← Quay lại trang sách

Phần Ba TỪNG BƯỚC MỘT Chương 11 INEJ

Trong lúc Inej và Kaz rời khỏi Tây Stave, sự im lặng giữa họ lan dần như một vệt dầu loang. Hai người đã trút bỏ áo choàng và mặt nạ trong đống rác ở phía sau một nhà chứa xập xệ mang tên Căn Phòng Nhung. Kaz cũng đã giấu sẵn trang phục để thay cho họ ở đó. Cứ như thể cả Ketterdam này đã trở thành tủ đồ của họ, và Inej không thể không nghĩ tới những ảo thuật gia có khả năng rút hàng trăm mét khăn quàng từ trong ống tay áo, hoặc làm các cô gái biến mất khỏi những cái hộp giống với cỗ quan tài một cách đáng sợ.

Sau khi mặc lên người những chiếc áo khoác rộng thùng thình và quần vải thô của công nhân bến cảng, họ len lỏi qua những dãy nhà kho, với mũ che kín tóc, cổ áo dựng lên bất chấp thời tiết ấm áp. Rìa phía đông của khu vực nom giống như một thành trì nhỏ bên trong Ketterdam, với đa số dân chúng là người nhập cư phải sống trong những khách sạn, nhà trọ rẻ tiền hoặc trong những cái lán làm từ ván ép, tôn sóng. Họ tự phân chia thành những xóm nhỏ nghèo túng theo ngôn ngữ và quốc tịch. Vào thời điểm này trong ngày, hầu hết các cư dân nơi đây đều đang làm việc trong các nhà máy hoặc bến cảng, nhưng ở một vài góc phố, Inej trông thấy phụ nữ và nam giới tụ tập lại, hi vọng một cai thợ hoặc ông chủ nào đó đến thuê vài người may mắn trong số họ làm những công việc ngắn ngày.

Sau khi thoát khỏi Vườn Thú, Inej từng lang thang qua các phố phường Ketterdam, cố gắng tìm hiểu về nó. Cô bị choáng ngợp trước tiếng ồn và đám đông, trong đầu luôn đinh ninh rằng Dì Heleen hoặc một trong số các tay chân của mụ rình lúc cô sơ sẩy để lôi trở lại Nhà Viễn Xứ. Nhưng cô biết nếu muốn trở nên hữu dụng đối với băng Cặn Bã và trả hết tiền nợ của giao kèo mới, cô không thể để mình bị lấn át bởi sự lạ lẫm của đám đông ồn ào và những viên đá lát đường. Chúng tôi chào đón mọi vị khách bất ngờ. Cô phải tìm hiểu cái thành này.

Inej luôn thích di chuyển trên mái nhà, khuất tầm mắt và xa đám đông nhộn nhạo. Ở trên đó, cô cảm thấy trở lại là chính mình hơn cả - cô bé Suli của ngày trước, chưa từng biết tới sự tàn nhẫn mà thế giới này có thể mang lại. Cô đã thuộc lòng từ các đầu hồi nhà và bậu cửa sổ của Zelverstraat cho tới những khu vườn và đại lộ rộng rãi ở khu sứ quán. Cô đã đi xa về phía nam, tới nơi các công xưởng nhường chỗ cho những lò mổ tanh lòm và hố nước muối được che giấu ở khu ngoại ô, nơi rác thải có thể được tống xuống đầm lầy ở rìa Ketterdam. Mùi hôi thối từ đó khó có thể quấy rầy các khu dân cư khác trong nội thành. Ketterdam đã tiết lộ những bí mật của nó cho cô một cách rụt rè, qua những lát cắt chớp nhoáng của sự vương giả và cùng khổ.

Giờ đây, Inej cùng Kaz bỏ lại phía sau những dãy nhà trọ và xe chở hàng để đi sâu vào khu vực kho bãi nhộn nhịp mang tên Weft. Tại đây, các con phố và kênh đào được mở rộng, sạch sẽ và ngăn nắp, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá. Hai người đi qua nhiều mẫu sân rào ngồn ngộn gỗ thô và đá xẻ, những kho vũ khí và đạn dược được canh gác cẩn mật, những kho hàng rộng lớn chất đầy bông vải, lụa, vải dầu, lông thú, và các nhà kho nơi những bó lá jurda khô đến từ Novyi Zem được cân kĩ lưỡng và xử lí trước khi đóng vào những chiếc lon có dán nhãn sặc sỡ rồi vận chuyển tới các thị trường khác.

Inej vẫn còn nhớ mình cảm thấy choáng váng như thế nào khi trông thấy mấy chữ Của Lạ được sơn bên hông của một nhà kho. Dòng chữ quảng cáo được kẹp giữa hai cô gái Suli vẽ bằng sơn, tay chân để trần khoe da thịt nâu bóng, các chi tiết thêu trên bộ váy lụa cũn cỡn được nhấn nhá bằng những nét cọ mầu vàng ánh kim. Cô đã đứng ngây người, mắt dán vào hình ảnh quảng cáo tại một địa điểm chỉ cách chưa đầy hai dặm với nơi người ta từng mua bán và mặc cả quyền sở hữu thân xác cô. Tim cô đập thình thịch, nỗi kinh hoàng làm cơ bắp cô tê liệt. Cô không thể thôi nhìn hai cô gái đó, những cái vòng trên cổ tay, cái chuông nơi mắt cá chân của họ. Sau đó cô quyết tâm bỏ đi, và như thể một lời nguyền nào đó đã bị phá bỏ, cô chạy nhanh chưa từng thấy, quay trở về Thanh Gỗ, băng qua các mái nhà, phố phường xám xịt loang loáng trôi qua dưới những bước chân liều lĩnh. Đêm đó cô mơ thấy những cô gái vẽ kia sống dậy. Họ bị mắc kẹt trong bức tường gạch của nhà kho, gào thét đòi tự do, nhưng cô không tài nào giúp họ được.

Của Lạ. Dòng chữ đã bị nắng làm phai màu, nhưng vẫn còn đó. Nó lưu giữ nguồn sức lực cho cô, khiến cơ bắp cô căng lên, hơi thở cô dồn dập. Nhưng có lẽ khi cô sở hữu con tàu của mình và chuộc được người nô lệ đầu tiên, lớp sơn kia sẽ bong ra khỏi những viên gạch. Tiếng la hét của những cô gái trong lớp vải lụa màu xanh bạc hà kia sẽ trở thành tiếng cười. Họ sẽ nhảy múa vì chính họ, chứ không phải để làm trò cho bất kì ai. Trước mặt Inej là một cái cột cao với bàn tay của Ghezen trên đỉnh và đổ bóng xuống trung tâm của sự giàu có mà Kerch sở hữu. Cô hình dung các vị thánh của mình tròng dây thừng quanh nó và kéo nó đổ kềnh.

Trong lớp áo khoác lùng nhùng, Inej và Kaz không thu hút bất kì ánh mắt chú ý nào. Họ giống như hai thằng nhóc thiếu việc đang trên đường vào ca. Nhưng Inej chưa thể hít thở một cách thoải mái. Các thị tuần vẫn đi tuần tra đều đặn trong khu vực này, và như thể sự bảo vệ còn chưa đủ tốt, các công ty vận tải còn sử dụng đội ngũ vệ quân riêng để bảo đảm các cánh cửa được khoá kín, cũng như không một công nhân bốc xếp nào có dịp táy máy tay chân. Khu vực này là một trong những nơi an ninh nhất của Ketterdam, do vậy nó cũng là chỗ cuối cùng Van Eck mò đến để tìm kiếm họ.

Hai người đi đến một kho vải lanh bỏ không. Những ô cửa sổ ồ tầng dưới đã bị vỡ, lớp gạch bên trên chúng đen nhẻm vì bồ hóng. Vụ hoả hoạn có lẽ mới xảy ra gần đây, nhưng nhà kho sẽ không thể bị bỏ không lâu được. Nó sẽ được dọn dẹp và sửa chữa, hoặc đơn giản là bị san bằng để nhường chỗ cho một toà nhà mới. Không gian là một thứ quý giá ở Ketterdam.

Ổ khoá ở cửa hậu không phải là một thách thức lớn đối với Kaz. Hai người đi vào gian nhà kho ở tầng dưới, bị thiệt hại nặng nề do hoả hoạn, cầu thang nằm ở khu vực phía trước của toà nhà có vẻ còn khá nguyên vẹn. Họ leo lên đó. Inej nhẹ nhàng di chuyển trên các bậc thang bằng gỗ, trong lúc Kaz chống gậy lộp cộp theo sau.

