Chương 14 WYLAN
Wylan đã không lên một chiếc tàu đáy bằng có kích thước như thế này kể từ khi cậu cố gắng rời khỏi Ketterdam sáu tháng trước. Thật khó mà không nhớ tới thảm hoạ đó vào lúc này, đặc biệt là khi những suy nghĩ về cha vẫn còn tươi mới trong đầu cậu. Nhưng chiếc tàu lần này khá khác biệt so với chiếc mà cậu đã lên vào đêm đó. Nó chạy tuyến chợ hai lượt mỗi ngày. Ở lượt đi, nó sẽ đầy ắp rau quả, gia súc, bất cứ thứ gì mà những người nông dân mang tới các khu chợ nằm rải rác trong thành. Hồi còn bé, Wylan cứ nghĩ mọi thứ hàng hoá đều phát xuất từ Ketterdam, nhưng rồi cậu mau chóng nhận ra rằng, mặc dù gần như cái thành này có thể có mọi thứ, chỉ một số ít trong đó được sản xuất tại chỗ. Những sản vật mang tính phương xa như xoài, thanh long, dứa đến từ Thuộc địa phương Nam. Đối với những thứ gần gũi hơn, họ dựa vào những nông trại nằm quanh Ketterdam.
Jesper và Wylan lên một chuyến tàu chiều về chật cứng người tị nạn vừa mới tới Ketterdam và những người lao động tìm kiếm một công việc đồng áng hơn là những công việc trong nhà máy ở nội thành. Đáng tiếc là hai người lên thuyền ở một bến khá xa về phía nam, nên tất cả các ghế đều đã có người ngồi. Mặt mũi Jesper sưng sỉa thấy rõ vì chuyện này.
“Sao chúng tôi không được đi tuyến Belendt?” Anh phàn nàn như thế chỉ vài giờ trước. “Nó chạy qua Olendaal. Tàu chợ bẩn và chẳng bao giờ có ghế ngồi.”
“Bởi vì hai cậu sẽ nổi bật quá nếu đi tuyến Belendt. Ở Ketterdam này, hai cậu chẳng có gì đặc biệt, trừ phi Jesper tròng lên người một trong những cái quần sáng màu của mình. Nhưng hãy cho tôi một lí do ngoài công việc đồng áng để một cậu nhóc người Shu và một anh chàng Zemeni đi thơ thẩn giữa miền quê.”
Wylan đã không ý thức được với khuôn mặt mới cậu sẽ trông đáng ngờ như thế nào ở ngoại thành. Nhưng cậu nhẹ cả người khi Kaz không muốn cậu lên tuyến Belendt. Nó có thể thoải mái hơn, nhưng những kí ức sẽ trở nên quá sức chịu đựng trong một cái ngày mà cậu sẽ được nhìn thấy nơi mẹ mình yên nghỉ.
“Jesper, giấu kín vũ khí và mở mắt cho to vào,” Kaz đã nói như thế. “Van Eck chắc đã cử người quan sát mọi tuyến giao thông chính, và chúng ta không có thời gian để làm giả giấy thông hành cho Wylan. Tôi sẽ đi lấy chất ăn mòn từ một trong những xưởng đóng tàu ở Imperjum. Ưu tiên hàng đầu của các cậu là tìm ra mỏ đá và lấy khoáng vật cần thiết để chế axit auric. Các cậu sẽ đi tới nhà thờ Thánh Hilde khi và chỉ khi có thời gian.”
Wylan nhận thấy cằm mình hếch lên, và cảm giác bướng bỉnh ngấm ngầm dâng lên trong lòng. “Tôi cần làm chuyện này. Tôi chưa bao giờ được đi thăm mộ mẹ. Tôi sẽ không rời Kerch khi chưa đến chào mẹ.”
“Tin tôi đi, cậu bận tâm chuyện đó hơn là mẹ cậu đấy.”
“Sao anh có thể nói như thế? Anh có nhớ đến cha mẹ anh chút nào hay không?”
“Mẹ tôi là Ketterdam. Bà đẻ tôi trên bến cảng. Còn cha tôi là lợi nhuận. Tôi vinh danh ông mỗi ngày. Quay về đây khi trời tối, nếu không thì đừng về nữa. Cả hai cậu. Tôi cần đồng đội, không cần những cục nợ sến súa.” Kaz đưa tiền lộ phí cho Wylan. “Hãy bảo đảm cậu là người dùng nó để mua vé. Tôi không muốn Jesper đảo qua sòng bạc làm vài ván đâu đấy.”
“Cái bài ca này cũ rồi,” Jesper lẩm bẩm.
“Vậy thì học lời mới đi.”
Jesper chỉ lắc đầu, nhưng Wylan có thể nhận thấy câu nói của Kaz gây tác động như thế nào. Giờ đây, cậu đang nhìn Jesper dựa lưng vào lan can, mắt nhắm lại, mặt quay về phía ánh nắng mùa xuân yếu ớt.
“Anh không nghĩ chúng ta nên thận trọng hơn à?” Wylan hỏi trong khi khuôn mặt vẫn rụt vào cổ áo khoác. Họ đã kịp tránh được hai thị tuần trong tích tắc lúc lên thuyền.
“Chúng ta đã ở ngoại thành rồi. Thư giãn đi.”
Wylan liếc nhìn qua vai. “Tôi nghĩ họ có thể lục soát con thuyền đấy.”
Jesper mở một mắt ra và nói, “Để làm giao thông ách tắc à? Van Eck đã làm nhặng xị ở các hải cảng rồi. Nếu lão ta chặn thêm cả giao thông đường thuỷ thì mọi thứ sẽ loạn mất.”
“Tại sao?”
“Thử nhìn quanh mà xem. Các nông trại cần nông dân. Các nhà máy cần công nhân. Kerch sẽ không chấp nhận thêm phiền phức vì con trai của một lão nhà giàu, nhất là khi tiền của vẫn cần phải được làm ra.”
Wylan cố gắng thư giãn và cởi nút chiếc áo khoác dầy sụ mà Kaz đã đưa cho. “Anh ta lấy đâu ra các món quần áo và đồng phục nhỉ? Có phải anh ta có một tủ quần áo to đùng ở đâu đó không?”
“Lại đây.”
Wylan thận trọng nhích lại gần hơn. Jesper đưa tay lên cổ áo, kéo nó ra một chút để Wylan có thể quay đầu và nhìn loáng thoáng một mẩu ruy băng màu xanh gắn ở đó.
“Đây là cách các diễn viên đánh dấu phục trang của mình,” Jesper nói. “Cái này thuộc về… Josep Kikkert. Tôi từng xem anh ta diễn vở Gã điên bắt dâu. Không tồi.”
“Phục trang á?”
Jesper lật cổ áo trở lại, và khi làm động tác đó những ngón tay của anh lướt nhẹ trên gáy Wylan. “Phải. Kaz đã mở một lối đi bí mật vào kho phục trang của rạp Stadlied vài năm về trước. Đó là nơi anh ta có thể lấy nhiều thứ mình cần và tích trữ phần còn lại. Để anh ta không bao giờ bị tóm với một bộ đồng phục thị tuần hoặc chế phục gia nhân giả trong các cuộc bố ráp.”
Wylan nghĩ đó là một sự thận trọng cần thiết. Cậu nhìn ánh nắng phản chiếu trên mặt nước một lúc, rồi tập trung vào lan can và nói, “Cảm ơn vì đã đi cùng tôi hôm nay.”
“Kaz sẽ không để cậu đi một mình, với lại, tôi nợ cậu mà. Cậu đã đi cùng tôi đến gặp bố ở quận Đại học, và can thiệp khi ông bắt đầu chất vấn.”
“Tôi không thích nói dối.”
Jesper quay người lại, chống cùi chỏ lên lan can tàu và nhìn những triền cỏ mọc tràn xuống dòng kênh. “Vậy sao cậu lại làm như thế?”
