Chương 13 NINA
Cô thức dậy trước khi mặt trời mọc khá lâu. Như thường lệ, suy nghĩ đầu tiên của cô là về parem, và cũng như thường lệ, cô không hề cảm thấy thèm ăn. Cơn đói thuốc đã gần như khiến cô phát điên đêm qua. Việc cố gắng sử dụng năng lực khi bị tốp Kherguud tấn công làm cô thèm parem khủng khiếp, và cô đã trải qua nhiều giờ trằn trọc lăn lộn, bấm móng tay vào lòng bàn tay đến chảy máu.
Cô cảm thấy rất khổ sở sáng nay, nhưng một sự quyết tâm khiến cô đứng dậy khỏi giường dễ dàng hơn. Nhu cầu dùng parem đã làm mờ một thứ gì đó trong cô, và đôi khi Nina tự hỏi liệu tia sáng đã tắt ấy có bao giờ quay trở lại không. Nhưng hôm nay, bất chấp xương cốt đau nhức, làn da khô ráp và vị đắng chát trong miệng, cô cảm thấy hi vọng. Inej đã trở về. Họ có một phi vụ. Và cô sẽ làm một việc tốt cho các Grisha. Cho dù để đạt được điều đó cô đã phải ép Kaz Brekker làm người tử tế.
Matthias đã dậy xem xét chỗ vũ khí của cả nhóm. Nina duỗi người, ngáp và ưỡn cong cái lưng thêm chút nữa, hài lòng khi ánh mắt anh lướt theo dáng vóc của cô trước khi xấu hổ quay về với khẩu súng trường đang nạp đạn. Thật khoan khoái. Cô đã gần như lao vào anh hôm nọ. Nếu Matthias không muốn tranh thủ thời cơ thì cô có thể khiến anh phải hối tiếc chuyện đó.
Những người còn lại trong nhóm cũng đã thức và đang đi lại trong nhà mồ - ngoại trừ Jesper vẫn đang nằm ngáy ngon lành, đôi chân dài ló ra khỏi cái mền. Inej đang pha trà. Kaz ngồi phác thảo gì đó bên bàn cùng với Wylan và Kuwei. Hai cậu nhóc chăm chú theo dõi và thỉnh thoảng đề xuất gì đó. Nina xem xét hai khuôn mặt Shu sát cạnh nhau. Cung cách và cử chỉ của Wylan rõ là khác hẳn, nhưng khi hai cậu bé ngồi yên, cô không thể xác định được ai là ai. Mình đã làm chuyện này, Nina nghĩ bụng. Cô nhớ lại những cái đèn lồng chao lắc trong cabin nhỏ xíu trên tàu, những lọn tóc xoăn hung đỏ của Wylan biến mất dưới bàn tay cô, nhường chỗ cho mớ tóc đen dày, đôi mắt xanh to tròn vừa lo lắng vừa can đảm một cách bướng bỉnh cũng chuyển sang màu vàng và thay đổi hình dáng. Chuyện đó giống như phép màu, phép màu thực sự, kiểu phép màu trong những câu chuyện mà các giáo viên ở Tiểu Điện từng kể để ru ngủ bọn cô. Và nó hoàn toàn thuộc về cô.
Inej tiến đến ngồi cạnh Nina với hai tách trà trong tay.
“Sáng nay tình hình chị thế nào?” Inej hỏi. “Chị có ăn được không?”
“Chắc là không.” Nina cố bắt mình nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp, “Cảm ơn em vì tối qua. Vì đã ủng hộ chị.”
“Đó là điều hiển nhiên. Em không muốn thấy bất kì ai bị biến thành nô lệ nữa.”
“Kể cả như thế, chị vẫn cảm ơn em.”
“Có gì đâu. Chị có thể trả ơn em theo cách thông thường.”
“Bánh waffle?”
“Thật nhiều vào.”
“Em cần chúng. Van Eck bỏ đói em đúng không?”
“Em cũng không dễ bảo, nhưng lúc đầu lão ta có cố gắng thuyết phục.”
“Rồi sau đó?”
“Sau đó lão tìm cách hành hạ em.”
Nina siết nắm đấm lại. “Chị sẽ treo bộ lòng của lão lên như tràng hoa trang trí.”
