói như thế bằng một thứ tiếng Kaelish trôi chảy. “Tôi đang đi chơi cùng gia đình thì bị lạc trong rừng. Có anh nào giúp tôi tìm đường được không ạ?”

“Tao nghĩ con bé bị lạc đường,” một người trong số họ phiên dịch sang tiếng Fjerda cho những người còn lại.

Một người khác đứng dậy với chiếc đèn lồng trong tay. Anh cao hơn năm người kia, và bản năng thét bảo cô chạy đi lúc anh tiến lại gần. Họ không biết mày là ai, cô tự nhủ. Mày chỉ là một con bé Kaelish dễ thương đi lạc trong rừng. Đừng làm bất cứ điều gì ngu ngốc. Dụ hắn ra xa khỏi những tên còn lại, rồi hạ thủ hắn.

Anh chàng cao lớn giơ cao chiếc đèn lồng, ánh sáng của nó chiếu sáng khuôn mặt của cả anh lẫn cô. Tóc anh dài và có màu vàng nâu, đôi mắt xanh nhạt của anh lấp lánh như băng tuyết dưới ánh mặt trời mùa đông. Trông anh đẹp như tranh vẽ, cô nghĩ thầm. Như một vị thánh dát vàng trên tường của một nhà thờ, sinh ra để cầm thanh gươm lửa.

“Cô làm gì ở ngoài này?” Anh đã hỏi như thế bằng tiếng Fjerda.

Cô vờ như không hiểu. “Tôi xin lỗi,” cô đáp lại bằng tiếng Kaelish. “Tôi không hiểu. Tôi bị lạc đường.”

Anh lao vào cô. Cô phản ứng mà không kịp suy nghĩ, hai tay giơ lên để tấn công. Nhưng anh quá mau lẹ. Không chút ngập ngừng, anh thả đèn lồng xuống và chụp lấy hai cổ tay cô, chập hai lòng bàn tay của cô vào với nhau, khiến cô không thể sử dụng năng lực.

“ Drüsje ,” anh đã thốt lên như thế với giọng hài lòng. Phù thuỷ. Anh có nụ cười của một con sói.

Cú tấn công chỉ là một phép thử. Một cô gái lạc lối trong rừng sẽ co rúm lại, tay lần tìm con dao hoặc khẩu súng. Cô ta sẽ không cố dùng đôi tay mình để làm tim đối phương ngừng đập. Khinh suất. Bốc đồng.

Đây chính là lí do khiến Zoya không muốn đem cô theo. Một Grisha được đào tạo bài bản sẽ không phạm những sai lầm như thế. Nina đúng là ngu ngốc, nhưng cô không cần phải phản bội những người còn lại. Cô van xin bằng tiếng Kaelish chứ không phải tiếng Ravka, và cô không kêu gọi trợ giúp - kể cả khi bị trói tay, bị đe doạ, bị ném xuống một chiếc thuyền như một bao tải hạt kê. Cô muốn hét toáng lên để Zoya chạy tới, muốn cầu xin ai đó cứu cô, nhưng cô không thể gây nguy hiểm đến tính mạng của những người khác. Đám drüskelle đã chèo thuyền đưa cô ra một con tàu lớn neo đậu ngoài khơi và tống cô vào một cái chuồng nhốt đầy Grisha ở dưới hầm tàu. Đó là lúc nỗi kinh hoàng thực sự bắt đầu.

Ngày và đêm hoà vào nhau làm một trong hầm tàu nhớp nháp. Tay của các Grisha bị trói chặt để ngăn cản họ sử dụng năng lực. Họ được nuôi ăn bằng bánh mì cứng lúc nhúc mọt - với số lượng vừa đủ để cầm hơi - và phải sử dụng nước ngọt thật tiết kiệm vì chẳng biết khi nào sẽ được cung cấp tiếp. Mùi người và mùi chất thải gần như không thể chịu đựng nổi.