Wylan không rõ tại sao cậu lại bịa ra câu chuyện điên rồ về việc rủ rê Jesper tham gia vào một vụ đầu tư thất bát. Thậm chí cậu còn không chắc mình sẽ nói gì khi mở miệng ra. Cậu chỉ không thể chịu nổi khi chứng kiến Jesper vốn luôn tự tin và tươi cười lại có nét mặt đó, cũng như sự pha trộn giữa hi vọng và sợ hãi trong ánh mắt của ông Colm Fahey khi ông chờ đợi một câu trả lời từ con trai mình. Nó làm cậu nhớ đến ánh mắt của cha mình, hồi ông vẫn còn tin rằng cậu có thể chạy chữa được. Cậu không muốn nhìn thấy biểu hiện trong ánh mắt của bố Jesper chuyển từ lo lắng thành đau đớn và tức giận.
Wylan nhún vai. “Tôi tập cứu anh. Cho quen.”
Jesper thốt lên một tiếng kêu nhỏ, khiến Wylan vội liếc nhìn qua vai một lần nữa, sợ rằng họ đã bị ai đó chú ý.
Nhưng trò đùa của Jesper không kéo dài. Anh đổi tư thế bên lan can, đưa bàn tay lên gáy nghịch nghịch vành mũ. Anh luôn chuyển động, tựa như một linh kiện đồng hồ dài thượt chạy bằng thứ năng lượng vô hình. Nhưng có điều đồng hồ rất đơn giản. Còn với Jesper thì cậu chỉ có thể đoán mò những chuyện anh làm.
Cuối cùng Jesper lên tiếng, “Lẽ ra hôm nay tôi đã đi gặp bố.”
“Vậy sao anh không đi?”
“Tôi không biết phải nói gì với ông ấy.”
“Anh không thể nói sự thật ư?”
“Cứ coi như là tôi muốn né tránh nó đi.”
Wylan lại nhìn mặt nước. Cậu đã bắt đầu nghĩ Jesper là người không biết sợ, nhưng có lẽ can đảm không đồng nghĩa với không sợ hãi. “Anh không thể chạy trốn chuyện này mãi được.”
“Để xem.”
Một nông trang khác trôi qua, không nhỉnh hơn một vệt trắng trong màn sương buổi sớm là bao, hoa loa kèn và tulip mọc rải rác trên cánh đồng phía trước nhà tựa như những chòm sao rời rạc. Jesper có thể tiếp tục chạy trốn. Nếu Kaz có thể tiếp tục làm nên những điều kì diệu thì Jesper cũng có thể luôn đi trước một bước.
“Ước gì tôi đã mua hoa cho mẹ,” Wylan nói. “Một thứ gì đó.”
“Chúng ta có thể mua trên đường,” Jesper nói. Wylan biết anh đang nắm lấy cơ hội đổi chủ đề câu chuyện bằng cả hai tay. “Cậu còn nhớ nhiều điều về mẹ không?”
Wylan lắc đầu. “Tôi chỉ nhớ những lọn tóc xoăn của bà. Đó là mái tóc màu vàng hung đẹp nhất trên đời.”
“Tóc cậu cũng thế,” Jesper nói. “Trước đây.”
Wylan cảm thấy hai má tự dưng nóng ran. Jesper chỉ đưa ra một nhận định thôi mà.
Cậu hắng giọng. “Mẹ thích nghệ thuật và âm nhạc. Tôi còn nhớ mình ngồi trên ghế đánh dương cầm với bà. Nhưng cũng có thể đó là một bảo mẫu.” Wylan nhún vai. “Rồi một hôm mẹ bị ốm và đi về vùng thôn quê dưỡng bệnh để phổi có thể hồi phục. Sau đó mẹ mất.”
“Còn đám tang thì thế nào?”
“Cha tôi nói bà đã được chôn cất tại bệnh viện, có vậy thôi. Chúng tôi ngừng nói chuyện về mẹ. Cha tôi bảo có day dứt với quá khứ cũng chẳng được gì. Tôi không biết nữa. Tôi nghĩ ông ta yêu mẹ tôi thực sự. Họ cãi nhau suốt, đôi khi là về tôi, nhưng tôi cũng nhớ họ cười đùa với nhau rất nhiều.”
“Tôi thật khó mà hình dung cha cậu cười, dù chỉ là nhếch môi. Trừ phi ông ta xoa tay hài lòng và cười vang trước một đồng vàng.”
“Ông ta không phải là một con quỷ.”
“Ông ta đã cố giết cậu.”
“Không, ông ta phá huỷ tàu của chúng ta. Việc giết tôi chỉ là một lợi ích đi kèm.” Điều đó không hoàn toàn là sự thật, tất nhiên rồi. Jesper không phải là người duy nhất cố đi trước những rắc rối của mình một bước.
“Ồ, thế thì cậu hoàn toàn đúng,” Jesper nói. “Không quỷ quyệt chút nào. Tôi tin chắc ông ta cũng có lí do để không cho cậu than khóc mẹ.”
Wylan rút một sợi vải tưa ra trên ống tay áo khoác. “Cũng không hoàn toàn là lỗi của ông. Cha tôi gần như lúc nào cũng tỏ ra âu sầu. Và xa cách. Cũng khoảng thời gian đó ông nhận ra tôi không… được như kì vọng.”
“Lúc đó cậu mấy tuổi?”
“Tám tuổi, hình như thế? Tôi đã che giấu chuyện đó rất giỏi.”
“Bằng cách nào?”
Nụ cười nhạt xuất hiện trên môi Wylan. “Ông ta đọc cho tôi, hoặc tôi nhờ một trong các bảo mẫu đọc, và tôi ghi nhớ tất cả. Tôi thậm chí biết khi nào phải ngừng và lật trang.”
“Cậu nhớ được nhiều tới cỡ nào?”
“Nhiều lắm. Tôi biến ngôn từ thành âm nhạc trong đầu mình, giống như các bài hát ấy. Thỉnh thoảng tôi vẫn còn làm như thế. Tôi chỉ việc nói rằng mình không thể giải mã được chữ viết tay của ai đó và bảo họ đọc thành tiếng, rồi tôi gắn chúng vào một giai điệu. Tôi có thể lưu giữ chúng trong đầu cho tới khi cần dùng.”
“Không chừng cậu có thể áp dụng kĩ năng này cho việc ghi nhớ các lá bài.”
“Có lẽ thế. Nhưng tôi sẽ không làm chuyện đó.”
“Phí cả năng khiếu.”
“Là anh nói vậy thôi.”
Jesper nhăn mặt. “Ngắm cảnh đi.”
Cũng không có gì nhiều để mà ngắm. Wylan nhận ra mình mệt mỏi đến thế nào. Cậu không quen với cuộc sống đầy sợ hãi với những khoảnh khắc âu lo cứ nối tiếp nhau như thế này.
Wylan nghĩ đến việc kể cho Jesper nghe đầu đuôi mọi chuyện. Liệu có nhẹ lòng được không nếu như toàn bộ câu chuyện nhục nhã này được phơi bầy? Có thể. Nhưng một phần trong cậu muốn Jesper và những người khác tiếp tục tin rằng cậu đã bỏ nhà ra đi để lập thân tại khu Barrel, rằng cậu đã chọn cuộc sống này.
Khi cậu bé Wylan lớn lên, cha cậu đã dần bộc lộ rõ ràng rằng cậu không có chỗ trong nhà của ông, nhất là sau đám cưới của ông và Alys. Nhưng ông dường như không biết phải làm gì với cậu. Ông bắt đầu dùng những lời lẽ ngày một hằn học hơn với con trai mình.
Con không thể đi học ở trường tư vì con không biết đọc.
Ta không thể cho con đi đâu đó học việc vì con có thể để lộ khiếm khuyết của mình.
Con giống như đồ ăn chóng hỏng vậy. Ta không thể cất con vào chỗ nào đó mà không làm nó thối um lên.
Thế rồi, sáu tháng trước, cha của Wylan cho gọi cậu tới thư phòng của mình. “Ta đã xin cho con một vị trí trong trường nhạc ở Belendt. Một thư kí riêng đã được thuê và sẽ gặp con tại trường. Anh ta sẽ phụ trách văn thư và những việc nằm ngoài khả năng của con. Đây là một sự phí phạm cả thời gian lẫn tiền bạc, nhưng với con thì ta phải chấp nhận những gì có thể chấp nhận được.”