Inej bật cười và ngả đầu lên vai Nina. “Em thích ý tưởng đó. Thật đấy. Nhưng món nợ này em sẽ là người trả.” Inej ngừng lời một chút. “Nỗi sợ là điều tồi tệ nhất trong chuyện này. Sau vụ Lâu Đài Băng, em tưởng mình đã vượt qua sự sợ hãi.”
Nina gác cằm lên mái tóc mượt của Inej. “Zoya từng nói nỗi sợ là một con phượng hoàng. Ta có thể chứng kiến nó cháy rụi hàng ngàn lần mà nó vẫn quay trở lại.” Cơn thèm parem cũng cho cảm giác giống như vậy.
Matthias xuất hiện trước mặt hai người. “Chúng ta nên đi sớm. Chưa đầy một giờ nữa mặt trời sẽ mọc.”
“Anh mặc cái gì thế này?” Nina hỏi, tròn mắt nhìn chiếc mũ phớt và áo khoác len màu đỏ trên người Matthias.
“Kaz đã làm giấy tờ giả cho chúng ta đề phòng trường hợp bị chặn lại ở khu Ravka. Chúng ta là Sven và Catrine Alfsson, hai kẻ đào ngũ người Fjerda tìm kiếm nơi ẩn náu tại đại sứ quán Ravka.”
Cũng có lí. Nếu họ bị chặn lại, Matthias không thể nào giả vờ mình là người Ravka, nhưng Nina có thể dễ dàng nhập vai một phụ nữ Fjerda.
“Chúng ta có phải là vợ chồng không, anh Matthias?” Nina chớp chớp mắt hỏi lại.
Anh xem giấy tờ và nhíu mày. “Anh nghĩ chúng ta là hai anh em.”
“Ghê quá nha,” Jesper thốt lên, tay giụi mắt.
Nina cau mặt. “Sao anh lại cho chúng tôi đóng giả anh em, hả Brekker?”
Kaz không buồn ngước lên khỏi tài liệu mình đang xem. “Bởi vì như thế sẽ dễ hơn cho việc làm giả giấy tờ của Specht, cùng tên cha mẹ và nơi sinh. Anh ta đã phải chiều theo cơn bốc đồng công lí của cô trong một thời gian ngắn kỉ lục đấy.”
“Nhưng bọn tôi trông chẳng giống nhau chút nào.”
“Cả hai đều cao,” Inej lên tiếng.
“Và đều không có mang cá,” Nina nói. “Nhưng như thế không có nghĩa là bọn tôi giống nhau.”
“Vậy thì chỉnh sửa anh ta đi,” Kaz lạnh lùng đáp.
Sự thách thức trong ánh mắt của Kaz đã quá rõ ràng, vậy là anh ta biết cô đang gặp khó khăn. Dĩ nhiên anh ta biết. Tay Nhám không bao giờ bỏ lỡ điều gì.
“Tôi không muốn bị chỉnh sửa,” Matthias nói. Nina biết anh nói sự thật, nhưng cô nghĩ anh cũng muốn giữ thể diện cho cô.
“Hai người sẽ ổn thôi,” Jesper lên tiếng để xoa dịu căng thẳng. “Chỉ cần bớt liếc mắt đưa tình và cố gắng không sờ soạng nhau giữa chỗ đông người.” Hay ghê.
“Đây,” Matthias nói và đưa cô mái tóc giả màu vàng mà cô đã đội trong vụ luật sư Smeet cùng với một mớ trang phục.
“Tốt nhất nó nên vừa với tôi,” Nina bực bội nói. Cô đã định thay đồ ngay trong nhà mồ, nhưng sợ Matthias choáng ngất nên lại thôi. Cô chộp lấy một cái đèn lồng và bước sang một trong những hầm mộ bên cạnh. Tuy không có gương soi, cô có thể nói chiếc váy khá là tồi tàn, và cái áo len móc nhỏ xíu thật đúng là không còn gì để nói. Khi Nina xuất hiện trở lại, Jesper lăn ra cười, Kaz trố mắt, còn Inej cũng không thể giữ được bộ mặt nghiêm túc.
“Thánh thần ơi,” Nina nhăn mặt nói. “Nó tệ đến thế nào?”
Inej hắng giọng. “Trông chị khá là…”
“Quyến rũ,” Matthias vuốt đuôi.
Nina chuẩn bị vặc lại rằng cô không thích bị mỉa mai thì thấy nét mặt của anh. Trông anh như thể vừa bị người ta ấn vào tay một cái rổ đầy chó con.