Thỉnh thoảng con tàu buông neo và các drüskelle lại xuất hiện cùng với những người bị bắt khác. Đám Fjerda đứng phía bên ngoài lồng, ăn uống, chế nhạo sự bẩn thỉu và hôi hám của các tù nhân Grisha. Tuy vậy, nỗi sợ hãi về điều đang chờ đợi phía trước còn kinh khủng hơn - các điều tra viên ở Lâu Đài Băng, nhục hình tra tấn, và cái chết không tránh khỏi. Nina mơ thấy mình bị thiêu sống và choàng tỉnh khi miệng còn đang hét thất thanh. Ác mộng, nỗi sợ hãi và cơn đói hoà trộn với nhau tới mức cô không còn biết chắc được đâu là thực, đâu là ảo.

Thế rồi một ngày kia, đám drüskelle tập hợp lại ở khoang dưới, trên người khoác bộ đồng phục phẳng phiu màu đen và bạc, một cái đầu sói nằm đĩnh đạc nơi ống tay áo. Bọn họ xếp ngay hàng thẳng lối và đứng nghiêm khi viên chỉ huy xuất hiện. Cũng giống như mọi người, ông ta cao lớn, nhưng có một hàm râu gọn gàng, mái tóc vàng dài điểm bạc ở hai bên thái dương. Tay chỉ huy đi dọc theo hầm tàu, rồi dừng lại trước các tù nhân.

“Bao nhiêu?” Ông ta đã hỏi như thế.

“Mười lăm ạ,” người con trai bắt cô đã đáp như thế. Đó là lần đầu tiên cô thấy anh ta xuống hầm tàu.

Tay sĩ quan chỉ huy hắng giọng và chắp tay sau lưng. “Ta là Jarl Brum.”

Cơn run rẩy sợ hãi tràn qua người Nina, và cô cảm thấy nó lan ra khắp các Grisha bị bắt giữ, một tín hiệu cảnh báo mà không ai có thể phớt lờ.

Tại trường học, Nina bị ám ảnh bởi các drüskelle. Đó là những sinh vật khủng khiếp trong cơn ác mộng của cô với bầy sói trắng, những lưỡi dao tàn bạo và lũ ngựa mà bọn họ nhân giống để chiến đấu với các Grisha, chính vì vậy mà cô đã học tiếng Fjerda và tìm hiểu kĩ lưỡng về nền văn hoá của họ. Đó là một cách để chuẩn bị sẵn sàng cho bản thân, cho cuộc đối đầu sắp tới với bọn họ. Và Jarl Brum là người tệ nhất trong số đó.

Ông ta là một huyền thoại, là con quái vật phục sẵn trong bóng tối. Drüskelle đã tồn tại hàng trăm năm nay, nhưng dưới sự lãnh đạo của Brum, lực lượng này đã tăng gấp đôi quân số và nguy hiểm bội phần. Brum đã thay đổi cách luyện tập, phát triển những kĩ thuật mới để xoá sổ các Grisha tại Fjerda, và vượt qua biên giới Ravka để truy đuổi các Grisha đơn độc ngay trên đất của họ. Thậm chí ông ta còn cho truy lùng các con tàu nô lệ để “giải phóng” các Grisha bị bắt giữ với mục đích duy nhất là xích họ lại và đưa về Fjerda xét xử. Nina đã mường tượng rằng một ngày kia cô sẽ đối mặt với Brum trong tư thế của một chiến binh báo thù hoặc một gián điệp mưu trí. Cô không nghĩ mình lại đối diện ông ta khi đang ở trong một cái lồng, đói lả, tay bị trói và áo quần rách tả tơi.

Brum hẳn đã biết tác động mà cái tên của ông ta gây ra. Ông ta đợi một lúc lâu trước khi nói bằng một thứ tiếng Kaelish hoàn hảo: “Đứng trước mặt các ngươi là thế hệ drüskelle kế tiếp, lực lượng thần thánh có nhiệm vụ bảo vệ vương quốc Fjerda khỏi chủng loại các ngươi. Họ sẽ đưa các ngươi về Fjerda để xét xử, và nhờ đó thăng tiến trong đội ngũ. Họ là những người mạnh mẽ nhất và giỏi nhất của lực lượng này.”

Lũ bắt nạt, Nina nghĩ bụng.

“Khi chúng ta về tới Fjerda, các ngươi sẽ bị thẩm vấn và xét xử cho những tội ác đã gây ra.”

“Xin làm ơn,” một người tù lên tiếng. “Tôi chẳng làm gì cả. Tôi là một người nông dân. Tôi không gây hại gì cho các ông.”