Khi lên đến tầng ba, Kaz dẫn Inej tới một phòng kho nơi những cuộn vải vẫn còn được xếp thành chồng cao ngất. Chúng gần như không bị hư hại, nhưng những cuộn ở bên dưới đã đen nhẻm bồ hóng. Mùi vải cháy thật khó ngửi, nhưng họ cảm thấy khá thoải mái. Inej tìm thấy một cái ghế đẩu bên cạnh cửa sổ và gác một chân lên một cuộn vải, tựa lưng vào cuộn khác, cô thấy sung sướng khi được ngồi xuống, nhìn ánh nắng chiều nhàn nhạt bên ngoài. Cũng chẳng có gì nhiều để xem, ngoài những bức tường gạch trần của các nhà kho và cụm tháp xi-lô cao vọt lên trên bến cảng.

Kaz lấy một cái hộp thiếc ra khỏi một trong những chiếc máy khâu cũ và đưa cho Inej. Cô mở hộp, trông thấy chỗ hạt phỉ, bánh quy giòn bọc trong giấy sáp, và một cái chai có nút đậy. Hoá ra đây là một trong những nhà trú ẩn mà Van Eck rất muốn tìm ra. Inej mở nút chai và ngửi thử.

“Nước đấy,” Kaz nói.

Inej uống ừng ực rồi ăn vài cái bánh đã hơi khét dầu. Cô đói khủng khiếp và không chắc mình sẽ sớm được ăn một bữa nóng sốt. Kaz đã cảnh báo rằng họ không thể về đảo Mạng Đen trước khi trời tối, và ngay cả khi đã lên đảo, cô cũng không nghĩ họ có thể nấu nướng gì nhiều. Inej nhìn anh nhỏm người ngồi lên mấy cuộn vải phía đối diện và đặt cây gậy chống bên cạnh, nhưng cô cố ép mình hướng mắt ra ngoài cửa sổ, tránh xa những cử động chính xác và quai hàm sắc nét của anh. Việc quan sát Kaz cho Inej cảm giác nguy hiểm theo cách mà cô chưa từng cảm thấy trước đây. Trong đầu cô hiện lên hình ảnh chiếc búa giơ cao, sáng loé dưới ánh đèn sân khấu ở Eil Komedie. Anh ta sẽ không bao giờ đổi chác nếu ông đập gãy chân tôi. Inej thấy biết ơn cảm giác nằng nặng mà bộ dao của cô tạo ra. Cô chạm tay vào chúng như thể đang chào mừng những người bạn cũ, và cảm thấy sự căng thẳng trong lòng mình giảm đi một chút.

“Cô đã nói gì với Van Eck lúc ở trên cầu?” Cuối cùng Kaz lên tiếng. “Lúc chúng ta tiến hành trao đổi ấy?”

“Ông sẽ gặp lại tôi một lần nữa, nhưng chỉ một lần thôi.”

“Lại là một ngạn ngữ khác của người Suli à?

“Đó là một lời hứa với chính tôi. Và với cả Van Eck nữa.”

“Cẩn thận đấy, Bóng Ma. Cô không phù hợp với việc báo thù. Tôi không chắc các vị thánh Suli của cô sẽ chấp nhận chuyện đó.”

“Các vị thánh của tôi không thích sự ức hiếp.” Inej lấy ống tay áo lau cửa sổ bẩn. “Những vụ nổ đó,” cô nói. “Liệu những người khác có an toàn không?”

“Không ai ở gần các vị trí bom nổ. Ít nhất là những cái mà chúng ta đã chứng kiến. Chúng ta sẽ biết nhiều hơn sau khi quay về Mạng Đen.”

Inej không thích như thế. Sẽ thế nào nếu ai đó bị thương? Sẽ thế nào nếu có người không thể quay về đảo? Sau những ngày sợ hãi và mong ngóng, việc ngồi yên ở đây trong lúc bạn bè cô có thể đang gặp rắc rối khơi lên một cảm giác bứt rứt mới nơi Inej.

Cô nhận ra Kaz đang quan sát mình, và hướng ánh mắt vào anh. Ánh nắng chiếu xiên qua cửa sổ, làm cho đôi mắt anh có màu của nước trà đậm. Anh ta sẽ không bao giờ đổi chác nếu ông đập gãy chân tôi. Cô nhớ lại câu nói của chính mình như thể việc nói ra chúng đã làm cổ họng cô bị bỏng.

Kaz không quay đi khi nói tiếp, “Lão ta có làm cô đau không?”

Inej vòng tay ôm quanh đầu gối. Sao anh lại muốn biết chuyện đó? Để anh có thể chắc chắn tôi không đương đầu nổi với nguy hiểm nữa? Để anh có thể thêm tôi vào danh sách những sai lầm mà Van Eck sẽ phải trả giá à?

Kaz đã rất rõ ràng về thoả thuận với Inej ngay từ đầu. Cô là một món đầu tư, một tài sản cần bảo vệ. Cô từng muốn tin giữa hai người đã nảy nở một thứ gì đó nhiều hơn thế. Và Jan Van Eck đã phá tan ảo tưởng đó trong cô. Inej lành lặn và bình yên vô sự. Cô không bị mang thẹo, những tổn hại sau thử thách trên đảo Eil Komedie có thể dễ dàng được miếng ăn và giấc ngủ phục hồi. Nhưng Van Eck đã lấy đi của cô một thứ. Tôi sẽ trở nên vô dụng đối với anh ta. Những chữ đó vùng thoát ra từ một nơi sâu kín trong cô, một sự thật mà cô không thể chối bỏ. Như thế càng mừng. Thà là sự thật kinh khủng còn hơn những lời dối trá ngọt ngào.

Inej để ngón tay tìm đến chỗ chiếc búa đã sượt qua chân mình, và khi thấy ánh mắt của Kaz dõi theo, cô khựng lại. Cô thu tay vào lòng, lắc đầu.

“Không. Lão không làm đau tôi.”

Kaz ngả người ra sau, đôi mắt chậm rãi bóc trần suy nghĩ của cô. Anh không tin cô, nhưng cô sẽ không cố gắng thuyết phục anh lần này.

Kaz chống gậy xuống sàn để làm điểm tựa trong lúc tuột khỏi chồng vải.

“Nghỉ ngơi đi,” anh nói.

“Anh đi đâu vậy?”

“Tôi có việc cần làm ở gần mấy cái tháp, và tôi muốn xem mình có thể thu lượm được thông tin gì.”

Kaz gác cây gậy chống vào một cuộn vải.

“Anh không mang nó theo à?”

“Quá gây nghi ngờ, nhất là khi Van Eck đã lôi thị tuần vào cuộc. Nghỉ đi,” anh lặp lại. “Cô sẽ an toàn ở đây.”

Inej nhắm mắt lại. Cô có thể tin tưởng anh về chuyện đấy.

***

Khi Kaz đánh thức cô dậy, mặt trời đã bắt đầu lặn, nhuộm vàng ngọn tháp Ghezen phía xa. Họ rời kho vải, khoá cửa lại trước khi hoà vào các nhóm công nhân đang trên đường về nhà. Hai người tiếp tục đi về hướng nam rồi sang đông, tránh những phần đông đúc nhất của khu Barrel, nơi chắc chắn sẽ có thị tuần lảng vảng, và đi về phía một khu vực có nhiều nhà ở. Trên một con kênh hẹp, họ lên chiếc thuyền nhỏ rồi lái nó xuôi theo kênh Graf để quay trở vào trong màn sương bao phủ quanh đảo Mạng Đen.

Inej cảm thấy sự căng thẳng tăng lên trong lúc họ len lỏi qua các ngôi mộ để đi tới trung tâm đảo. Cầu cho mọi người bình an, cô nhủ thầm, cầu cho tất cả đều bình an vô sự. Cuối cùng, cô bắt gặp một ánh sáng yếu ớt và những tiếng nói rì rầm. Cô guồng chân chạy, không thèm bận tâm khi chiếc mũ đội trên đầu bị rơi xuống mặt đất phủ đầy dây leo. Cô mở toang cánh cửa nhà mồ.

Năm con người ở bên trong đứng bật dậy, súng và những nắm đấm giơ cao, khiến Inej khựng lại.