“Em có thể là một thiếu nữ trong ngày đầu tiên của Roennigsdjel đấy.”
“Roennigsdjel là cái gì thế?” Kuwei hỏi.
“Một lễ hội,” Nina đáp. “Tôi cũng chẳng nhớ nữa. Nhưng tôi dám chắc nó có liên quan với việc ăn thật nhiều thịt hươu. Ta đi thôi, anh chàng to xác. Mà này, tôi là em gái của anh đấy nhé, đừng có nhìn chòng chọc như thế.”
“Như thế là như thế nào?”
“Như thể tôi là một que kem.”
“Anh không thích kem que.”
“Matthias,” Nina nói, “không biết liệu chúng ta có thể tiếp tục dành thời gian cho nhau nữa không đây.” Nhưng cô không thể giấu được sự hài lòng trong giọng nói của mình. Rõ ràng cô cần phải sưu tập nhiều bộ đồ len xấu xí hơn.
***
Sau khi đã rời khỏi Mạng Đen, họ theo các con kênh hướng lên phía tây bắc, hoà vào dòng thuyền bè đi chợ sáng ở gần Toà thị chính. Đại sứ quán Ravka nằm ở rìa của khu Hành chính, kẹp giữa khúc lượn của dòng kênh và một trục đường lớn. Nơi đây từng là một đầm lầy, nhưng đã được san lấp bởi một người có ý định sử dụng địa điểm này để xây khách sạn và công viên. Ông ta cạn tiền trước khi công trình được động thổ. Giờ thì nó là chỗ họp chợ, với vô số các sạp hàng lẫn xe đẩy xuất hiện vào buổi sáng để rồi biến mất khi trời tối và khi lực lượng thị tuần rảo qua. Nó là nơi người tị nạn, du khách, kiều dân cả mới lẫn cũ đến tìm những khuôn mặt và phong tục thân quen. Các quán cà phê ngay cạnh đó phục vụ món pelmeni và cá trích muối, trong khi những ông già ngồi bên những chiếc bàn ngoài vỉa hè nhấm nháp kvas và đọc tin tức từ những tờ báo cũ đến vài tuần lễ của Ravka.
Lúc Nina mới dạt đến Ketterdam, cô đã nghĩ tới việc nương nhờ đại sứ quán, nhưng lại sợ sẽ bị gửi về quê hương, nơi cô phải phục vụ trong Hạ Quân. Làm sao cô có thể giải thích được rằng mình không thể quay về Ravka chừng nào chưa minh oan được cho một drüskelle người Fjerda bị bỏ tù do những lời tố cáo sai sự thật của cô? Sau đó, cô hiếm khi đặt chân đến Tiểu Ravka. Cô quá đau lòng khi bước trên những con phố quá đỗi thân quen nhưng lại vô cùng xa lạ.
Tuy nhiên, khi trông thấy biểu tượng con đại bàng hai đầu Lantsov vàng kim tung bay trên lá cờ xanh lơ, tim Nina vẫn đập lồng lên như ngựa chạy. Khu chợ khiến cô nhớ tới Os Kervo, đô thị náo nhiệt từng là thủ phủ của Tây Ravka trước khi thống nhất - những chiếc khăn san thêu và ấm samovar sáng bóng, mùi thịt cừu tươi quay trên bếp lửa, những chiếc mũ len, và các hình tượng bằng thiếc đã mòn vẹt sáng lấp lánh trong nắng sớm. Nếu bỏ qua những toà nhà hẹp có đầu hồi kiểu Kerch, Nina có thể coi như cô đang ở nhà. Một ảo tưởng nguy hiểm. Những con phố này không an toàn một chút nào.
Mặc dù rất nhớ nhà, khi Nina cùng Matthias đi ngang qua những người bán hàng rong và tiểu thương, một cái gì đó xấu hổ và nhỏ bé trong cô vẫn quặn lại trước sự tụt hậu của mọi thứ. Ngay cả những con người trung thành với trang phục truyền thống của Ravka trông cũng giống như tàn tích của một thời kì khác, những đồ vật bước ra từ trang truyện cổ. Có phải quãng thời gian một năm lưu lại Ketterdam đã làm cô thành ra như thế này? Có phải nó đã thay đổi cách cô nhìn nhận những người đồng hương cũng như phong tục tập quán của mình? Cô không muốn tin điều đó.