“Ngươi là một sự sỉ nhục đối với Djel,” Brum đáp. “Một tai hoạ sống. Các ngươi nói chuyện hoà bình, nhưng con cái các ngươi thì sao, những kẻ được các ngươi truyền cho thứ năng lực quỷ quái đó? Sự thương hại của ta chỉ dành cho những người đàn ông và phụ nữ bị tiêu diệt bởi giống loài Grisha kinh tởm.”

Ông ta quay về phía các drüskelle. ” Làm giỏi lắm, các chàng trai,” ông ta nói bằng tiếng Fjerda. “Chúng ta sẽ quay về Djerholm ngay lập tức.”

Đám drüskelle trông như sắp nổ tung vì tự mãn. Ngay khi Brum rời khỏi hầm tàu, bọn họ thân mật vỗ vai nhau, cười nói một cách hài lòng và vui sướng.

“Đúng là giỏi quá còn gì,” một người nói bằng tiếng Fjerda. “Mười lăm Grisha chuẩn bị áp giải tới Lâu Đài Băng!”

“Nếu chuyện này không giúp bọn ta lên lon thì…”

“Sẽ được thôi mà, mày yên tâm đi.”

“Tốt, tao phát mệt vì cứ phải cạo râu mỗi sáng rồi.”

“Tao sẽ để cho râu dài tới rốn.”

Sau đó, một kẻ trong số họ đã thò tay qua song sắt và túm tóc Nina. “Tao thích con bé này, nó vẫn còn xinh xẻo và tròn trịa. Hay là ta mở lồng ra để vui vẻ với nó một chút.”

Anh chàng có mái tóc vàng nâu đã hất tay gã kia ra.

“Anh bị làm sao vậy?” Anh đã nói như thế. Đó là lần đầu tiên anh lên tiếng kể từ lúc Brum rời hầm tàu. Nhưng sự biết ơn của Nina nhanh chóng tan biến khi anh ta nói tiếp: “Sao anh có thể gian dâm với một con chó?”

“Còn tuỳ trông nó như thế nào…”

Những kẻ khác phá lên cười và bỏ đi. Kẻ đã ví cô như súc vật đi cuối cùng. Ngay khi anh ta sắp sửa bước ra khỏi hầm, cô nói bằng một thứ tiếng Fjerda hoàn hảo: “Tội ác nào vậy?”

Anh ta khựng lại, và khi quay nhìn cô, đôi mắt xanh nhạt của anh ta bừng bừng lửa hận. Cô nhất quyết không nao núng.

“Làm thế nào ngươi nói được ngôn ngữ của ta? Có phải ngươi làm nhiệm vụ ở biên giới phía bắc của Ravka không?”

“Tôi là người Kaelish,” cô nói dối. “Và tôi nói được ngoại ngữ.”

“Lại là phép phù thuỷ.”

“Đúng vậy, nếu với anh phép phù thuỷ đồng nghĩa với việc trau dồi ngôn ngữ. Chỉ huy của các anh nói chúng tôi sẽ bị đem ra xét xử vì các tội ác đã gây ra. Tôi muốn anh cho tôi biết tôi đã gây ra tội ác gì?”

“Ngươi sẽ bị xét xử tội gián điệp và những tội ác chống lại loài người.”

“Chúng tôi không phải là tội phạm,” một Sáng Chế Gia ngồi dưới sàn nói bằng thứ tiếng Fjerda nhát gừng. Ông ta là người ở đây lâu nhất và ốm yếu đến mức không thể đứng dậy. “Chúng tôi chỉ là thường dân - nông dân, giáo viên.”

Tôi thì không, Nina rầu rĩ nghĩ bụng. Tôi là một chiến binh.

“Các ngươi sẽ bị xét xử,” tay drüskelle tóc vàng đáp. “Các ngươi sẽ được đối xử công bằng hơn những gì các ngươi xứng đáng nhận được.”

“Có bao nhiêu Grisha từng được xử vô tội nào?” Nina hỏi.

Người Sáng Chế Gia rên lên. “Đừng có chọc giận anh ta. Cháu không làm anh ta lay chuyển được đâu.”

Nhưng cô đã tóm lấy song sắt bằng đôi bàn tay bị trói và nói tiếp: “Bao nhiêu Grisha đã bị các anh đưa lên giàn hoả?”