“Trong bao lâu ạ?” Wylan đã hỏi như thế.
Cha cậu nhún vai. “Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai. Ồ, đừng có nhìn ta với vẻ mặt tổn thương như thế, Wylan. Ta đang rất chân thành, chứ không hề tàn nhẫn. Đây là giải pháp tốt nhất cho hai ta. Con sẽ được miễn trừ một nhiệm vụ bất khả thi là đảm nhận vai trò quý tử của một thương gia, còn ta cũng tránh được cảm giác xấu hổ của việc chứng kiến con gồng mình làm chuyện đó.”
Ta đối xử với con đâu có khắc nghiệt hơn cuộc đời này. Đó là điệp khúc của cha cậu. Còn ai thẳng thắn hơn ông kia chứ? Ai thương cậu đủ nhiều để nói với cậu sự thật kia chứ? Wylan từng có những kỉ niệm vui vẻ khi được cha đọc cho nghe những câu chuyện u ám về các khu rừng phù thuỷ, hoặc những dòng sông biết nói. Jan Van Eck đã làm hết khả năng để chăm sóc con trai, và nếu ông thất bại thì đó là lỗi của cậu. Cha cậu có thể nói năng tàn nhẫn, nhưng ông không chỉ tự bảo vệ mình hay đế chế Van Eck, mà bảo vệ cả cậu nữa.
Và mọi thứ ông nói đều hợp lí một cách kinh khủng. Wylan không thể thừa kế cơ nghiệp của cha, bởi vì cậu sẽ dễ dàng bị người ta lừa gạt. Cậu không thể đi học đại học vì cậu sẽ trở thành mục tiêu của sự chế nhạo. Đây là giải pháp tốt nhất cho hai ta. Sự bực bội của cha cậu là một thứ không mấy dễ chịu, nhưng chính tư duy của ông khiến Wylan bị ám ảnh - cái giọng nói thực dụng, không thể bác bỏ vang lên trong đầu cậu mỗi khi cậu nghĩ tới việc thử một thứ gì mới, hoặc cố học đọc học viết một lần nữa.
Wylan đau đớn khi bị xua ra khỏi nhà, nhưng cậu vẫn có hi vọng. Cuộc sống ở Belendt nghe chừng rất tuyệt diệu. Cậu không biết nhiều về nó, ngoại trừ việc nó là đô thị cổ thứ hai của Kerch, và nằm trên bờ sông Droombeld. Nhưng cậu sẽ ở xa đám bạn bè và cộng sự kinh doanh của cha cậu. Van Eck là một cái họ khá phổ biến, và tại một nơi cách xa Ketterdam như thế, việc mang họ Van Eck sẽ không khiến cậu bị người ta nhòm ngó.
Cha của Wylan đã đưa cho cậu một phong thư niêm kín và ít tiền để đi đường. “Đây là giấy tiếp nhận của con, và chỗ tiền này đủ để con đi tới Belendt. Một khi đã đến đó, hãy để tay thư kí lo chuyện tiền nong. Một tài khoản đã được mở dưới tên con. Ta cũng đã thu xếp vài người đi cùng con trên chuyến tàu.”
Đôi má Wylan đỏ ửng vì nhục nhã. “Con có thể tự mình đi tới Belendt.”
“Con chưa bao giờ rời khỏi Ketterdam một mình, và đây không phải là lúc để bắt đầu làm điều đó. Miggson và Prior có việc cần lo liệu cho ta ở Belendt. Họ sẽ đưa con tới đó và giúp con ổn định chỗ ở. Hiểu chưa?”
Wylan đã hiểu. Cậu không đủ khả năng để một mình lên tàu rời khỏi Ketterdam.
Nhưng ở Belendt, mọi việc sẽ khác. Wylan đóng vào chiếc vali nhỏ vài bộ quần áo và những thứ mà cậu sẽ cần trước khi rương đồ của cậu được chuyển tới trường cùng với những tập nhạc yêu thích của cậu. Nếu cậu có thể đọc chữ giỏi như đọc nốt nhạc thì đã chẳng nên cớ sự. Khi cha của Wylan ngừng đọc sách cho cậu, âm nhạc là thứ mang đến những câu chuyện mới, chúng mở ra từ ngón tay cậu, và cậu đưa mình vào trong đó qua từng nốt nhạc được tấu lên. Wylan nhét cây sáo vào trong cái túi đeo chéo, phòng khi cậu muốn luyện tập một chút trên đường đi.
Wylan chia tay Alys một cách nhanh gọn và vụng về. Alys là một cô gái tốt, nhưng mọi vấn đề nằm ở đó - cô chỉ hơn cậu có vài tuổi. Wylan không hiểu làm thế nào cha mình có thể đi trên phố bên cạnh Alys mà không cảm thấy ngượng. Nhưng Alys dường như không phiền lòng về chuyện đó, có lẽ vì khi ở bên cô, cha cậu trở thành người đàn ông mà cậu từng biết khi còn nhỏ - tử tế, hào phóng, kiên nhẫn.
Ngay cả bây giờ, Wylan cũng không thể xác định thời điểm cậu biết mình đã bị cha từ bỏ. Mọi chuyện thay đổi một cách chậm rãi. Sự kiên nhẫn của Jan Van Eck đã lặng lẽ bay đi như lớp vàng lá dát trên sắt thô, và khi nó biến mất hẳn, cha cậu dường như trở thành một con người hoàn toàn khác, ít đẹp đẽ hơn nhiều.
“Tôi muốn nói lời từ biệt và chúc sức khoẻ dì,” Wylan đã nói như thế với Alys. Lúc đó cô ngồi trong phòng riêng, con chó sục nằm ngủ dưới chân.
“Cậu sẽ đi xa à?” Alys hỏi lại. Cô bắt gặp túi hành lí của Wylan khi ngước mắt lên khỏi chiếc kim khâu. Alys đang khâu mép rèm. Phụ nữ Kerch, kể cả những người khá giả, không nề hà những công việc tủn mủn như thêu thùa hay may vá. Việc thu vén nội trợ cho phép họ phụng sự Ghezen tốt hơn.
“Tôi sẽ tới trường nhạc ở Belendt.”
“Ồ, hay quá!” Alys reo lên. “Tôi nhớ thôn quê quá chừng. Cậu sẽ thoả thích tận hưởng không khí trong lành, và chắc chắn sẽ có nhiều bạn tốt.” Cô đặt kim xuống và hôn lên hai má Wylan. “Cậu có quay về vào các kì nghỉ không?”
“Có thể,” Wylan nói, mặc dù biết mình sẽ không làm điều đó. Cha cậu muốn cậu biến mất, vậy thì cậu sẽ biến mất.
“Lúc đó chúng ta sẽ làm bánh gừng,”Alys nói. “Cậu sẽ kể cho tôi nghe về những chuyến phiêu lưu của mình, và không lâu nữa chúng ta sẽ có một người bạn mới để chơi cùng.” Cô vỗ nhẹ lên bụng mình với một nụ cười hạnh phúc.
Wylan mất vài giây để hiểu ý nghĩa câu nói của Alys, và cậu chỉ đứng đó, tay nắm chặt chiếc vali, đầu gật gật, miệng mỉm cười một cách máy móc trong khi Alys nói tiếp về kế hoạch cho kì nghỉ lễ. Cô đã có thai. Chính vì vậy mà cha cậu muốn đẩy cậu đi. Jan Van Eck sắp có một người nối dõi khác, một người nối dõi thực thụ.
Wylan đã hết vai trò. Cậu sẽ biến mất khỏi Ketterdam, làm một cái nghề vặt vãnh tại đâu đó. Thời gian trôi qua, sẽ không ai nhướn mày thắc mắc khi đứa con của Alys được giao quyền lãnh đạo đế chế kinh doanh Van Eck. Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai. Hoá ra đó không phải là một lời sỉ nhục bâng quơ.
Miggson và Prior xuất hiện đúng tám giờ để đưa Wylan lên thuyền. Không ai đến chào từ biệt, và khi cậu đi ngang qua thư phòng của cha, cánh cửa vẫn đóng kín. Cậu từ chối việc gõ cửa và cầu xin chút tình thương như con chó của Alys mỗi khi đòi chủ vuốt ve.