Nina rú lên, “Inej!”

Chị lao qua phòng và siết chặt Inej trong một cái ôm ghì. Thế rồi tất cả mọi người đều vây quanh cô, ôm ấp, vỗ vào lưng cô. Nina nhất định không buông cô ra. Jesper quàng tay quanh cả hai người và hét lớn, “Bóng Ma đã trở lại!” trong khi Matthias lùi ra xa, nghiêm túc như mọi khi, nhưng miệng mỉm cười. Inej nhìn từ cậu nhóc người Shu đang ngồi ở chiếc bàn giữa nhà mồ tới cậu nhóc người Shu đang lởn vởn trước mặt cô.

“Wylan?” Cô hỏi cậu nhóc ở gần mình hơn.

Cậu ta mỉm cười, nhưng nụ cười méo xệch đi khi cậu đáp, “Xin lỗi vì những gì cha tôi đã làm.”

Inej ôm chầm lấy cậu và thì thầm, “Chúng ta không phải là cha mình.”

Kaz gõ cây gậy chống xuống mặt sàn bằng đá. Anh đang đứng trên ngưỡng cửa nhà mồ. “Mọi người vồ vập xong chưa? Chúng ta còn việc phải làm.”

“Khoan,” Jesper đáp, cánh tay vẫn đang choàng qua người Inej. “Chúng ta sẽ không bàn về công việc cho tới khi hiểu được chuyện gì đã xảy ra ở Stave.”

“Là chuyện gì?” Inej hỏi lại.

“Cô không biết một nửa Stave đã nổ tung à?”

“Bọn tôi thấy quả bom ở Nhà Hồng Bạch phát nổ,” Inej đáp, “sau đó chúng tôi có nghe một tiếng nổ khác.”

“Ở Lò Rèn,” Nina lên tiếng.

“Sau đó thì,” Inej nói nốt, “bọn tôi bỏ chạy.”

Jesper gật đầu vẻ thông hiểu. “Đó là một sai lầm lớn. Nếu nán lại thì cô đã có thể bị giết chết bởi một thằng người Shu có cánh.”

“Hai,” Wylan chỉnh lại.

Inej nhíu mày. “Hai cánh?”

“Hai thằng,” Jesper đáp.

“Có cánh sao?” Inej dò hỏi. “Như chim á?”

Nina kéo cô lại chỗ chiếc bàn bày bừa lộn xộn, nơi một tấm bản đồ Ketterdam đã được trải rộng. “Không phải, giống ngài hơn, một con ngài máy chết chóc. Em có đói không? Bọn chị có bánh quy sôcôla đây.”

“Ờ, phải rồi,” Jesper thốt lên. “Cô ấy thì được ăn bánh.”

Nina ấn Inej vào một chiếc ghế và dằn hộp bánh xuống trước mặt cô. “Ăn đi,” chị ra lệnh. “Hai thằng người Shu có cánh, với cả một thằng cha và một con mụ rất… không bình thường.”

“Năng lực của Nina không tác động được tới bọn chúng,” Wylan giải thích.

“Hừm,” Nina ậm ừ một cách bí hiểm, miệng nhai rón rén phần rìa một chiếc bánh quy. Inej chưa bao giờ thấy Nina ăn uống nhỏ nhẹ bao giờ. Cảm giác ngon miệng rõ ràng chưa quay lại với chị, nhưng cô tự hỏi liệu còn lí do nào khác.

Matthias nhập bọn với họ bên chiếc bàn. “Mụ người Shu mà chúng tôi gặp phải khoẻ hơn cả tôi, Jesper và Wylan cộng lại.”

“Cô không nghe nhầm đâu. Khoẻ hơn cả Wylan,” Jesper trêu.

“Tôi đã làm tròn phần việc của mình,” Wylan phản đối.

“Hẳn rồi, thiếu gia ạ. Cái quả bom tím đó là gì vậy?”

“Một thứ mới mẻ mà tôi đang nghiên cứu. Nó dựa theo một phát minh của người Ravka được gọi là lumiya, ánh lửa gần như không thể dập tắt được. Nhưng tôi đã thay đổi công thức để làm nó nóng hơn.”

“Thật may mắn khi có cậu trong nhóm,” Matthias nói với một cái nghiêng mình thi lễ, làm Wylan sướng đỏ mặt. “Những sinh vật đó gần như không thể bị đạn xuyên thủng.”

“Gần như thôi,” Nina làu bàu. “Chúng mang theo lưới. Chúng truy lùng và bắt cóc các Grisha.”

Kaz tựa vai vào tường. “Bọn chúng có sử dụng parem không?”

Nina lắc đầu. “Không. Tôi không nghĩ chúng là Grisha. Chúng không thể hiện năng lực nào, và cũng không tự làm lành vết thương. Có vẻ như chúng được cấy kim loại dưới da hay sao ấy.”

Nina trao đổi nhanh với Kuwei bằng tiếng Shu.

Kuwei rên lên. “Kherguud.” Mọi người nhìn cậu nhóc, chẳng hiểu gì cả. Kuwei thở dài và nói tiếp, “Khi cha tôi tạo ra parem, chính quyền đã thử nghiệm nó trên các Sáng Chế Gia.”

Jesper ngoẹo đầu sang một bên. “Là tôi, hay là tiếng Kerch của cậu đã khá lên vậy?”

“Tiếng Kerch của tôi ổn. Là các anh nói quá nhanh thôi.”

“Ờ,” Jesper dài giọng. “Sao bọn Shu các cậu lại thử parem trên Sáng Chế Gia nhỉ?” Anh duỗi người trên ghế, tay đặt trên súng, nhưng lnej không tin anh hoàn toàn thả lỏng.

“Bọn họ đã bắt nhiều Sáng Chế Gia,” Kuwei đáp.

“Đó là những Grisha dễ bắt nhất,” Matthias xen vào, phớt lờ ánh mắt giận dữ của Nina. “Dạo trước, họ không được huấn luyện nhiều về kĩ năng chiến đấu, và không có parem thì năng lực của họ chẳng mấy phù hợp cho việc đánh nhau.”

“Những người lãnh đạo của Shu Han muốn tiến hành nhiều thử nghiệm hơn,” Kuwei nói tiếp. “Nhưng họ không rõ có thể tìm được bao nhiêu Grisha…”

“Giá như họ đã không giết quá nhiều chăng?” Nina ướm lời.

Kuwei gật đầu, không hiểu, hoặc phớt lờ sự mỉa mai trong giọng điệu của Nina. “Phải. Chính quyền không có nhiều Grisha, và việc sử dụng parem rút ngắn tuổi thọ của họ. Thế nên các bác sĩ được điều động tới làm việc với các Sáng Chế Gia đã dùng parem để tạo ra một loại chiến binh mới, Kherguud. Tôi không biết liệu họ có thành công hay không.”

“Tôi nghĩ mình có thể trả lời câu hỏi đó bằng một chữ CÓ to đùng,” Jesper đáp.

“Những chiến binh được thiết kế đặc biệt,” Nina trầm ngâm nói. “Trước chiến tranh, tôi có nghe nói bọn họ thử làm chuyện tương tự tại Ravka. Củng cố bộ xương, thay đổi mật độ xương, cấy kim loại. Bọn họ đã thử nghiệm trên các tình nguyện viên của Thượng Quân. Thôi nào, đừng có nhăn mặt, Matthias. Các thủ lĩnh Fjerda của anh chắc cũng thử làm chuyện đó nếu có thời gian.”

“Sáng Chế Gia điều khiển các chất rắn,” Jesper lên tiếng. “Kim loại, thuỷ tinh, sợi vải. Còn cái này giống với tác phẩm của Tâm Y hơn.”

Vẫn nói năng như thể anh không giống như họ, Inej nghĩ bụng. Tất cả mọi người đều đã biết Jesper là một Sáng Chế Gia, ngay đến Kuwei cũng khám phá ra chuyện đó sau khi họ thoát khỏi Lâu Đài Băng. Thế nhưng Jesper gần như không bao giờ thừa nhận năng lực của mình. Cô đoán anh muốn giữ bí mật về nó.

“Trường hợp các Thợ May là một sự xoá nhoà ranh giới giữa Sáng Chế Gia và Tâm Y,” Nina thừa nhận. “Tại Ravka, tôi từng có một giáo viên tên là Genya Safin. Chị ấy có thể làm một Độc Tâm Y hoặc một Sáng Chế Gia nếu muốn, nhưng lại trở thành một Thợ May lừng lẫy. Công việc mà cậu mô tả thật sự chỉ là một dạng may vá ở cấp độ cao.”