Khi dứt khỏi dòng suy nghĩ, Nina nhận ra cô và Matthias đang thu hút nhiều ánh mắt không thân thiện. Rõ ràng người Ravka có định kiến đối với dân Fjerda, nhưng chuyện này hơi khác. Rồi cô ngước lên nhìn Matthias, và thở dài. Anh đang lúng túng ra mặt, và những khi lúng túng, trông anh rất đáng sợ. Vóc dáng lừng lững như chiếc xe tăng trưng bày trong Lâu Đài Băng của anh chỉ càng làm tình hình tệ thêm.
“Matthias,” cô thì thào bằng tiếng Fjerda và huých nhẹ vào tay anh chàng, “anh có cần phải lườm mọi thứ như thế không?”
“Anh có lườm đâu?”
“Chúng ta là hai người Fjerda trên địa bàn của dân Ravka. Chúng ta đã đủ khác biệt rồi. Đừng có tạo cớ cho mọi người nghĩ rằng ta sắp tấn công nơi này. Chúng ta cần thực hiện nhiệm vụ mà không gây chú ý. Anh hãy xem mình như một gián điệp.”
Trán Matthias càng nhăn tợn. “Cái trò đó không xứng đáng với một chiến binh chính trực.”
“Vậy hãy vờ như anh là một diễn viên.” Matthias thốt lên một tiếng ghê tởm. “Anh chưa bao giờ được đi xem kịch à?”
“Mùa nào họ cũng diễn kịch ở Djerholm.”
“Để xem nào, những vở diễn nhạt thếch dài mấy tiếng đồng hồ thuật lại các anh hùng huyền thoại thời xưa chứ gì?”
“Thật ra chúng rất hay. Nhưng anh chưa bao giờ thấy một diễn viên nào biết cách cầm thanh kiếm cho đúng cách.”
Nina phì cười.
“Gì cơ?” Matthias ngơ ngác hỏi lại.
“Không có gì. Thật đấy. Không có gì.” Cô sẽ dạy anh cách nói giảm nói tránh vào một lúc khác. Hoặc là không bao giờ. Anh tức cười hơn khi ngẩn người ra như thế này.
“Mấy cái kia là gì thế?” Matthias hỏi, tay chỉ vào một sọt hàng. Trong đó chất thành hàng ngay ngắn những thứ nom giống như que và đá cục.
“Xương đấy,” Nina đáp. “Ngón tay, khớp đốt, cột sống, những mảnh xương cổ tay. Thánh tích đấy. Để bảo vệ bản thân.”
Matthias thoái lui. “Dân Ravka thích cầm theo xương người à?”
“Còn các anh thì nói chuyện với cây. Cái đó gọi là mê tín đấy.”
“Có thật chúng là của các thánh không?”
Nina nhún vai. “Đó là xương lấy từ các nghĩa địa hoặc bãi chiến trường. Nếu người ta muốn tin rằng mình đang cầm theo khuỷu tay của Thánh Egmond hoặc ngón chân út của Thánh nữ Alina thì…”
“Ai quyết định phong thánh cho Alina Starkov vậy?” Matthias làu bàu. “Cô ta là một Grisha hùng mạnh, chứ có phải thánh thần đâu?”
“Anh dám chắc vậy sao?” Nina hỏi lại, cảm thấy máu nóng bắt đầu bốc lên. Cô cảm thấy phong tục của người Ravka lạc hậu là một chuyện, việc Matthias chất vấn nó lại là một chuyện khác. “Em đã tận mắt nhìn thấy Lâu Đài Băng, Matthias. Theo anh, sẽ dễ tin hơn nếu nói nơi đó được thiết kế bởi bàn tay của thánh thần hay nói rằng nó được tạo ra bởi các Grisha với những năng lực mà người Fjerda các anh không thể hiểu được?”
“Hoàn toàn không liên quan.”
“Alina Starkov chỉ trạc tuổi chúng ta khi hi sinh vì nghĩa lớn. Cô ấy chỉ là một cô gái, nhưng đã hi sinh bản thân để cứu Ravka và phá huỷ Vực Tối. Ở đất nước anh cũng có những người tôn thờ cô ấy như một vị thánh.”
Matthias nhíu mày. “Cái đó phi…”
“Nếu anh nói ra hai chữ ‘tự nhiên’, em sẽ cắn anh đấy.”
“Em dám làm thế thật không?”