Người của cha cậu mặc đồ đen, màu ưa thích của các thương nhân. Họ không trao đổi nhiều với Wylan trong lúc đi tới bến tàu. Họ mua vé đi tuyến Belendt, và khi đã ở trên tàu, Miggson chúi mũi vào tờ báo, còn Prior ngả lưng trên ghế, mũ sụp xuống, mắt nhắm hờ. Wylan không biết anh ta đang ngủ hay đang nhìn mình như một con tắc kè ngái ngủ.
Vào giờ đó trên tàu rất vắng lặng. Người ta ngủ trong những cabin chật chội, hoặc ăn bữa tối mang theo - những khoanh thịt xông khói và bình giữ ấm cà phê nằm vắt vẻo trên đùi họ.
Không ngủ được, Wylan rời khỏi cabin nóng bức và bước lên mũi thuyền. Gió đông lạnh lẽo nồng nặc mùi tanh từ những lò mổ nằm ở ngoại vi Ketterdam. Nó khiến bụng cậu nôn nao, nhưng không lâu sau đó, những ánh đèn đô thị mờ dần, và họ tiến vào vùng thôn quê. Wylan lấy làm tiếc vì đã không đi chuyến ban ngày. Cậu muốn xem các cối xay gió lừng lững canh gác những cánh đồng, lũ cừu gặm cỏ trong bãi chăn. Cậu thở dài, rùng mình trong chiếc áo khoác, và chỉnh lại dây túi, cậu nên cố nghỉ ngơi một chút. Có lẽ cậu sẽ dậy sớm và ngắm mặt trời lên.
Khi Wylan quay người, Prior và Miggson đang đứng ngay sau lưng cậu.
“Tôi xin lỗi,” Wylan nói. “Tôi…” Đúng lúc đó đôi tay của Prior đã thít chặt cổ họng cậu.
Wylan thở hồng hộc - hay đúng hơn là cố gắng làm điều đó. Âm thanh phát ra từ miệng cậu chỉ là một tiếng khò khè. Cậu nắm lấy cổ tay của Prior, nhưng tay hắn ta cứng như sắt, lực bóp không hề giảm đi. Hắn ta đủ to lớn để nhấc bổng Wylan lên và ấn cậu vào lan can thuyền.
Nét mặt của Prior thản nhiên như không, thậm chí có phần chán chường, và Wylan chợt hiểu cậu sẽ không bao giờ tới được ngôi trường ở Belendt. Cha cậu chưa bao giờ thu xếp chuyện đó. Không có tay thư kí nào. Không có tài khoản nào mang tên cậu. Không ai chờ đón cậu. Mảnh giấy tiếp nhận trong túi cậu có lẽ chỉ là một mớ chữ vô nghĩa. Wylan thậm chí đã không tìm cách đọc nó. Cậu sẽ biến mất, đúng như mong muốn của cha, và ông đã thuê những người này để làm việc đó. Cha cậu, người từng đọc sách cho cậu ngủ, từng bưng cho cậu món trà cẩm quỳ pha mật ong khi cậu bị viêm phổi. Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai, cha cậu sẽ gạch tên cậu khỏi sổ sách như một phép tính hỏng, một khoản bội chi có thể quên đi. Con số sẽ được chỉnh lại cho đúng.
Mắt Wylan tối sầm lại. Tai cậu như nghe thấy tiếng nhạc.
“Mấy người kia! Có chuyện gì vậy?”
Giọng nói tưởng như vọng đến từ một khoảng cách rất xa. Cú siết của Prior hơi lỏng ra. Ngón chân Wylan chạm vào boong tàu.
“Không có gì,” Miggson vừa nói vừa quay lại để đối mặt với người lạ. “Chúng tôi phát hiện thằng này đang nhòm ngó hành lí của hành khách thôi.”
Wylan phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn.
“Vậy tôi… tôi đi báo thị tuần nhé? Có hai sĩ quan ở trong cabin.”
“Chúng tôi đã báo thuyền trưởng rồi,” Miggson đáp. “Chúng tôi sẽ giải thằng này tới trạm thị tuần ở điểm dừng kế tiếp.
“Thật mừng là các anh kịp thời đề cao cảnh giác.” Người đàn ông quay lưng bỏ đi.
Con tàu hơi tròng trành một chút. Wylan không đợi để xem chuyện gì sẽ diễn ra tiếp theo, cậu dùng hết sức bình sinh để đẩy Prior ra, rồi trước khi kịp hoảng sợ, cậu lao mình qua mạn tàu xuống dòng kênh bùn lầy.
Wylan bơi với toàn bộ sức lực huy động được. Cậu vẫn còn choáng váng, cổ họng thì đau khủng khiếp. Trong sự kinh hoàng của cậu, một tiếng ùm vang lên, cho biết một trong hai gã kia đã nhảy xuống nước để đuổi theo. Nếu Wylan xuất hiện ở đâu đó, còn sống, có lẽ Miggson và Prior sẽ không được nhận tiền công.
Cậu thay đổi kiểu bơi, tạo ra ít tiếng động nhất có thể, và cố buộc mình động não. Thay vì lao thẳng vào bờ như ý muốn của cơ thể lạnh cóng, cậu lặn xuống bên dưới một con tàu chợ và trồi lên ở phía bên kia, bơi theo nó, dùng nó làm vật che chắn. Sức nặng của chiếc túi đeo chéo làm vai cậu trì xuống, nhưng cậu không thể từ bỏ nó. Tài sản của mình, cậu nghĩ vơ vẩn trong đầu. Cây sáo của mình. Wylan bơi không ngừng, kể cả khi hơi thở trở nên rát buốt và chân tay bắt đầu tê dại. Cậu bắt mình tiến tới, để gia tăng khoảng cách hết mức có thể giữa cậu và hai tên sát nhân của cha.
Nhưng rồi sức lực cũng bắt đầu từ bỏ cậu, và Wylan nhận ra mình đang quẫy đạp nhiều hơn là bơi. Nếu không vào bờ, cậu sẽ chết đuối. Cậu lội tới một gầm cầu và rướn người trèo lên bờ, ướt đẫm và run rẩy trong cái lạnh băng giá. Cổ họng cậu nhức buốt mỗi khi nuốt, và tim cậu thắt lại mỗi khi nghe thấy tiếng sóng vỗ ì oạp, sợ rằng gã Prior kia đang đến để kết thúc công việc.
Wylan cần lên một kế hoạch nào đó, nhưng thật khó để suy nghĩ cho thấu đáo trong tình cảnh này. Cậu kiểm tra các túi quần. Vẫn còn vài đồng kruge mà cha cậu đã đưa được cất trong chỗ an toàn. Tiền dù bị ướt thì vẫn tiêu được. Nhưng cậu nên đi đâu bây giờ? Cậu không có đủ tiền để rời khỏi Ketterdam, và nếu cha cậu cử người truy lùng thì cậu sẽ dễ dàng bị tìm ra. Cần phải tới một nơi an toàn, một nơi mà cha cậu sẽ không nghĩ tới việc tìm cậu ở đó. Chân tay Wylan nặng như chì, cái lạnh đã nhường chỗ cho sự mệt mỏi. Cậu sợ rằng nếu nhắm mắt lại, cậu sẽ không có đủ ý chí để mở mắt ra nữa.
Cuối cùng, Wylan bắt đầu với việc đi bộ. Cậu đi lang thang theo hướng bắc, xuyên qua Ketterdam, tránh xa các lò mổ, ngang qua một khu dân cư yên bình nơi các tiểu thương sinh sống, và đi tiếp. Những đường phố trở nên cong queo và nhỏ hẹp hơn, cho tới khi nhà cửa hai bên dường như đổ nhào vào cậu. Bất chấp thời điểm khuya khoắt, vẫn còn những cửa hiệu sáng đèn. Tiếng nhạc vọng ra từ các quán cà phê xập xệ, và Wylan thoáng thấy những thân người quấn lấy nhau trong các ngõ hẻm.