Inej chưa thể chấp nhận điều đó. “Nhưng có phải chị nói là mình đã thấy một người đàn ông với đôi cánh được ghép vào lưng theo cách nào đó?”

“Không, đó là một thiết bị. Một cái khung kim loại được căng vải bạt, có lẽ thế. Nhưng nó tinh vi hơn là nhét một cặp cánh vào giữa hai bả vai của ai đó. Em phải nối với hệ thống cơ bắp, làm rỗng các xương để giảm trọng lượng cơ thể nhưng phải bù đắp cho sự thiếu vắng của tuỷ xương, có thể là thay thế hoàn toàn bộ xương. Mức độ phức tạp của việc đó…”

“ Parem ,” Matthias nói nốt, đôi lông mày màu vàng nhíu lại. “Một Sáng Chế Gia sử dụng parem có thể làm được việc đó.”

Nina dịch người ra khỏi chiếc bàn và hỏi Kaz. “Chẳng lẽ Hội đồng Thương buôn không làm gì trước vụ tấn công của người Shu? Bọn chúng được phép đi vào Kerch và cho nổ tung các thứ, bắt cóc người ta hay sao?”

“Tôi không nghĩ Hội đồng sẽ hành động,” anh đáp. “Trừ phi bọn người Shu kia mặc đồng phục, còn không thì chính phủ Shu Han nhiều khả năng sẽ phủ nhận trách nhiệm đối với vụ tấn công.”

“Vậy là bọn chúng được tự do quay về ư?”

“Có lẽ là không,” Kaz đáp. “Tôi đã dành thời gian dò hỏi một chút tại cảng hôm nay. Hai tàu chiến của người Shu đã bị Hội đồng Thuỷ triều làm cho mắc cạn.”

Đôi giày của Jesper trượt khỏi mặt bàn và đập mạnh xuống sàn. “Gì cơ?”

“Họ đã rút thuỷ triều ra xa.Toàn bộ. Và tạo thành một hòn đảo mới với hai chiếc tàu chiến nằm chơ vơ trên đó. Các cậu có thể trông thấy chúng nằm phơi bụng, buồm chúc xuống bùn, ngay ở bến cảng.”

“Một sự phô trương sức mạnh,” Matthias nói.

“Nhân danh các Grisha trong thành ư?” Jesper thắc mắc.

Kaz nhún vai. “Ai mà biết được? Nhưng chuyện này có thể sẽ khiến cho người Shu thận trọng hơn trong lúc đi lùng sục trên những con phố của Ketterdam.”

“Hội đồng Thuỷ triều có thể giúp chúng ta được không?” Wylan hỏi. “Nếu biết về parem, chắc họ sẽ lo ngại việc nó lọt vào tay kẻ xấu.”

“Cậu tìm ra họ bằng cách nào?” Nina chua chát hỏi lại. “Không ai biết danh tính của các thành viên Hội đồng Thuỷ triều, không một ai từng nhìn thấy họ đến hoặc đi khỏi những tháp canh đó.” Inej bỗng thắc mắc liệu Nina có từng tìm kiếm sự giúp đỡ từ Hội đồng Thuỷ triều hồi chị mới chân ướt chân ráo đến Ketterdam, mười sáu tuổi, một Grisha bị chia cách với tổ quốc, không bạn bè thân thích hay kiến thức về nơi mình đang ở. “Người Shu sẽ không hèn nhát mãi đâu. Bọn họ tạo ra các chiến binh này vì một lí do nào đó.”

“Rất khôn khéo, nếu chúng ta ngẫm nghĩ một chút về nó,” Kaz nói. “Người Shu đang gia tăng nguồn lực của họ. Một Grisha nghiện ngập sẽ không thể sống sót lâu dài, nên bọn họ đã tìm ra cách thức khác để khai thác năng lực đặc biệt.”

“Các chiến binh không thể huỷ diệt, với khả năng tồn tại vượt xa những người tạo ra chúng,” Matthias lắc đầu bình phẩm.

Jesper đưa tay xoa miệng. “Và có thể đi săn lùng thêm nhiều Grisha khác. Tôi dám thề là một trong số chúng đánh hơi thấy chúng ta và tìm đến.”

“Có chuyện đó được sao?” Inej kinh hãi hỏi lại.

“Tôi chưa bao giờ nghe nói về chuyện các Grisha toả ra mùi hương đặc biệt,” Nina đáp, “nhưng cũng dám lắm. Nếu thụ cảm khứu giác của bọn chúng được cải thiện thì… Có thể đó là một mùi mà những người bình thường không thể ngửi thấy.”

“Tôi không nghĩ đây là vụ tấn công đầu tiên,” Jesper nói tiếp. “Wylan, còn nhớ người Tiết Khí Sư trong phòng sách hiếm đã tỏ ra sợ hãi đến thế nào không? Với cả con tàu buôn mà Rotty đã kể với chúng ta nữa?”

Kaz gật gù. “Nó đã bị phá nát, một nhóm thuỷ thủ đã thiệt mạng. Lúc đó, họ tưởng người Tiết Khí Sư của tàu đã nổi điên và muốn tự giải phóng mình khỏi giao kèo làm việc. Nhưng có thể ông ta đã không làm thế. Có thể ông ta đã bị bắt cóc. Ông ta là một trong những Grisha giúp việc của Uỷ viên hội đồng Hoede.”

“Emil Retvenko.” Nina nói.

“Đúng vậy. Cô biết ông ta à?”

“Tôi biết đến ông ta thôi. Hầu hết các Grisha ở Ketterdam đều biết về nhau, chúng tôi chia sẻ thông tin, cố gắng để mắt đến nhau. Người Shu hẳn phải có gián điệp ở đây nếu chúng biết chỗ để tìm từng người trong chúng tôi. Các Grisha khác…” Nina đứng lên, nhưng rồi phải níu lấy lưng ghế, như thể bị chóng mặt vì cử động đột ngột.

Inej và Matthias lập tức bật dậy.

“Chị vẫn ổn chứ?” Inej hỏi.

“Cực ổn,” Nina đáp với một nụ cười gượng. “Nhưng nếu các Grisha khác tại Ketterdam đang gặp nguy hiểm thì…”

“Cô sẽ làm gì?” Jesper hỏi luôn. Inej bất ngờ trước sự cứng rắn trong giọng điệu của anh. “Cô đã rất may mắn khi sống sót sau chuyện xảy ra hôm nay. Những tên chiến binh người Shu đó có thể ngửi thấy chúng ta, Nina à.” Anh quay sang nói với Kuwei. “Chính cha cậu đã hiện thực hoá điều đó.”

“Jesper này,” Wylan lên tiếng, “anh bình tĩnh lại đi.”

“Bình tĩnh? Như thể mọi chuyện chưa đủ tệ với các Grisha hay sao? Sẽ thế nào nếu chúng lần ra chúng ta trên đảo Mạng Đen này? Có đến ba người chúng tôi đang ở đây.”

Kaz gõ ngón tay xuống bàn. “Wylan nói đúng đó. Cậu bình tĩnh lại đi. Ketterdam trước đây không hề an toàn, và bây giờ cũng thế. Do vậy chúng ta hãy kiếm đủ tiền để chuyển đi nơi khác sống.”

Nina chống tay vào hông. “Chúng ta có đang nhắc đến tiền thật không đấy?”

“Chúng ta đang nói về việc hoàn thành nhiệm vụ và bắt Van Eck trả giá.”

Inej khoác tay Nina. “Tôi muốn biết chúng ta có thể làm gì để giúp các Grisha còn đang ở Ketterdam.” Cô nhớ lại hình ảnh chiếc búa loang loáng vung lên cao. “Và tôi cũng muốn biết chúng ta sẽ làm Van Eck trả giá như thế nào.”

“Ở đây còn những vấn đề lớn hơn,” Matthias lên tiếng.

“Với tôi thì không,” Jesper nói. “Tôi còn hai ngày để dàn xếp với bố.”

Inej tưởng mình nghe lầm. “Bố anh á?”

“Phải. Họp gia đình ngay tại Rotterdam này,” Jesper đáp. “Mọi người đều được mời nhé.”