Anh ta quay đi.

“Khoan đã!”

Anh ta phớt lờ cô.

“Khoan đã! Xin làm ơn! Chỉ… chỉ xin anh một chút nước thôi. Anh có đối xử với con chó của anh như thế này không?”

Anh ta dừng lại, bàn tay đặt trên cánh cửa.

“Lẽ ra ta không nên nói câu đó. Ít nhất lũ chó cũng còn biết trung thành. Gọi ngươi là chó chẳng khác nào hạ thấp chúng.”

Tôi sẽ ném anh cho một bầy chó dữ xé xác, Nina nhủ thầm. Nhưng những gì cô nói chỉ là: “Nước. Xin anh.”

Anh ta biến ra khỏi hầm tàu. Cô nghe thấy tiếng anh ta trèo lên cầu thang, rồi cái then cửa được đóng lại với một tiếng động đinh tai.

“Đừng phí hơi với nó,” ông Sáng Chế Gia khuyên nhủ. “Nó sẽ không tử tế với cháu đâu.”

Nhưng sau đó ít phút, tay drüskelle quay lại với cái ca thiếc và một xô nước sạch. Anh ta đặt nó vào trong lồng rồi đóng cửa lại mà không nói tiếng nào. Nina giúp ông Sáng Chế Gia uống trước, sau đó cô múc một ca nước cho mình. Bàn tay cô run rẩy tới nỗi một nửa ca nước sánh ra ngoài, làm ướt áo cô. Anh chàng Fjerda quay mặt đi, và Nina hài lòng khi nhận ra cô làm anh ta bối rối.

“Được tắm bây giờ thì tôi có chết cũng cam lòng,” cô trêu anh ta. “Anh có thể tắm cho tôi được đấy.”

“Đừng có nói chuyện với ta,” anh ta gầm gừ, chân đã dợm bước ra cửa.

Anh ta không quay lại nữa, và họ không được nhận nước sạch trong ba ngày kế tiếp. Tuy nhiên, khi cơn bão ập tới, chính cái ca thiếc đã cứu mạng cô.

•••

Cằm cô trễ xuống, và Nina choàng tỉnh. Cô vừa ngủ gà gật sao?

Matthias đang đứng trên lối đi phía bên ngoài cabin. Dáng người anh ta choán gần hết khung cửa, quá cao lớn đối với không gian nhỏ hẹp dưới này. Matthias đã quan sát cô được bao lâu rồi? Nina nhanh chóng kiểm tra mạch đập và hơi thở của Inej, cô thấy nhẹ cả người khi tình hình cô gái dường như đã ổn định.

“Tôi ngủ quên à?” Cô hỏi.

“Ngủ lơ mơ.”

Cô duỗi người, cố gắng xua đuổi sự mệt mỏi. “Nhưng không ngáy chứ?” Matthias không nói gì, anh ta chỉ quan sát cô bằng đôi mắt băng giá. “Họ để cho anh sử dụng dao cạo râu à?”

Bàn tay bị xiềng của Matthias đưa lên sờ cái cằm mới cạo. “Jesper cạo đấy.” Hẳn là Jesper cũng đã cắt tóc cho Matthias. Những túm tóc lởm chởm trên đầu anh ta nay đã được cắt gọn. Nhưng nó quá ngắn, chẳng khác nào một lớp lông tơ vàng trên làn da đầy những vết trầy xước và bầm tím sau trận đấu cuối cùng ở Cổng Địa Ngục.

Chắc Matthias phải vui sướng lắm khi được giải phóng khỏi bộ râu, Nina nghĩ thầm. Một drüskelle buộc phải mày râu nhẵn nhụi khi chưa tự mình hoàn thành nhiệm vụ và được công nhận là sĩ quan. Nếu Matthias đưa được Nina ra toà tại Lâu Đài Băng thì anh ta đã được cho phép để râu rồi. Anh ta cũng sẽ được đeo biểu tượng đầu sói bạc của một sĩ quan drüskelle. Cô muốn bệnh khi nghĩ tới nó. Chúc mừng sự thăng tiến lên ngạch sát nhân của anh. Ý nghĩ đó nhắc cô nhớ mình đang phải đối diện với ai. Cô ngồi thẳng lại, cằm hếch lên.