“Bị ai nhúng nước hả nhóc?” Một ông già rụng răng cất tiếng hỏi cậu dưới mái hiên nhà mình.
“Qua đây, tao dìm cho!” Một phụ nữ ré lên từ trên cầu thang.
Cậu đang ở trong khu Barrel. Wylan sống cả đời tại Ketterdam, nhưng cậu chưa bao giờ tới đây. Cậu không được phép, và cũng chưa bao giờ có ý định làm điều đó. Cha cậu gọi Barrel là “hang ổ dơ dáy của sự trụy lạc và báng bổ”, là “nỗi nhục của Ketterdam”. Wylan biết nó là một mạng lưới chằng chịt những đường phố tối tăm và ngõ ngách bí hiểm. Một nơi mà cư dân tại chỗ cải trang để làm những chuyện thiếu đứng đắn, nơi khách ngoại quốc chen chân trên những trục đường chính để tìm kiếm những trò tiêu khiển bậy bạ, nơi người ta đến rồi đi như sóng triều. Một nơi hoàn hảo để biến mất.
Cho đến cái ngày mà lá thư đầu tiên của cha cậu xuất hiện.
***
Wylan giật mình nhận ra Jesper đang kéo tay áo cậu. “Đến nơi rồi, thiếu gia. Tỉnh táo lên nào.”
Wylan vội chạy theo anh. Họ xuống bến tầu không người tại Olendaal và đi dọc theo bờ đê đến một con đường làng vắng vẻ.
Jesper nhìn quanh. “Nơi này giống ở quê tôi. Đồng ruộng trải hết tầm mắt, im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng vù vù của những chú ong, không khí thì trong lành.” Anh rùng mình. “Ớn quá.”
Trong lúc họ bước đi, Jesper giúp Wylan hái những bông hoa dại ven đường. Khi họ ra đến đường cái, cậu đã có một bó hoa nhỏ tươm tất.
“Tôi tưởng chúng ta cần phải tìm đường đến mỏ đá?” Jesper hỏi.
Wylan ho húng hắng. “Không, chúng ta không cần phải làm thế. Một hiệu tạp hoá là được rồi.”
“Nhưng cậu đã nói với Kaz là khoáng vật đó…”
“Nó có mặt trong mọi loại sơn và men sứ. Tôi chỉ muốn tìm một cái cớ để đi tới Olendaal.”
“Wylan Van Eck, cậu đã nói dối Kaz Brekker .” Jesper đưa tay lên ôm ngực. “Và cậu không bị làm sao cả! Cậu dạy tôi được không?”
Wylan cảm thấy mãn nguyện một cách kì cục - cho tới khi cậu nghĩ đến việc bị Kaz phát hiện. Nó gần giống như lần đầu tiên cậu uống thử rượu brandy để rồi nôn thốc nôn tháo bữa tối vào đôi giày của mình.
Hai người tìm thấy một hiệu tạp hoá sau khi đi được nửa đoạn đường cái, và chỉ mất vài phút để mua được thứ mình cần. Khi Jesper và Wylan rời khỏi cửa hiệu, một ông già đang chất hàng lên xe ngựa vẫy tay với họ. “Hai cậu đang tìm việc làm hả?” Ông ta hỏi với giọng hoài nghi. “Trông hai cậu không có vẻ gì là phù hợp cho việc đồng áng cả.”
“Ông sẽ bất ngờ đấy,” Jesper đáp. “Chúng tôi đã được nhận vào làm việc ở gần Thánh Hilde.”
Wylan căng người chờ đợi, nhưng người đàn ông chỉ gật đầu. “Các cậu tu sửa nhà thương à?”
“Vâng,” Jesper đáp gọn bâng.
“Bạn cậu kiệm lời nhỉ,” ông ta nhận xét.
“Người Shu mà,” Jesper nhún vai đáp.
Ông già ậm ừ đồng tình rồi nói, “Nhảy lên đi. Tôi đi tới mỏ đá. Tôi có thể cho các cậu quá giang. Hoa để làm gì thế?”
“Cậu ta có một cô bồ ở gần Thánh Hilde.”
“Có bồ rồi cơ đấy.”
“Vâng. Gu chọn bạn gái của cậu ta kinh khủng lắm.”
Wylan chỉ muốn đẩy Jesper khỏi chiếc xe ngựa.
Hai bên con đường bùn lầy hình như là những cánh đồng lúa mạch và lúa mì. Miền đất bằng phẳng thi thoảng được chấm phá bởi các kho thóc và cối xay gió. Chiếc xe đi rất nhanh. Hơi quá nhanh, Wylan thầm nghĩ khi chiếc xe chạy qua một cái rãnh trên đường và xóc mạnh, cậu xuýt xoa.
“Mưa đấy,” ông nông dân nói. “Người ta chưa kịp rải cát cho đường bằng phẳng.”
“Không sao ạ,” Jeper nháy mắt đáp khi chiếc xe một lần nữa sa vào các ổ gà trên đường. “Tôi cũng không cần giữ cái lá lách nguyên vẹn làm gì.”
“Tốt thôi!” Ông nông dân bật cười. “Càng tốt cho gan!”
Wylan bấu chặt vào thành xe, ước gì có thể đẩy Jesper khỏi xe và nhảy xuống luôn cùng anh. May mắn thay, sau khi chạy thêm khoảng một dặm nữa, chiếc xe giảm tốc độ rồi dừng lại trước hai cột đá đánh dấu một lối đi dài rải sỏi.
“Tôi chỉ đi được đến chỗ này thôi,” ông nông dân nói. “Chẳng bán chác gì ở trong kia được. Quá sức chịu đựng. Những khi gió thổi đúng chiều, các cậu có thể nghe thấy những tràng cười và tiếng la hét của bọn họ.”
Jesper và Wylan đưa mắt nhìn nhau.
“Ý ông là nơi này bị ma ám hay sao?” Jesper hỏi.
“Có lẽ thế.”
Hai người cảm ơn ông già và mừng rỡ nhảy xuống xe. “Sau khi đã xong việc ở đây, các cậu đi theo đường cái khoảng hai dặm nữa,” ông ta nói. “Tôi có hai mẫu đất cần cày bừa. Năm kruge mỗi ngày, và buổi tối các cậu có thể ngủ trong kho thóc thay vì nằm tơ hơ ngoài đồng.”
“Nghe có vẻ hấp dẫn,” Jesper vẫy tay đáp, nhưng ngay khi họ quay lưng đi vào trong lối đi rải sỏi, anh làu bàu với Wylan. “Chúng ta sẽ đi bộ về. Xương sườn tôi muốn gãy ra đây này.”
Sau khi chiếc xe khuất dạng, hai người cởi bỏ áo choàng và áo khoác rồi nhét vào một bụi cây, phơi bày bộ trang phục màu đen mà Kaz bảo họ mặc bên trong. “Hãy bảo họ rằng các cậu được luật sư Cornells Smeet cử đến,” Kaz đã dặn như thế. “Rằng các cậu muốn bảo đảm rằng mộ phần được chăm sóc tử tế.”
“Tại sao?” Wylan thắc mắc.
“Bởi vì nếu cậu tuyên bố mình là con trai của Jan Van Eck, sẽ không có ai tin cậu.”
Hai bên lối đi trồng cây dương, và khi họ lên đến đỉnh đồi, một toà nhà xuất hiện trước mắt họ: ba tầng xây bằng đá trắng, với những bậc thềm duyên dáng dẫn lên một vòm cửa ra vào. Lối đi trước nhà được trải sỏi gọn ghẽ và trang trí bằng hàng thuỷ tùng thấp ở hai bên.
“Trông chẳng giống nhà thờ nhỉ,” Jesper nói.
“Chắc nó từng được dùng làm tu viện hoặc trường học,” Wylan đoán. Cậu lắng nghe tiếng sỏi kêu lạo xạo dưới gót giày. “Jesper này, anh có nhớ được gì nhiều về mẹ không?”
Wylan đã từng nhìn thấy nhiều kiểu cười của Jesper, nhưng nụ cười đang từ từ xuất hiện trên gương mặt anh lúc này rất khác, được anh giữ khư khư như một tay bài chiến thắng. Tất cả những gì anh nói chỉ là, “có. Mẹ đã dạy tôi bắn súng.”