Inej không bị đánh lừa bởi giọng điệu bông lơn của Jesper. “Vì món nợ ư?”

Bàn tay anh lại đặt lên mấy khẩu súng. “Phải. Thế nên tôi thật sự muốn biết chúng ta định thu xếp vụ nợ nần này như thế nào.”

Kaz đảo người trên cây gậy chống. “Mọi người có ai thắc mắc tôi đã làm gì với chỗ tiền mặt được Pekka Rollins đưa không?”

Ruột gan Inej thắt lại. “Anh đi mượn tiền của Pekka Rollins sao?”

“Tôi sẽ không bao giờ để mình mắc nợ lão ta. Tôi đã bán cho lão phần hùn của mình ở cảng số Năm và Quạ Đen.”

Không. Kaz đã xây dựng nên những nơi đó từ con số không. Chúng là minh chứng cho những gì anh đã làm cho băng Cặn Bã.

“Kaz…”

“Mọi người nghĩ số tiền đó đã đi đâu?” Anh lặp lại.

“Súng đạn?” Jesper hỏi lại.

“Tàu bè?” Inej phỏng đoán.

“Bom mìn?” Wylan đề xuất.

“Hay đút lót?” Nina thăm dò. Tất cả mọi người đều nhìn vào Matthias. “Đây là lúc anh nói cho bọn em biết bọn em kinh khủng thế nào đấy,” chị nói khẽ.

Anh chàng người Fjerda nhún vai đáp. “Tất cả đều là những lựa chọn thực tế.”

“Đường,” Kaz nói.

Jesper đẩy hũ đường trên bàn tới trước mặt anh.

Kaz đảo mắt. “Không phải để cho vào cà phê của tôi, ngốc ạ. Tôi đã dùng tiền để mua cổ phiếu đường, rồi chia chúng vào các tài khoản cá nhân cho tất cả chúng ta - với tên giả, tất nhiên rồi.”

“Tôi không thích phán đoán,” Matthias nói.

“Tất nhiên rồi. Anh thích những thứ nhìn thấy được. Những đống tuyết hoặc các vị thần cây nhân từ chẳng hạn.”

“Đây rồi!” Inej ngả đầu lên vai Nina và tươi cười về phía Matthias. “Em nhớ cái trừng mắt của anh ta biết bao.”

“Ngoài ra,” Kaz nói tiếp, “không phải là phán đoán nếu ta đã biết trước kết quả.”

“Anh biết gì về vụ đường này à?” Jesper hỏi.

“Tôi biết về nguồn cung cấp.”

Wylan ngồi thẳng lại. “Xi-lô,” cậu nói. “Các xi-lô ở Bãi Ngọt.”

“Giỏi lắm, thiếu gia.”

Matthias lắc đầu. “Bãi Ngọt là gì vậy?”

“Nó là một khu vực nằm ở phía nam Cảng số Sáu,” Inej đáp. Cô nhớ lại hình ảnh cụm xi-lô cao lừng lững bên trên khu nhà kho. Chúng cao như những ngọn núi nhỏ. “Đó là nơi người ta trữ mật đường, mía. Cả các nhà máy tinh luyện đường nữa. Hôm nay chúng ta vừa ở một nơi rất gần chỗ đó. Không phải là trùng hợp, đúng không?”

“Không phải trùng hợp,” Kaz xác nhận. “Tôi đã muốn cô quan sát địa thế khu vực. Hầu hết mía đến từ Thuộc địa phương Nam và Novyi Zem, nhưng phải ba tháng nữa mới tới kì thu hoạch tiếp theo. Mía của vụ này thì đã được luyện thành đường và tích trữ trong các xi-lô ở Bãi Ngọt.”

“Có ba mươi cái cả thảy,” Wylan nói. “Cha tôi sở hữu mười trong số đó.”

Jesper huýt gió. “Van Eck kiểm soát một phần ba nguồn cung cấp đường cơ á?”

“Van Eck sở hữu các xi-lô,” Kaz đáp, “nhưng chỉ làm chủ một lượng đường nhỏ được trữ trong đó. Lão ta dùng tiền túi trang trải các chi phí, thuê vệ quân canh gác, và trả tiền cho các Tiết Khí Sư để kiểm soát độ ẩm trong xi-lô sao cho các hạt đường được khô ráo. Các lái buôn làm chủ chỗ đường đó trả cho lão một phần hoa hồng nhỏ cho mỗi đợt bán. Chúng sinh lời rất nhanh.”

“Chỗ tài sản khổng lồ đó nằm trong tầm kiểm soát của một người,” Matthias ngẫm nghĩ. “Nếu mấy cái xi-lô đó bị gì, giá đường sẽ…”

“Sẽ vọt lên cao như một viên đạn,” Jesper nói nốt và đứng bật dậy, rảo bước qua lại trong nhà mồ.

“Giá đường sẽ tăng lên không ngừng,” Kaz xác nhận. “Và kể từ vài ngày trước, chúng ta đã sở hữu phần hùn trong những công ty không trữ đường tại các xi-lô của Van Eck. Ngay lúc này, chúng chỉ có giá trị bằng với lúc chúng ta mua. Nhưng một khi chúng ta phá huỷ chỗ đường trong các xi-lô của Van Eck…”

Jesper nhảy tưng tưng. “Chúng sẽ tăng giá gấp năm, thậm chí gấp mười lần so với hiện nay.”

“Thêm nữa đi.”

Jesper rú lên. “Hai mươi!”

“Chúng ta có thể bán ra và thu lãi khủng,” Wylan nói. “Chúng ta sẽ giàu to chỉ trong một đêm.”

Inej nghĩ đến một con thuyền hai buồm trang bị đại bác hạng nặng. Nó sẽ là của cô. “Ba mươi triệu kruge nổi không?” Cô hỏi. Phần thưởng mà Van Eck đã hứa với cả nhóm cho vụ Lâu Đài Băng, nhưng không hề có ý định trả.

Nụ cười hé mở trên môi Kaz. “Khoảng đó, xê xích chừng một triệu.”

Wylan cắn móng tay. “Cha tôi có thể vượt qua mất mát này. Nhưng các thương gia khác, những người làm chủ số đường trữ trong xi-lô của ông ta, sẽ điêu đứng nặng.”

“Đúng vậy,” Matthias nói. “Và nếu chúng ta phá huỷ các xi-lô đó, thì rõ ràng đích nhắm là Van Eck.”

“Chúng ta có thể làm cho chúng giống như một tai nạn,” Nina đề xuất.

“Chúng sẽ là như thế,” Kaz nói. “Lúc đầu. Nhờ mọt hạt. Giải thích cho họ đi, Wylan.”

Wylan chồm người tới trước như một cậu học sinh đang nôn nóng muốn chứng tỏ rằng mình biết câu trả lời. Cậu rút từ trong túi ra một cái lọ nhỏ. “Cái này sẽ phát huy tác dụng.”

“Mọt hạt đây á?” Inej hỏi, mắt nhìn săm soi cái lọ.

“Mọt hoá chất,” Jesper đáp. “Nhưng Wylan vẫn chưa đặt tên cho nó. Tôi bình chọn cái tên Mọt Wylan.”

“Gớm quá,” Wylan nói.

“Hay quá thì có,” Jesper nháy mắt. “Giống như cậu vậy.”

Wylan đỏ bừng mặt.

“Tôi cũng góp một tay mà,” Kuwei lên tiếng với vẻ mặt hờn dỗi.

“Đúng vậy,” Wylan xác nhận.

“Chúng ta sẽ làm cho cậu ấy một tấm bảng vinh danh nhé,” Kaz nói. “Giải thích cơ chế hoạt động của nó đi.”

Wylan hắng giọng. “Ý tưởng này bắt nguồn từ bệnh cháy lá ở mía. Chỉ cần nhiễm một loại vi khuẩn cũng đủ làm tàn lụi cả vụ mía. Khi hoá chất này được cho vào các xi-lô, nó sẽ lan dần xuống, dùng đường như nhiên liệu, cho đến khi toàn bộ các hạt đường chỉ còn là một đống bầy nhầy vô dụng.”

“Nó phản ứng với đường à?” Jesper hỏi lại.

“Phải, bất kì loại đường nào. Dù là một lượng đường rất nhỏ, nếu có đủ độ ẩm, do vậy hãy giữ nó tránh xa mồ hôi, máu, nước bọt.”