“Chắc chắn em có thể thử.” Cô đã không công bằng trong chuyện này. Ravka là quê hương cô, nhưng vẫn là mảnh đất quân thù đối với Matthias. Anh có thể tìm ra cách để chấp nhận cô, nhưng đòi hỏi anh chấp nhận cả một quốc gia cùng nền văn hoá của nó là một việc mất nhiều công sức. “Có lẽ em nên đi một mình. Anh có thể quay về thuyền ngồi đợi.”
Matthias cứng người lại. “Tuyệt đối không. Em không biết chuyện gì đang chờ đợi phía trước. Người Shu có thể đã lùng ra các bạn của em.”
Nina không muốn nghĩ tới khả năng đó. “Vậy thì anh phải bình tĩnh lại và cố tỏ ra thân thiện.”
Matthias lắc lắc đôi tay và chùng người xuống.
“Thân thiện, chứ không phải buồn ngủ. Chỉ cần… giả vờ như tất cả những người anh gặp gỡ là những chú mèo con mà anh đang cố không làm hoảng sợ.”
Matthias tự ái ra mặt. “Động vật quý anh lắm nhé.”
“Tốt. Cứ coi như họ là những đứa trẻ con. Những đứa trẻ nhút nhát có thể tè ra quần nếu anh không cư xử tử tế.”
“Được đấy, anh sẽ thử.”
Khi họ tiến đến sạp hàng kế tiếp, bà bán hàng ngước lên nhìn Matthias với cặp mắt nghi ngờ. Nina gật đầu khích lệ anh chàng.
Matthias mỉm cười toét miệng và cất tiếng với giọng rổn rảng. “Xin chào!”
Vẻ mặt thận trọng của bà già chuyển thành bối rối. Nina coi đó là một sự tiến bộ.
“Hôm nay thế nào?” Matthias hỏi.
“Tôi xin lỗi?” Bà già hỏi lại.
“Không có gì ạ.” Nina nói bằng tiếng Ravka. “Anh cháu chỉ muốn nói là phụ nữ Ravka rất đẹp lão thôi ạ.”
Bà già nở nụ cười móm mém và đưa mắt nhìn Matthias từ đầu đến chân với vẻ hài lòng. “Tôi luôn thích các anh chàng Fjerda. Hỏi xem cậu ấy có muốn chơi trò Công chúa và Kẻ mọi rợ không,” bà nói trong tiếng cười khùng khục.
“Bà ta nói gì thế?” Matthias hỏi.
Nina ho húng hắng rồi nắm tay anh dẫn ra xa. “Bà ta nói anh là một người tử tế, và rất đáng mặt dân Fjerda. Ôiii, nhìn này, bánh blini đấy! Đã lâu rồi em không được ăn món bánh blini tử tế như thế này.”
“Bà ta dùng chữ babink,” anh nói. “Em đã từng dùng chữ đó với anh. Nó có nghĩa là gì?”
Nina hướng sự chú ý vào một chồng những chiếc bánh kếp bơ mỏng như giấy. “Nó có nghĩa là bánh ngọt.”
“Nina à.”
“Mọi rợ.”
“Anh chỉ hỏi thôi, không cần phải xỉ vả anh như thế.”
“Không, babink tức là mọi rợ.” Ánh mắt của Matthias quay phắt về phía bà già kia, vẻ mặt anh hằm hằm trở lại. Nina nắm lấy tay anh. Thật chẳng khác nào nắm một cục sắt. “Bà ta không hề xỉ vả anh. Em thề!”
“Mọi rợ không phải là chữ để xỉ vả sao?” Anh cất cao giọng hỏi lại.
“Không. Ờ thì có. Nhưng không phải trong hoàn cảnh này. Bà ta chỉ muốn biết liệu anh có thích chơi trò Công chúa và Kẻ mọi rợ hay không.”
“Nó là một trò chơi à?”
“Cũng không hẳn thế.”
“Vậy thì nó là gì?”
Nina không thể tin nổi mình sắp giải thích chuyện này. Trong khi họ tiếp tục bước đi, cô nói, “Ở Ravka, có một loạt truyện rất phổ biến kể về, hừm, một chiến binh Fjerda can trường…”
“Thật á?” Matthias hỏi lại. “Anh ta là người hùng à?”
“Không hẳn thế. Anh ta bắt cóc một công chúa người Ravka…”
“Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”
“Trong truyện thì có, và…” Cô hắng giọng “… họ dành nhiều thời gian để tìm hiểu nhau. Trong hang của anh ta.”