Có hàng trăm câu hỏi mà Wylan muốn đặt ra, nhưng càng đến gần nhà thờ cậu càng khó nắm bắt các ý nghĩ trong đầu mình. Phía bên trái của toà nhà, cậu trông thấy một giàn tử đằng đang trổ hoa, mùi hương ngọt ngào của những chùm hoa tím nồng đượm trong bầu không khí mùa xuân. Xa hơn thảm cỏ một chút, chếch về bên phải, là một cánh cổng và hàng rào bằng sắt uốn bao quanh một nghĩa trang. Một tượng đá được đặt chính giữa khu đất - tượng phụ nữ, Wylan đoán, có lẽ là Thánh Hilde.
“Chắc là nghĩa trang đó,” Wylan lên tiếng, tay cậu nắm bó hoa chặt hơn. Mình đang làm gì ở đấy thế này? Lại câu hỏi đó, và bỗng nhiên cậu không có câu trả lời. Kaz đã nói đúng. Chuyện này thật ngu ngốc, sến sẩm. Đi xem một tấm bia mộ có tên mẹ cậu trên đó thì có gì hay ho kia chứ? Thậm chí cậu còn không đọc được nó. Nhưng họ đã đi cả quãng đường đến đây.
“Jesper…” Wylan vừa mở miệng thì một phụ nữ mặc đồ màu xám đẩy một chiếc xe cút kít chở đầy đất đi vòng qua góc nhà.
“Goed morgen, ” chị ta cất tiếng chào họ. “Tôi có thể giúp được gì cho các cậu?”
“Buổi sáng tốt lành,” Jesper nói một cách trơn tru. “Chúng tôi đến đây từ văn phòng của luật sư Cornells Smeet.”
Người phụ nữ nhíu mày, và Wylan vội nói thêm, “Nhân danh ngài Uỷ viên hội đồng Jan Van Eck cao quý.”
Có vẻ như người phụ nữ không nhận ra sự run rẩy trong giọng nói của cậu, vì hàng lông mày kia đã giãn ra, chị ta mỉm cười. Đôi má của chị thật tròn trịa và hồng hào. “Tất nhiên rồi. Nhưng nói thật là tôi bị bất ngờ đấy. Ngài Van Eck luôn hào phóng với chúng tôi, nhưng hiếm khi nào chúng tôi được nghe tin tức của ông ấy. Mọi việc vẫn ổn cả chứ?”
“Vâng!” Wylan đáp.
“Chỉ là quy trình mới thôi,” Jesper nói. “Thêm việc cho tất cả mọi người.”
“Không phải mọi chuyện luôn như thế sao?” Người phụ nữ lại mỉm cười đáp. “Tôi thấy cậu mang cả hoa tươi đến.”
Wylan nhìn xuống bó hoa của mình. Nom nó nhỏ nhoi và lộn xộn hơn cậu nghĩ. “Chúng tôi… Vâng.”
Người phụ nữ chùi tay vào chiếc áo blouse nhàu nhĩ và nói, “Tôi sẽ đưa các cậu đến chỗ bà ấy.”
Nhưng thay vì đi về hướng nghĩa trang, chị ta quay trở vào nhà thờ. Jesper nhún vai, rồi cùng Wylan đi theo người phụ nữ. Trong lúc bước lên những bậc thềm đá, một cảm giác lành lạnh bỗng lướt qua sông lưng Wylan.
“Jesper,” cậu thì thào. “Cửa sổ có lắp chấn song.”
“Các tu sĩ hay lo xa chăng?” Jesper phỏng đoán, nhưng anh không cười.
Tiền sảnh thông suốt hai tầng nhà với mặt sàn lát gạch trắng điểm những bông hoa tulip tinh tế. Trông nơi này không giống với những nhà thờ mà Wylan từng thấy. Sự im lặng ở đây quá nặng nề, gần như khiến người ta nghẹt thở. Một bàn giấy lớn được đặt trong góc nhà, trên đó có một lọ hoa cắm những nhành tử đằng mà Wylan đã thấy ở phía bên ngoài. Cậu hít một hơi thật sâu. Mùi thơm thật dễ chịu.
Người phụ nữ mở khoá một cái tủ lớn, lục tìm trong đó ít phút, rồi lôi ra một tập hồ sơ dày.
“Đây rồi: Marya Hendriks. Như các cậu thấy đấy, mọi thứ đâu ra đó. Các cậu có thể xem qua nó trong khi chúng tôi rửa ráy cho bà ấy. Lần tới để tránh mất thời gian, các cậu nên báo cho chúng tôi biết trước khi đến.”
Wylan cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra khắp người. Cậu chỉ có thể gật đầu.
Người phụ nữ lấy một chùm chìa khoá to từ trong tủ và mở một trong những cánh cửa màu xanh nhạt dẫn ra khỏi tiền sảnh. Wylan nghe thấy tiếng chìa khoá xoay trong ổ sau khi cánh cửa khép lại. Cậu đặt chỗ hoa dại xuống bàn. Các cuống hoa đã bị gãy hết. Cậu đã nắm chúng quá chặt.
“Đây là đâu?” Wylan hỏi. “Chị ta nói vậy là sao? Rửa ráy cho bà ấy ?” Tim cậu đập cuồng loạn như một chiếc máy đánh nhịp bị cài đặt sai.
Jesper đang lật giở tập hồ sơ, mắt lướt nhanh qua các trang giấy.
Wylan nhìn qua vai anh, một cảm giác tuyệt vọng kinh khủng dâng lên trong lòng cậu. Chữ nghĩa trên trang giấy nom giống như những nét vẽ nguệch ngoạc, một đống chân rết đen ngòm. Cậu cố gắng hít thở. “Jesper, làm ơn,” cậu nài nỉ, giọng lạc hẳn đi. “Đọc cho tôi nghe với.”
“Tôi xin lỗi,” Jesper vội nói. “Tôi quên khuấy mất. Tôi…” Wylan không thể diễn giải được vẻ mặt của Jesper lúc này. Có sự buồn bã, hoang mang trong đó. “Wylan… tôi nghĩ rằng mẹ cậu còn sống.”
“Không thể nào.”
“Cha cậu đã yêu cầu nhốt bà ấy lại.”
Wylan lắc đầu. Không thể nào. “Mẹ ngã bệnh. Chứng viêm phổi…”
“Ông ta nêu rõ rằng bà ấy mắc chứng cuồng loạn, ảo giác, và hoang tưởng bức hại.”
“Mẹ không thể còn sống được. Ông ta… ông ta đã tái hôn. Còn Alys thì sao?”
“Tôi nghĩ ông ta đã cho tuyên bố mẹ cậu bị tâm thần để sử dụng nó làm cớ li dị. Đây không phải là nhà thờ, Wylan. Nó là nhà thương điên.”
Thánh Hilde. Cha cậu gửi tiền tới đây hằng năm, nhưng không phải để từ thiện. Để họ chăm sóc mẹ cậu. Để họ im lặng. Căn phòng bỗng quay cuồng trước mắt cậu.
Jesper kéo Wylan ngồi vào chiếc ghế ở phía sau bàn rồi ấn vào bả vai cậu, bắt cậu gập người tới trước. “Vùi đầu cậu vào giữa hai đầu gối, tập trung nhìn sàn nhà. Hít thở đi.”
Wylan cố ép mình tuần tự hít vào thở ra, mắt nhìn những bông hoa tulip xanh trên các vuông gạch trắng. “Cho tôi biết phần còn lại đi.”
Cậu cần phải bình tĩnh lại, nếu không họ sẽ nhận ra có chuyện không ổn.”
“Cho tôi biết phần còn lại.”
Jesper thở hắt ra và tiếp tục lật hồ sơ. “Khốn kiếp,” anh thốt lên sau đó ít phút. “Có một văn bản chuyển quyền sở hữu trong này. Bản sao.”
Wylan tiếp tục nhìn mặt sàn lát gạch. “Văn bản gì? Thế nghĩa là sao?”