“Không được liếm Mọt Wylan. Có ai cần tôi viết ra không?”

“Những cái xi-lô đó cao khủng khiếp,” Inej thắc mắc. “Chúng ta cần một lượng bao nhiêu?”

“Một lọ cho mỗi xi-lô,” Wylan đáp.

Inej nhìn cái lọ thuỷ tinh nhỏ xíu. “Thật á?”

“Nhỏ mà có võ,” Jesper đáp, một lần nữa nháy mắt. “Giống như cô đấy.”

Nina phá lên cười, và Inej không thể không đáp lại nụ cười nhăn răng của Jesper. Cơ thể cô đau nhức nhối, cô chỉ muốn ngủ một mạch hai ngày liên tục, nhưng cô cảm thấy một phần trong con người mình đang mở ra, giải phóng những sự kinh hoàng và giận dữ của tuần vừa qua.

“Mọt hạt sẽ làm cho việc phá huỷ chỗ đường đó giống như một tai nạn,” Wylan nói.

“Đúng vậy,” Kaz xác nhận, “cho đến khi các thương gia khác biết được Van Eck đã mua gom những chỗ đường không trữ trong các xi-lô của lão ta.”

Mắt Wylan mở to. “Gì cơ?”

“Tôi đã dùng phân nửa số tiền để mua cổ phiếu cho chúng ta. Nửa còn lại, tôi mua cổ phiếu dưới danh nghĩa Van Eck, thật ra là dưới danh nghĩa của một công ty do Alys đứng tên. Không thể để nó quá hiển nhiên được. Mọi thứ được giao dịch bằng tiền mặt, không thể truy lại nguồn gốc. Nhưng các văn bản xác nhận việc mua bán chúng sẽ được tìm thấy, nguyên vẹn và có đóng dấu, tại văn phòng luật sư của Van Eck.”

“Cornelius Smeet,” Matthias ngỡ ngàng thốt lên. “Hết cú lừa này đến cú lừa khác. Cậu không chỉ tìm kiếm nơi ẩn trốn của Alys Van Eck khi đột nhập vào văn phòng của ông ta.”

“Chỉ dùng một chiêu trò thì không thể thắng được đâu,” Kaz đáp. “Danh tiếng của Van Eck sẽ bị ảnh hưởng khi số đường đó mất đi. Nhưng khi những người đã trả tiền thuê xi-lô của Van Eck phát hiện ra lão ta hưởng lợi từ mất mát của mình thì họ sẽ kiểm tra kĩ hơn các xi-lô đó.”

“Và tìm thấy mọt hạt,” Wylan nói nốt.

“Phá hoại tài sản, khuynh đảo thị trường,” Inej lầm bầm. “Đó sẽ là dấu chấm hết đối với Van Eck.” Cô nhớ lại lúc Van Eck ra hiệu cho tay chân của lão giơ búa lên. Ta không muốn một cú gãy gọn. Đập cho nát xương ra. ” Lão có bị đi tù không?”

“Van Eck sẽ bị kết tội vi phạm hợp đồng và thao túng thị trường,” Kaz đáp. “Không còn tội nào nghiêm trọng hơn theo luật của Kerch. Hình phạt sẽ giống như tội sát nhân. Lão có thể bị treo cổ.”

“Thật sao?” Wylan buột miệng nói khẽ. Cậu dùng ngón tay vạch một đường trên tấm bản đồ Ketterdam, từ Bãi Ngọt băng qua khu Barrel tới đường Geldstraat, nơi ở của cha cậu. Jan Van Eck đã tìm cách đoạt mạng Wylan. Ông ta đã tống khứ cậu đi như một đống rác. Nhưng Inej tự hỏi liệu Wylan có sẵn sàng đẩy cha mình vào cửa tử hay không.

“Tôi không nghĩ lão ta sẽ bị treo lủng lẳng trên một sợi dây thừng,” Kaz đáp. “Tôi đoán họ sẽ áp dụng một hình phạt nhẹ nhàng hơn. Không một Uỷ viên hội đồng nào muốn đưa thành viên của mình lên giá treo cổ. Còn việc lão ta có phải vào ngồi trong tù hay không?” Anh nhún vai. “Cái đó còn tuỳ luật sư của lão ta giỏi cỡ nào.”

“Nhưng ông ta sẽ không được kinh doanh nữa,” Wylan nói với giọng run run. “Cơ đồ của ông ta sẽ bị trưng thu để đền bù cho thiệt hại trong vụ huỷ hoại đường.”

“Đó sẽ là kết thúc của đế chế Van Eck,” Kaz nói.

“Thế còn Alys?” Wylan hỏi.

Kaz một lần nữa nhún vai. “Sẽ không ai tin chị ta có dính líu gì với một âm mưu tài chính đâu. Alys sẽ đâm đơn li dị và rất có thể sẽ quay về nhà bố mẹ. Chị ta sẽ khóc một tuần lễ, hát hai tuần lễ nữa, rồi vượt qua cú sốc. Biết đâu chị ta sẽ cưới một hoàng tử.”

“Hoặc một thầy giáo dạy nhạc,” Inej nói và nhớ lại sự hoảng hốt của Bajan khi hay tin Alys bị bắt cóc.

“Chỉ có một vấn đề nhỏ,” Jesper lên tiếng, “khi tôi nói nhỏ có nghĩa là nó ‘to đùng, hiển nhiên, hãy quên vụ này và đi uống bia’. Các xi-lô. Tôi biết chúng ta rất giỏi đột nhập vào những nơi không thể đột nhập, nhưng làm thế nào ta chui vào trong đó được?”

“Kaz có thể phá khoá,” Wylan đáp.

“Không,” Kaz nói luôn. “Tôi không thể.”

“Tôi không nghĩ mình từng nghe thấy câu này từ miệng anh đấy,” Nina nói. “Anh nói lại xem nào, chậm rãi và rõ ràng hơn.”

Kaz phớt lờ. “Chúng là những ổ khoá bốn thuỳ. Bốn chìa khoá phải được xoay cùng một lúc trong ổ, nếu không cửa an toàn và chuông báo động sẽ được kích hoạt. Tôi có thể phá mọi ổ khoá, nhưng phá bốn cái một lúc thì không.”

“Vậy chúng ta sẽ vào trong bằng cách nào?” Jesper thắc mắc.

“Mấy cái xi-lô đó cũng mở được từ trên đỉnh.”

“Chúng cao như toà nhà hai mươi tầng! Không lẽ Inej phải leo lên leo xuống mười cái như thế trong một đêm?”

“Chỉ một cái thôi,” Kaz đáp.

“Rồi sau đó thì sao?” Nina chống nạnh hỏi lại, đôi mắt toé lửa.

Inej nhớ lại cụm xi-lô cao ngất và khoảng cách giữa chúng.

“Sau đó,” cô nói, “em sẽ đi thăng bằng trên sợi dây căng từ cái này sang cái kia.”

Nina vung tay lên trời. “Và hoàn toàn không có lưới an toàn, có phải thế không?”

“Người nhà Ghafa không bao giờ biểu diễn với lưới an toàn,” Inej đáp với giọng phật ý.

“Thế người nhà Ghafa có thường xuyên đi dây thăng bằng giữa những toà nhà hai mươi tầng, phía dưới là mặt đường lát đá, sau khi đã bị cầm tù suốt một tuần lễ hay không?”

“Sẽ có lưới,” Kaz nói. “Nó đã được cất phía sau trạm gác của cụm xi-lô, bên dưới một chồng bao cát.”

Im lặng tuyệt đối đột ngột bao trùm nhà mồ. Inej không thể tin vào tai mình. “Tôi không cần lưới.”

Kaz xem đồng hồ. “Không hỏi han nữa. Chúng ta có sáu giờ để ngủ cho lại sức. Tôi sẽ xoáy các trang bị của đoàn xiếc Zirkoa. Họ dựng lều ngay phía tây ngoại vi Ketterdam. Inej, hãy liệt kê những thứ cô cần. Chúng ta sẽ tấn công cụm xi-lô sau hai mươi tư giờ nữa.”

“Tuyệt đối không,” Nina đáp luôn. “Inej cần nghỉ ngơi.”

“Phải đấy,” Jesper đồng tình. “Trông cô ấy gầy gò đến mức gió thổi bay được ấy.”

“Tôi ổn,” Inej đáp.

Jesper đảo mắt. “Cô luôn nói như thế.”