“Anh ta sống trong hang à?”
“Đó là một cái hang rất đẹp. Lông thú, cốc chén nạm ngọc. Rượu ngọt.”
“À,” anh nói với giọng hài lòng. “Một người tàng trữ kho báu như kiểu Ansgar Hùng mạnh chứ gì. Sau đó họ trở thành đồng minh, đúng không?”
Nina nhặt một cặp găng tay thêu ở một gian hàng khác. “Anh có thích mấy cái này không? Có lẽ chúng ta có thể dụ Kaz đeo một cặp găng thêu hoa. Để cho sinh động.”
“Câu chuyện kết thúc như thế nào? Họ có ra chiến trận không?”
Nina quăng trả cặp găng tay vào đống hàng. “Họ đã tìm hiểu nhau một cách thân mật.”
Quai hàm Matthias trễ xuống. “Trong hang á?”
“Anh thấy đấy, anh ta rất thô lỗ, rất mạnh bạo,” Nina vội nói tiếp. “Nhưng anh ta đã phải lòng nàng công chúa Ravka, và điều đó cho phép cô ấy khai hoá anh ta…”
“Khai hoá anh ta?”
“Phải, nhưng phải đến cuốn thứ ba điều đó mới diễn ra.”
“Có những ba cuốn cơ á?”
“Matthias, anh có cần ngồi xuống không?”
“Cái món văn hoá này kinh dị thật đấy. Ý tưởng rằng một cô nàng Ravka có thể khai hoá một anh chàng Fjerda…”
“Bình tĩnh đi nào, Matthias.”
“Chắc anh phải viết một câu chuyện về những cô nàng Ravka tham lam chỉ thích say xỉn và trút bỏ quần áo rồi làm trò lố lăng trước mặt những anh chàng Fjerda xui xẻo.”
“Ờ, nghe cũng hay đó.” Matthias lắc đầu, nhưng Nina có thể thấy nụ cười mỉm trên môi anh. Cô quyết định đẩy mọi thứ đi xa hơn. “Chúng ta có thể chơi trò này,” cô thì thào, đủ khẽ để không ai quanh đó nghe thấy.
“Chắc chắn là không.”
“Đến một lúc, anh ta tắm cho cô ấy.”
Matthias loạng choạng suýt ngã. “Sao anh ta có thể…”
“Cô ấy bị trói, nên anh ta phải làm thế.”
“Em im đi.”
“Lại ra lệnh rồi. Như thế gọi là hành xử kiểu mọi rợ đấy. Hay là chúng ta có thể đảo vai. Em sẽ là kẻ mọi rợ, còn anh là công chúa. Nhưng anh sẽ phải thở dài sườn sượt rất nhiều, rồi run lẩy bẩy và cắn môi nữa.”
“Thế nếu anh cắn môi em thì sao?”
“Đấy, anh nắm bắt được trò chơi rồi, Helvar.”
“Em đang cố làm anh mất tập trung.”
“Đúng thế. Và nó đã thành công. Anh không còn lườm mắt với mọi người được hai khối phố rồi. Nhìn mà xem, chúng ta đến nơi rồi.”
“Giờ thì sao?” Matthias hỏi và đưa mắt quan sát đám đông.
Họ đã đến một tửu quán trông có vẻ ọp ẹp. Một người đàn ông đang đứng trước quán với một cái xe đẩy, bán những bức tượng nhỏ thường thấy và tượng Thánh nữ Alina theo phong cách mới - Alina với nắm đấm giơ cao, súng trường trong tay, xác những con volcra có cánh nằm dưới chân. Dưới đế của bức tượng ghi dòng chữ Rebe dva Volkshiya, Người con gái quốc dân.
“Tôi giúp gì được cho cô?” Người đàn ông hỏi.
“Sức khoẻ cho nhà vua Nikolai,” Nina trả lời bằng tiếng Ravka.
“Cầu mong ngài trị vì lâu dài.”
“Với trái tim nhẹ nhõm,” ông già đáp.
“Và nắm đấm nặng nề,” Nina nói nốt câu mật mã.
Ông già liếc qua vai. “Ngồi vào bàn thứ hai bên trái. Gọi món nếu thích. Có người sẽ đến gặp cô ngay.”
Tửu quán vừa lạnh vừa tối so với sự rực rỡ của quảng trường bên ngoài, Nina phải chớp mắt mấy cái cho quen. Sàn nhà lấm tấm mạt cưa, còn tại một vài chiếc bàn nhỏ, người ta đang châu đầu nói chuyện bên li kvas và những đĩa cá trích.