“ Hje marden, Matthias?” Cô hỏi.

“Đừng,” anh nói.

“Anh thích tôi hỏi bằng tiếng Kerch à?”

“Tôi không muốn nghe ngôn ngữ của mình phát ra từ miệng cô.” Đôi mắt anh lia tới đôi môi cô, và Nina cảm thấy mình bất giác đỏ mặt.

Cô khoái trá nói tiếp bằng tiếng Fjerda: “Nhưng anh luôn thích cách tôi nói tiếng mẹ đẻ của anh. Anh bảo nghe nó thuần khiết.” Đúng vậy. Anh thích ngữ điệu của cô - những nguyên âm của một công chúa, nhờ công ơn các giáo viên của cô ở Tiểu Điện.

“Đừng ép tôi, Nina,” Matthias nói. Tiếng Kerch của anh ta thật cục mịch, thô bạo, thứ ngữ điệu yết hầu của bọn trộm cướp và giết người mà anh ta gặp trong tù. “Bản ân xá là một giấc mơ khó nắm giữ. Cảm giác về mạch đập của cô chậm dần trong tay tôi dễ nhỡ hơn nhiều.”

“Cứ thử đi,” cô nói, đùng đùng nổi giận, cô đã chán ngán những lời đe dọa của anh ta rồi. “Lúc này tay tôi không bị khống chế đâu Helvar.” Nina cong một đầu ngón tay lại, và Matthias thở dốc vì tim bắt đầu đập dồn.

“Đồ phù thuỷ,” anh ta thốt lên, tay bấu ngực.

“Rõ ràng anh có thể làm tốt hơn thế. Giờ đây chắc anh đã có hàng trăm biệt danh dành cho tôi.”

“Hàng ngàn,” anh ta gằn giọng, mồ hôi túa ra trên trán.

Cô thả lỏng ngón tay và chợt cảm thấy bối rối. Cô đang làm gì vậy? Trừng phạt anh ta? Hay chơi đùa với anh ta? Anh ta có toàn quyền căm ghét cô.

“Đi đi, Matthias. Tôi có người bệnh cần chăm sóc.” Nina hướng sự tập trung vào việc kiểm tra thân nhiệt của Inej.

“Cô ta sẽ sống chứ?”

“Anh quan tâm sao?”

“Dĩ nhiên rồi. Cô ta là một con người.”

Nina nhận ra hàm ý của câu nói đó. Cô ta là một con người, đâu như cô. Người Fjerda luôn tin rằng các Grisha không phải là con người. Thậm chí Grisha còn không được ngang hàng với súc vật, mà là một thứ gì đó hạ cấp, ma quỷ hơn, một thứ sâu mọt của thế giới, một giống loài đáng kinh tởm.

Cô nhún một bên vai. “Tôi không biết nữa. Thật đấy. Tôi đã cố hết sức, nhưng năng lực của tôi không nằm ở việc này.”

“Kaz đã hỏi cô liệu Hồng Bạch có cử đoàn đại diện tới Hringkälla hay không.”

“Anh mà cũng biết đến Nhà Hồng Bạch à?”

“Tây Stave là một đề tài bàn tán được ưa thích ở Cổng Địa Ngục.”

Nina khựng lại. Rồi, không nói thêm gì nữa, cô vén một bên tay áo lên. Hai bông hồng quấn lấy nhau nơi mặt trong cẳng tay của cô. Cô có thể giải thích về công việc của mình ở đó, rằng cô không bán trôn nuôi miệng, nhưng đó không phải là việc của anh ta. Cứ để anh ta tin vào thứ anh ta thích tin.

“Cô tự nguyện làm việc ở đó à?”

“Nói tự nguyện thì hơi quá, nhưng đúng vậy.”

“Tại sao? Tại sao cô ở lại Kerch?”

Cô giụi mắt. “Tôi không thể bỏ mặc anh trong Cổng Địa Ngục.

“Cô đã đẩy tôi vào đó.”

“Đó là một lỗi lầm, Matthias.”

Cơn giận bùng lên trong mắt anh ta, sự bình thản tan biến đâu mất. “Một lỗi lầm? Tôi đã cứu mạng cô, và cô đi cáo buộc tôi buôn bán nô lệ.”