“Không phải ở đây mọi thứ luôn diễn ra như vậy sao?” Wylan hỏi lại. “Chúng ta luôn nói với Kaz rằng mình ổn để rồi làm những chuyện ngu ngốc.”

“Bọn tôi dễ đoán đến thế à?” Inej hỏi cậu.

Wylan và Matthias đồng thanh đáp, “ Phải .”

“Mọi người có muốn đánh bại Van Eck không?” Kaz hỏi.

Nina thở hắt ra. “Dĩ nhiên.”

Đôi mắt của Kaz lướt từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác. “Có hay không? Mọi người có muốn tiền của mình không? Số tiền mà vì nó chúng ta đã phải chiến đấu, đổ máu, và suýt mất mạng? Hay mọi người muốn Van Eck mừng rơn vì đã chọn được một nhóm côn đồ vô danh tiểu tốt từ khu Barrel để lừa gạt? Bởi vì sẽ không có ai trừng trị lão cho chúng ta đâu. Không một ai quan tâm chuyện lão đã lừa chúng ta, hay chúng ta đã liều mạng vô ích như thế nào. Sẽ không có ai đứng ra chỉnh đốn chuyện này. Vậy nên tôi mới hỏi, mọi người có muốn dạy cho Van Eck một bài học không?”

“Có,” Inej đáp. Cô muốn công lí được thực thi.

“Tuyệt đối có,” Nina nói.

“Và không phải một bài thổi sáo của Wylan,” Jesper đế thêm.

Từng người một, họ lần lượt gật đầu.

“Tình hình đã thay đổi,” Kaz nói. “Dựa trên sự phô trương lực lượng của Van Eck hôm nay, những cáo thị truy nã mang khuôn mặt của chúng ta có lẽ đã được dán khắp Ketterdam, và tôi đoán lão cũng hứa hẹn một khoản tiền thưởng hậu hĩnh. Van Eck đang dựa vào uy tín của mình, và chúng ta càng phá huỷ nó sớm chừng nào thì càng tốt chừng đó. Chúng ta sẽ lấy tiền của lão, danh tiếng và sự tự do của lão, tất cả chỉ trong một đêm. Nhưng điều đó có nghĩa chúng ta sẽ không dừng lại. Bất chấp sự bực tức của mình, Van Eck sẽ ăn một bữa tối thịnh soạn và ngủ một giấc không mộng mị trên chiếc giường êm ấm của mình. Những tay thị tuần kia sẽ tạm ngả mái đầu mệt mỏi của mình để nghỉ ngơi cho tới khi phải vào ca trực tiếp theo, trong lòng tự hỏi liệu có được trả tiền làm ngoài giờ hay không. Nhưng chúng ta không dừng lại. Đồng hồ đang điểm từng giây phút, chúng ta có thể nghỉ ngơi một khi đã giàu có. Đồng ý không?”

Lại một loạt những cái gật đầu.

“Nina, xung quanh cụm xi-lô có vệ quân đi tuần. Cô sẽ là người đánh lạc hướng. Một cô nàng Ravka khốn quẫn, chân ướt chân ráo tới Ketterdam, tìm kiếm việc làm ở khu nhà kho. Cô cần làm cho họ bận rộn đủ lâu để những người còn lại có thể vào trong, và Inej leo lên xi-lô đầu tiên. Tiếp đó…”

“Với một điều kiện,” Nina nói luôn, tay khoanh lại.

“Đây không phải một cuộc thương lượng.”

“Tất cả mọi thứ đều có thể thương lượng đối với anh, Brekker. Có khi anh còn đổi chác cả cái cách mình chui ra khỏi bụng mẹ ấy chứ. Nếu tôi làm vụ này, tôi muốn chúng ta đưa các Grisha còn lại ra khỏi Ketterdam.”

“Quên đi. Tôi không rảnh để đi làm từ thiện.”

“Vậy thì tôi nghỉ.”

“Tốt. Cô nghỉ vụ này. Cô vẫn sẽ có phần chia của mình vì vụ Lâu Đài Băng, nhưng tôi không cần cô cho vụ này.”

“Không,” Inej nói khẽ. “Nhưng anh cần tôi.”

Kaz gác cây gậy chống lên đôi chân của mình. “Hình như mọi người bắt đầu thành lập liên minh.”

Inej còn nhớ nắng chiều đã làm đôi mắt anh ánh lên màu nâu như thế nào mới vài giờ trước. Giờ thì chúng có màu cà phê đắng nghét. Nhưng cô sẽ không nhượng bộ.

“Cái đó gọi là tình bạn, Kaz à.”

Anh hướng mắt sang phía Nina. “Tôi không thích bị đặt điều kiện.”

“Còn tôi thì không thích những đôi giày làm ngón chân bị cấn, nhưng chúng ta phải chịu đựng thôi. Hãy coi đây là một thử thách cho bộ óc thiên tài của anh.”

Sau khi ngừng lời một lúc, Kaz hỏi, “Số người mà chúng ta đang nói tới là bao nhiêu?”

“Ở Ketterdam có chưa đến ba mươi Grisha tôi biết, ngoài những người trong Hội đồng Thuỷ triều.”

“Và cô sẽ tập hợp họ lại như thế nào? Phát tờ rơi chỉ dẫn họ đến một cái bè lớn à?”

“Có một tửu quán ở gần toà đại sứ Ravka. Chúng tôi sử dụng nó làm nơi gửi lời nhắn hoặc trao đổi thông tin. Tôi có thể lan truyền tin tức từ đó. Tiếp đến, chúng ta chỉ cần một con thuyền. Van Eck không thể canh chừng mọi hải cảng.”

Inej không muốn phản bác, nhưng cô phải nêu ý kiến. “Em nghĩ lão ta có thể đấy. Van Eck có toàn bộ sự hậu thuẫn của chính quyền Ketterdam. Chị chưa thấy phản ứng của lão khi biết Kaz dám bắt cóc Alys đâu.”

“Đừng có nói là lão sùi cả bọt mép nhé,” Jesper bình phẩm.

“Cũng gần như thế.”

Kaz khập khiễng đi tới cửa nhà mồ, hướng mắt nhìn bóng tối bên ngoài. “Van Eck không dễ dàng ra quyết định lôi chính quyền vào cuộc đâu. Nó là một nguy cơ, và lão sẽ không chấp nhận nguy cơ đó nếu không định tranh thủ nó tới cùng. Lão sẽ cảnh báo mọi hải cảng, mọi tháp canh, với mệnh lệnh xét hỏi bất kì ai muốn rời khỏi Ketterdam. Chỉ cần lão lấy cớ rằng những kẻ bắt cóc Wylan đang định đưa cậu ta ra khỏi Kerch.”

“Cố gắng đưa mọi Grisha rời khỏi đây sẽ là một việc cực kì nguy hiểm,” Matthias lên tiếng. “Điều cuối cùng chúng ta cần là một nhóm trong số họ rơi vào tay Van Eck khi mà ông ta có thể vẫn còn parem.”

Jesper gõ ngón tay trên báng súng. “Chúng ta cần một phép màu. Và có lẽ cả một chai whiskey nữa. Để xoa dịu cơn đau não.”

“Không,” Kaz ôn tồn đáp. “Chúng ta cần một con tàu. Một con tàu không gây nghi ngờ mà Van Eck và các thị tuần không có lí do gì để chặn lại. Chúng ta cần một trong số những con tàu của lão.”

Nina nhấp nhổm trên ghế. “Công ty vận tải của Van Eck chắc chắn có hàng đống thuyền bè sắp đi Ravka.”

Matthias khoanh tay lại, ngẫm nghĩ. “Đưa các Grisha tị nạn ra đi trên một con tàu của Van Eck à?”

“Chúng ta cần một danh sách giả và giấy tờ chuyên chở,” Inej nói.

“Cô có biết họ đã đuổi cổ Specht khỏi hải quân vì lí do gì không?” Kaz hỏi lại. “Anh ta đã làm giả giấy nghỉ phép và lệnh cấp hàng.”

Wylan trề môi. “Nhưng đây không chỉ là vấn đề giấy tờ. Cứ coi như ta có ba mươi Grisha tị nạn đi. Thuyền trưởng của một con tàu sẽ muốn biết vì sao ba mươi người…”

“Ba mươi mốt,” Kuwei nói.

“Cậu đang theo dõi câu chuyện này đấy à?” Jesper ngỡ ngàng hỏi lại.