Nina và Matthias ngồi vào chiếc bàn trống.
Cánh cửa quán đóng sập lại phía sau lưng họ. Ngay lập tức, những khách hàng khác lao ra khỏi bàn làm ghế đổ lỏng chỏng xuống đất, chĩa súng vào Nina và Matthias. Một cái bẫy.
Không kịp suy nghĩ, Nina và Matthias bật dậy và đấu lưng vào nhau, sẵn sàng chiến đấu - Matthias với súng lục giương cao, còn Nina với hai bàn tay giơ ra phía trước.
Từ phía nhà sau của quán, một cô gái đội mũ trùm đầu bước ra, cổ áo dựng lên che phần lớn khuôn mặt. “Coi nào,” cô nói, đôi mắt vàng long lanh trong ánh sáng lờ mờ. “Không cần chiến đấu đâu.”
“Vậy những khẩu súng này là sao?” Nina hỏi để câu giờ.
Cô gái giơ tay lên và Nina cảm thấy nhịp tim mình chậm lại.
“Cô ta là Độc Tâm Y!” Cô hét lên.
Matthias lôi thứ gì đó trong túi ra. Nina nghe thấy một tiếng bụp và xì, thế rồi chỉ giây lát sau một màn sương đỏ rực đã tràn ngập trong quán. Có phải Wylan đã chế bom khói cho Matthias? Đó là một kĩ thuật của các drüskelle để che chắn tầm nhìn của Độc Tâm Y. Trong màn sương bao phủ, Nina cong ngón tay lại, hi vọng năng lực của mình sẽ đáp ứng. Cô chẳng cảm thấy gì từ những cơ thể quanh mình. Không chút sự sống, không một động tĩnh.
Nhưng ở đâu đó bên rìa ý thức của mình, cô cảm thấy một thứ khác lạ, một dạng nhận thức khác, một cái lạnh của lòng hồ sâu thẳm, một cú sốc khiến các tế bào của cô tỉnh dậy. Nó rất quen thuộc - cô đã có cảm giác tương tự khi hạ gục tay vệ quân trong cái đêm họ bắt cóc Alys. Nó có hình hài và lớp lang, cô cảm thấy mình lặn sâu vào trong cái lạnh, tìm kiếm sự tỉnh thức một cách mù quáng và đói khát, rồi vung cánh tay về phía trước trong một cử chỉ vừa bản năng vừa điệu nghệ.
Những ô cửa sổ của quán rượu nổ tung vào bên trong, tạo thành một cơn mưa thuỷ tinh. Các mẩu xương bay qua không khí, lao vào nhóm đàn ông vũ trang như những mảnh trái phá. Mớ thánh tích của người bán hàng. Bằng cách nào đó, cô đã điều khiển được xương xẩu.
“Chúng có viện binh!” Một người hét lên.
“Khai hoả!”
Nina gồng mình chờ đợi tác động của những viên đạn, nhưng một giây sau cô cảm thấy mình bay bổng lên. Mới trước đó cô còn đứng trên sàn tửu quán, tích tắc sau cô đã va người vào xà nhà, mắt nhìn xuống lớp mạt cưa tít phía dưới. Xung quanh cô, những người đàn ông vũ trang và Matthias cũng đang treo lơ lửng, dính chặt vào trần nhà.
Một phụ nữ trẻ đứng trên ngưỡng cửa nhà bếp, mái tóc đen gần như xanh rực trong ánh sáng mờ tối.
“Zoya?” Nina thốt lên trong lúc nhìn từ trên cao xuống, cố gắng lấy lại hơi thở.
Zoya bước vào vùng ánh sáng trong lớp áo lụa xanh, hai ống tay và đường diềm thêu những hoa văn màu bạc. Hàng mi rộp của chị mở to. “Nina hả?” Sự tập trung của Zoya giảm đi, và tất cả mọi người rơi một chân xuống trước khi chị lại giơ tay lên, khiến những cái chân đập mạnh vào xà nhà.
Zoya ngước mắt nhìn Nina, ngỡ ngàng. “Em còn sống,” chị nói. Ánh mắt chị chuyển hướng sang Matthias, người đang vùng vẫy như một con bướm to tướng bị ghim vào tờ giấy. “Và đã có bạn mới.”