Jesper đọc thành tiếng, “Tài liệu này, dưới sự chứng giám xuyên suốt của Ghezen và tuân theo những giao dịch dân sự trung thực nhất, được thông qua bởi toà án của Kerch và Hội đồng Thương buôn, ghi nhận việc chuyển giao toàn bộ tài sản, đất đai, và các cổ phần từ Marya Hendriks sang cho Jan Van Eck giám sát, đến khi Marya Hendriks đủ năng lực quản lí tài sản của mình trở lại.”
“Chuyển giao toàn bộ tài sản,” Wylan lặp lại. Tôi đang làm gì ở đây thế này? Tôi đang làm gì ở đây thế này? Mẹ đang làm gì ở đây?
Chìa khoá lại xoay trong ổ, cánh cửa xanh nhạt mở ra, và người phụ nữ mà bây giờ Wylan mới nhận ra là một y tá bước qua cửa, tay đưa lên vuốt phẳng lại tạp dề khoác trên người.
“Chúng tôi đã sẵn sàng,” chị ta nói. “Hôm nay bà ấy khá ngoan. Cậu có ổn không vậy?”
“Bạn tôi hơi bị choáng một chút. Dang nắng quá lâu sau nhiều giờ ru rú trong văn phòng luật sư Smeet. Phiền chị rót cho chúng tôi một cốc nước được không?”
“Tất nhiên là được!” Người y tá đáp. “Này, đúng là trông cậu nhợt nhạt thật đấy.”
Chị ta lại biến vào trong cửa sau khi thực hiện quy trình mở rồi khoá như ban nãy. Để bảo đảm các bệnh nhân không thể trốn ra ngoài.
Jesper khuỵu gối trước mặt Wylan và đặt tay lên vai cậu.
“Wylan, nghe tôi này. Cậu phải trấn tĩnh lại. Cậu có làm được không? Chúng ta có thể bỏ về. Tôi có thể nói với chị ta cậu không được khoẻ, hoặc tôi có thể vào trong đó một mình. Chúng ta có thể quay lại vào một dịp khác…”
Wylan hít một hơi thật sâu qua đường mũi. Cậu chưa thể tiêu hoá hết những gì đang diễn ra, chưa thể hiểu hết tầm vóc của chúng. Vậy thì từng thứ một. Đây là thủ thuật mà một gia sư đã dạy cho cậu để tránh bị trang sách nhấn chìm, cậu đã không thành công, nhất là khi có cha đứng sừng sững bên cạnh, nhưng cậu cũng áp dụng được nó cho những việc khác. Từng thứ một. Đứng dậy. Wylan đứng lên. Mày ổn. “Tôi ổn,” cậu nói. “Chúng ta sẽ không bỏ về.” Đó là điều duy nhất mà cậu chắc chắn.
Khi nữ y tá quay lại, cậu đón lấy cốc nước, cảm ơn chị ta, rồi uống cạn. Sau đó cậu và Jesper theo chị ta đi qua cánh cửa màu xanh. Cậu không đủ bình tĩnh để gom lại những bông hoa dại giập gãy vương vãi trên bàn. Từng thứ một.
Họ đi qua một lớp cửa khoá, một phòng tập. Từ đâu đó, cậu nghe thấy tiếng rên rỉ. Tại một gian phòng khách, hai người phụ nữ đang chơi thứ giống như cờ hiệp sĩ.
Mẹ mình đã chết rồi. Bà đã chết rồi. Nhưng không một phần nào trong cơ thể cậu tin vào điều đó nữa. Không hề nữa.
Cuối cùng nữ y tá dẫn họ tới một chái nhà ở cánh tây có vách kính, cho phép đón nhận sự ấm áp của ánh nắng chiều. Qua lớp kính, màu xanh của thảm cỏ hiện lên rõ mồn một, cùng với nghĩa trang ở cách đó một quãng. Đó là một gian phòng đẹp, sàn nhà không có vết bẩn. Một tấm toan với những nét phác thảo phong cảnh được dựng trên giá vẽ bên cạnh vách kính. Kí ức bỗng quay lại trong đầu Wylan: mẹ cậu ngồi bên giá vẽ trong khu vườn phía sau ngôi nhà tại Geldstraat, mùi dầu hạt lanh, những cây cọ sạch cắm trong một cái cốc, ánh mắt chăm chú xem xét đường nét của nhà thuyền và dòng kênh cạnh đó.
“Bà ấy vẽ,” Wylan buột miệng.
“Suốt ngày,” nữ y tá vui vẻ nói. “Marya của chúng tôi yêu nghệ thuật lắm.”
Một người phụ nữ đang ngồi trên xe lăn, đầu gục gặc như thể chống lại cơn buồn ngủ, những tấm chăn đã được phủ lên đôi vai gầy guộc. Khuôn mặt hằn rõ những nếp nhăn, mái tóc nâu hổ phách đã phai nhạt và điểm nhiều sợi bạc. Màu tóc của mình, Wylan nhận ra, nếu nó bị ánh nắng làm phai màu. Tự dưng cậu cảm thấy nhẹ nhõm. Người phụ nữ này rõ ràng quá lớn tuổi, không thể là mẹ cậu được. Nhưng rồi bà ngước cằm lên và mở mắt ra. Đôi mắt trong veo mầu nâu, không thay đổi, nguyên vẹn.
“Bà có khách đấy, Hendriks.”
Đôi môi của mẹ cậu mấp máy, nhưng Wylan không nghe được gì.
Bà nhìn họ với đôi mắt tinh anh. Rồi nét mặt bà thay đổi, trở nên mơ hồ và thắc mắc, khi sự chắc chắn tan biến. “Tôi có… tôi có biết các cậu không?”
Cổ họng Wylan đau nhói. Mẹ có nhận ra con nếu con vẫn mang nét mặt của con trai mẹ không? Cậu cố gắng lắc đầu.
“Chúng ta gặp… gặp nhau cách đây đã lâu,” cậu đáp. “Hồi tôi còn là một đứa trẻ.”
Bà ậm ừ và nhìn ra bãi cỏ.
Wylan tuyệt vọng quay sang Jesper. Cậu chưa sẵn sàng cho chuyện này. Mẹ cậu đã được mai táng từ lâu, đã tan thành cát bụi dưới lòng đất.
Thật nhẹ nhàng, Jesper dẫn Wylan lại gần chiếc xe lăn, đối diện với Marya. “Chúng ta có một tiếng đồng hồ trước khi phải quay về,” anh nói khẽ. “Nói chuyện với bà ấy đi.”
“Nói chuyện gì?”
“Còn nhớ những gì cậu đã nói với Kaz không? Chúng ta không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đây. Đây là tất cả những gì ta có.” Anh đứng lên và tiến lại chỗ người y tá đang xếp lại những tuýp màu vẽ. “Thưa cô… Tôi thật xấu hổ vì chưa được biết quý danh của cô.”
Nữ y tá mỉm cười, đôi má tròn ửng đỏ như màu kẹo táo. “Betje.”
“Một cái tên quyến rũ, tương xứng với chủ nhân của nó. Ngài Smeet đã yêu cầu tôi khảo sát điều kiện phòng ốc ở nơi này. Phiền cô dẫn tôi đi một vòng được không?”
Nữ y tá ngần ngừ, mắt liếc nhìn Wylan.
“Chúng tôi sẽ không sao đâu,” Wylan cố rặn ra một câu nói với chất giọng trầm và đục quá mức đối với tai cậu. “Tôi chỉ đặt vài câu hỏi theo thủ tục. Quy trình mới mà.”
Nữ y tá nháy mắt với Jesper. “Vậy thì, tôi nghĩ chúng ta có thể đi xem nhanh một vòng.”
Wylan quan sát mẹ, tâm trí cậu giống như một bản hoà thanh của những hợp âm lạc điệu. Họ đã cắt tóc ngắn cho bà. Cậu cố hình dung bà trẻ hơn, trong chiếc áo dài bằng chất len màu đen tinh tế của một phu nhân, cổ áo có thắt dây màu trắng, những lọn tóc xoăn dày và sống động được cô hầu gái thắt bím rồi cuộn lại thành búi.