“Phải,” Nina đáp. “Và tôi đã dành phần lớn thời gian trong năm vừa rồi để tìm cách sửa chữa điều đó.”

“Cô có bao giờ ăn nói thành thật không vậy?”

Nina mệt mỏi chùng người xuống trên ghế. “Tôi chưa bao giờ nói dối anh. Và tôi cũng sẽ không bao giờ làm điều đó.”

“Câu nói đầu tiên của cô với tôi là một lời nói dối. Bằng tiếng Kaelish, nếu tôi không nhầm.”

“Nó được nói ra ngay trước khi anh bắt và nhốt tôi vào một cái lồng. Liệu đó có phải là lúc để nói sự thật không?”

“Tôi không nên trách cô. Cô không thể làm khác được. Bản chất của cô là dối trá sẵn rồi.” Matthias quan sát cổ của Nina. “Các vết bầm của cô biến mất rồi.”

“Tôi đã xóa chúng đi. Chuyện đó làm anh không vừa lòng à?”

Matthias không nói gì, nhưng cô nhận thấy gương mặt anh ta thoáng chút xấu hổ. Để trở thành một drüskelle, anh ta phải xóa bỏ phần tử tế trong mình. Nhưng chàng trai mà lẽ ra anh ta nên trở thành vẫn luôn ở đó, và cô bắt đầu nhìn ra bản chất của Matthias trong những ngày tháng họ ở bên nhau sau vụ đắm tàu. Cô muốn tin rằng chàng trai ấy vẫn còn đó, được cất kĩ, bất chấp sự phản bội của cô và những điều anh ta đã hứng chịu ở Cổng Địa Ngục.

Nhìn Matthias lúc này, Nina không còn chắc chắn nữa. Có lẽ đây mới là con người thật của anh ta, và hình ảnh mà cô níu giữ từ năm ngoái chỉ là ảo tưởng.

“Tôi cần khám cho Inej,” cô nói để đuổi anh ta đi.

Nhưng Matthias không đi. Thay vào đó, anh hỏi: “Cô có nghĩ tới tôi chút nào không, Nina? Tôi có quấy nhiễu giấc ngủ của cô không?”

Cô nhún vai. “Một Tâm Y có thể ngủ bất cứ lúc nào mình muốn.” Dẫu vậy cô không thể kiểm soát những giấc mơ của mình.

“Giấc ngủ là thứ rất có giá trị ở Cổng Địa Ngục. Nó là một mối nguy hiểm. Nhưng khi tôi ngủ, tôi mơ thấy cô.”

Nina ngẩng đầu lên.

“Đúng vậy,” anh nói tiếp. “Mỗi khi chợp mắt, tôi đều mơ thấy cô.”

“Như thế nào?” cô vừa nóng lòng muốn biết câu trả lời, lại vừa sợ nó.

“Toàn những chuyện khủng khiếp. Những cuộc tra tấn tàn bạo nhất. Cô chậm rãi nhấn nước tôi. Cô thiêu đốt trái tim trong lồng ngực tôi. Cô làm mù mắt tôi.”

“Tôi là một con quái vật.”

“Một con quái vật, một kẻ cám dỗ, một yêu tinh băng giá. Cô hôn tôi, thì thầm kể chuyện vào tai tôi. Cô hát cho tôi nghe và đỡ lấy tôi khi tôi ngủ. Tiếng cười của cô bám riết lấy tôi cho đến khi tôi tỉnh giấc.”

“Anh luôn ghét tiếng cười của tôi.”

“Tôi yêu tiếng cười của cô, Nina, và trái tim của một chiến binh kiêu hãnh trong cô. Có lẽ tôi đã từng phải lòng cô.”

Có lẽ. Đã từng. Trước khi cô phản bội anh. Câu nói đó cứa sâu vào tim cô.

Cô biết mình không nên nói ra, nhưng không thể kìm lại được. “Thế anh đã làm những gì, Matthias? Anh đã làm gì với tôi trong những giấc mơ của anh?”

Con tàu hơi nghiêng đi. Những ngọn đèn lồng chao đảo. Đôi mắt anh xanh rực như ngọn lửa. “Mọi thứ,” anh nói, đoạn quay lưng bỏ đi. “Mọi thứ.”