“Một chuyến tàu đi tới Ravka,” Kuwei đáp. “Tôi hiểu điều đó rất rõ.”

Kaz nhún vai. “Nếu bọn tôi đánh cắp một con tàu, bọn tôi cũng có thể đưa cậu lên đó.”

“Vậy thì ba mươi mốt,” Nina mỉm cười chốt lại, mặc dù khoé miệng giật giật của Matthias cho thấy anh chẳng vui mừng đến thế.

“Được rồi,” Wylan nói, tay vuốt phẳng lại một góc bản đồ. “Nhưng bất kì thuyền trưởng nào cũng sẽ thắc mắc vì sao lại có ba mươi mốt con người được thêm vào danh sách của mình.”

“Anh ta sẽ không thắc mắc nếu như nghĩ rằng mình đang làm một nhiệm vụ bí mật,” Kaz nói. “Van Eck sẽ viết một bức thư tay yêu cầu thuyền trưởng giữ bí mật hoàn toàn việc chuyên chở những người tị nạn có giá trị cao về chính trị này, đồng thời che giấu họ bằng mọi giá khỏi bất kì kẻ nào nghi ngờ đã bị phía Shu Han mua chuộc, kể cả các thị tuần. Van Eck sẽ hứa hẹn với tay thuyền trưởng một khoản tiền thưởng hậu hĩnh khi anh ta quay về, để bảo đảm anh ta không tơ tưởng đến việc đem bán các Grisha. Chúng ta đã có mẫu chữ viết tay của Van Eck. Chỉ cần niêm dấu của lão thôi.”

“Ông ta cất nó ở đâu vậy?” Jesper hỏi Wylan.

“Trong phòng làm việc. Ít nhất thì nó cũng từng được cất ở đó.”

“Chúng ta sẽ phải đột nhập rồi thoát ra mà không bị lão ta nhận ra,” Inej lên tiếng. “Và chúng ta sẽ phải hành động thật nhanh sau chuyện đó. Ngay khi Van Eck phát hiện niêm dấu bị mất, lão ta có thể đoán ra điều chúng ta sắp làm.”

“Chúng ta đã đột nhập được vào Lâu Đài Băng,” Kaz nói. “Tôi nghĩ chúng ta có thể xử đẹp phòng làm việc của một lão thương gia.”

“Ờ, chúng ta đã suýt mất mạng khi đột nhập vào lâu đài đó,” Inej đáp.

“Nhiều lần suýt mất mạng, nếu tôi nhớ không lầm,” Jesper đế thêm.

“Inej và tôi đã từng đánh cắp bức hoạ DeKappel từ tay Van Eck. Chúng tôi đã biết cách bố trí trong ngôi nhà của lão. Ta sẽ ổn thôi.”

Ngón tay của Wylan một lần nữa rà dọc con phố Geldstraat.

“Lúc đó hai người đâu có phải phá két sắt của cha tôi.”

“Van Eck cất niêm dấu trong két sắt sao?” Jesper bật cười hỏi lại. “Thế thì gần như là ông ta muốn chúng ta lấy nó rồi. Kaz làm bạn với các ổ khoá số giỏi hơn với con người mà.”

“Các anh chưa từng thấy cái két sắt nào giống như cái này đâu,” Wylan nói. “Ông ta đã cho lắp đặt nó sau khi bức tranh của DeKappel bị đánh cắp. Mã mở két gồm bảy con số được ông ta thiết lập lại hằng ngày, và ổ khoá được chế tạo với các lẫy khoá giả để làm rối những kẻ phá khoá.”

Kaz nhún vai. “Vậy thì chúng ta sẽ chọn cách khác. Tôi sẽ dùng thủ đoạn thay cho sự khéo léo.”

Wylan lắc đầu. “Vách của két sắt được làm từ một hợp kim đặc biệt, có gia cố bằng thép Grisha.”

“Hay ta làm cho nó nổ?” Jesper đề xuất.

Kaz nhướng mày. “Van Eck sẽ phát hiện ngay.”

“Một vụ nổ cực nhỏ thì sao?”

Nina khịt mũi. “Cậu chỉ muốn cho nổ mọi thứ.”

“Thật ra…” Wylan ngập ngừng. Cậu ngoẹo đầu sang một bên, như thể đang lắng nghe một bài hát xa xăm. “Vào buổi sáng thì sẽ không thể che giấu việc chúng ta đã đột nhập, nhưng nếu chúng ta có thể đưa người tị nạn rời cảng trước khi cha tôi phát hiện vụ trộm thì… tôi không chắc mình có thể xoay được nguyên liệu, nhưng nó có thể thành công…”

“Inej,” Jesper thì thào.

Cô nghiêng người tới trước, mắt quan sát Wylan. “Mặt ủ mưu đây à?”

“Dám lắm.”

Wylan dường như đã quay lại thực tại. “ Không. Nhưng… nhưng tôi nghĩ mình có một ý tưởng.”

“Chúng tôi đang chờ đây, thiếu gia,” Kaz đáp.

“Mọt hạt chỉ là phiên bản bền vững hơn của axit auric.”

“Ờ,” Jesper nói. “Phải rồi. Và axit đó là?”

“Một chất ăn mòn. Nó tạo ra một nhiệt lượng nhỏ khi bắt đầu phản ứng, nhưng nó mạnh khủng khiếp và cực kì dễ bay hơi. Nó có thể xuyên thủng thép Grisha và gần như tất cả mọi thứ, ngoại trừ thuỷ tinh balsa.”

“Thuỷ tinh á?”

“Thuỷ tinh và nhựa cây balsa trung hoà sự ăn mòn.”

“Vậy thứ đó có thể kiếm được từ đâu?”

“Chúng ta có thể tìm thấy một trong những nguyên liệu mà tôi cần ở tiệm làm đồ sắt. Người ta dùng chất ăn mòn để đánh gỉ cho kim loại. Còn nguyên liệu kia hơi khó tìm. Chúng ta cần một mỏ đá có mạch quặng auris hoặc một hợp chất halogen tương tự.”

“Mỏ đá gần nhất nằm ở olendaal,” Kaz cho biết.

“Được đấy. Một khi đã có hai nguyên liệu, ta sẽ phải rất cẩn thận khi vận chuyển,” Wylan nói tiếp. “Còn hơn cả cẩn thận là đằng khác. Sau khi phản ứng hoàn tất, axit auric gần như vô hại, nhưng trong lúc nó đang diễn ra thì… Đó là cách dễ nhất để mất bàn tay.”

“Tức là,” Jesper nói, “nếu chúng ta có được những nguyên liệu đó và vận chuyển chúng riêng rẽ trước khi hoạt hoá cái axit auric này, ta sẽ không sợ bị mất chi?”

Wylan xoắn một lọn tóc. “Chúng ta có thể xuyên thủng cánh cửa két sắt chỉ trong vài phút.”

“Mà không làm hư hại thứ bên trong?” Nina hỏi.

“Hi vọng là thế.”

“Hi vọng là thế,” Kaz lặp lại. “Tôi đã từng hành động trong hoàn cảnh tệ hơn. Chúng ta cần tìm ra con tàu nào sắp sửa lên đường đi Ravka đêm mai và nhờ Specht làm giả giấy tờ cũng như danh sách chuyên chở. Nina, một khi có được con tàu đã chọn, nhóm Grisha tị nạn của cô có thể tự tới bến cảng hay phải cần trợ giúp?”

“Tôi không biết họ rành rẽ Ketterdam đến đâu,” Nina thừa nhận.

Kaz gõ gõ ngón tay trên đầu cây gậy chống. “Wylan và tôi có thể lo vụ két sắt. Tôi có thể cử Jesper hộ tống đoàn Grisha, và Matthias đưa Kuwei tới bên cảng. Nhưng như vậy chỉ còn Nina để đánh lạc hướng lính gác và căng lưới cho Inej. Tấm lưới cần ít nhất ba người để thao tác.”

Inej duỗi người, nhẹ nhàng xoay vai. Thật dễ chịu khi lại được ở cùng cả nhóm như thế này. Cô chỉ mới đi vài ngày, và họ đang ngồi trong một cái nhà mồ ẩm ướt, nhưng cô vẫn có cảm giác như được quay về nhà.

“Tôi đã nói với anh rồi,” cô lên tiếng. “Tôi không cần lưới an toàn.”