“Xin chào,” cậu gắng gượng cất tiếng.
“Cậu đến đây vì tiền của tôi à? Tôi không còn tiền đâu.”
“Tôi cũng không còn,” Wylan đáp một cách yếu ớt.
Khuôn mặt bà không thân quen, nhưng có gì đó trong cái cách bà nghiêng đầu, trong dáng ngồi thẳng lưng. Như thể bà đang ngồi chơi dương cầm.
“Bà có thích âm nhạc không?” Wylan hỏi.
Bà gật đầu. “Có, nhưng ở đây ít được nghe lắm.”
Cậu rút cây sáo trong áo ra. Wylan đã đi cả ngày hôm nay với cây sáo cất nơi ngực áo như một bí mật, và nó vẫn còn ấm nhờ thân nhiệt cơ thể cậu. Cậu đã định thổi sáo trước mộ mẹ như một thằng ngốc. Chắc Kaz sẽ cười cậu ghê lắm.
Vài nốt nhạc đầu tiên khá run rẩy, nhưng rồi Wylan kiểm soát được hơi thở. Cậu tìm được giai điệu, một bài nhạc đơn giản, một trong những bài đầu tiên mà cậu học. Trong một thoáng, trông bà như thể đang cố nhớ xem mình đã từng nghe nó ở đâu. Rồi bà chỉ nhắm mắt lại và lắng nghe.
Khi cậu thổi xong, bà nói, “Thổi bài nào vui vẻ đi.”
Wylan bèn thổi một điệu dân vũ Kaelish, rồi một bài hò biển của Kerch, phù hợp với cây sáo hơn. Cậu thổi mọi bài nhớ được, ngoại trừ những bài buồn bã, sầu thảm. Bà không nói, mặc dù chốc chốc cậu lại thấy bà nhịp ngón chân theo điệu nhạc, và mấp máy môi như thể biết lời ca.
Cuối cùng, Wylan đặt cây sáo xuống đùi. “Bà ở đây bao lâu rồi?”
Mẹ cậu im lặng.
Cậu nghiêng người tới trước, tìm kiếm một câu trả lời trong đôi mắt mông lung màu hạt phỉ. “Họ đã làm gì bà?”
Bà đặt một bàn tay dịu dàng lên má cậu. Lòng bàn tay của bà lạnh lẽo và khô khốc. “Họ đã làm gì cậu?” Wylan không rõ đó là một sự thách thức, hay bà chỉ lặp lại câu chữ của cậu.
Wylan cảm thấy cổ họng nghẹn ngào vì nước mắt, và cố gắng nuốt trôi chúng.
Cánh cửa phòng bật mở. “Thế nào, chuyến thăm tốt đẹp chứ?” Nữ y tá cất tiếng trong khi bước vào phòng.
Wylan vội nhét cây sáo trở vào trong áo. “Vâng,” cậu đáp. “Mọi thứ có vẻ ổn cả.”
“Hai cậu có vẻ hơi bị trẻ quá đối với loại công việc này đấy,” chị ta nói và khoe lúm đồng tiền với Jesper.
“Tôi cũng có thể nói điều tương tự với cô đấy,” anh đáp. “Nhưng cô thừa biết rồi mà, đám nhân viên mới toàn phải dính với những nhiệm vụ thấp kém nhất.”
“Các cậu sẽ sớm quay lại chứ?”
Jesper nháy mắt. “Ai mà biết được.” Anh gật đầu ra hiệu cho Wylan. “Chúng ta cần phải bắt kịp chuyến tàu.”
“Bà chào đi chứ, Hendriks!” Nữ y tá giục.
Đôi môi của Marya mấp máy, nhưng lần này Wylan ở đủ gần để nghe thấy bà lẩm bẩm chữ gì. Van Eck.
***
Trên đường ra, nữ y tá tiếp tục nói chuyện liến thoắng với Jesper. Wylan đi phía sau hai người. Tim cậu nhói đau. Cha cậu đã làm gì mẹ cậu? Có phải bà thực sự hoá điên không? Hay ông ta đã mua chuộc để người có thẩm quyền tuyên bố điều đó? Ông ta có chuốc thuốc mẹ cậu hay không? Jesper liếc nhìn cậu một lần trong lúc nữ y tá thao thao bất tuyệt. Ánh mắt xám của anh đầy vẻ lo lắng.
Khi họ sắp ra đến cánh cửa màu xanh nhạt thì chị ta thốt lên, “Các cậu có muốn xem tranh vẽ của bà ấy không?”
Wylan khựng lại. Cậu gật đầu.
“Tôi nghĩ đó sẽ là điều thú vị nhất,” Jesper đáp.
Người phụ nữ dẫn họ quay ngược lại một đoạn rồi mở cánh cửa của một tủ đồ.
Wylan cảm thấy đầu gối mình nhũn ra, và phải vịn vào tường để giữ thăng bằng. Nữ y tá không nhận ra điều đó - chị ta cứ tiếp tục nói không ngừng. “Màu vẽ rất đắt, tất nhiên rồi, nhưng có vẻ chúng làm bà ấy hạnh phúc. Đây chỉ là mớ tranh gần đây nhất thôi. Cứ mỗi sáu tháng chúng tôi lại phải vứt bớt đi. Không có đủ chỗ để cất chúng nữa.”
Wylan chỉ muốn hét lên. Tủ đồ lèn chặt những bức tranh phong cảnh, những góc khác nhau của khuôn viên bệnh viện, mặt hồ với ánh nắng và bóng tối, và chủ thể xuất hiện nhiều lần trên những bức tranh chính là khuôn mặt của một cậu bé với những lọn tóc hung đỏ cùng đôi mắt xanh nhạt.
Hẳn là Wylan đã phát ra âm thanh nào đó, vì nữ y tá quay lại nhìn cậu. “Ôi trời,” chị ta nói với Jesper, “bạn của cậu lại tái mét kìa. Có cần thuốc kích thích không?”
“Không, không,” Jesper đáp và quàng tay quanh người Wylan. “Nhưng chúng tôi thật sự cần phải lên đường. Chuyến thăm viếng cực kì tốt đẹp.”
Wylan không nhớ được gì trong lúc lần theo lối đi giữa hai hàng thuỷ tùng, tìm lại hai bộ áo choàng và mũ giấu sau gốc gây ở gần đường cái.
Khi đã đi được nửa đoạn đường tối bến thuyền, cậu mới có thể cất tiếng. “Bà ấy biết ông ta đã làm gì với mình. Bà ấy biết ông ta không có quyền lấy đi tiền bạc và cuộc đời của bà.” Van Eck, mẹ cậu đã nói như thế. Bà không phải là Marya Hendriks, mà là Marya Van Eck, một người vợ, người mẹ đã bị đánh cắp tên họ và gia sản. “Còn nhớ khi tôi nói ông ta không phải là một con quỷ không?”
Chân Wylan mềm nhũn ra, khiến cậu ngồi thịch xuống giữa đường, nhưng cậu không buồn quan tâm đến chuyện đó, vì những giọt nước mắt đang dâng lên, và cậu không tài nào ngăn chúng lại được. Chúng ùa vào lồng ngực cậu và trở thành những tiếng nức nở giật cục, xấu xí. Cậu không thích Jesper nhìn thấy mình khóc, nhưng không thể làm gì được với những giọt nước mắt, với tất cả chuyện này. Cậu vùi mặt vào hai cánh tay, ôm đầu như thể nếu ước muốn điều đó đủ mạnh, cậu sẽ có thể biến đi.
Cậu cảm thấy Jesper lay nhẹ cánh tay mình.
“Ổn rồi,” anh nói.
“Không, không ổn đâu.”
“Cậu nói đúng. Chuyện này thật thối tha, và tôi muốn trói cha cậu giữa một mảnh ruộng khô cằn, bỏ mặc lão ta cho bầy kền kền xử lí.”
Wylan lắc đầu. “Anh không hiểu đâu. Là do tôi. Tôi đã gây ra chuyện này. Ông ta muốn một người vợ mới. Ông ta muốn một người nối dõi. Một người nối dõi thực sự, không phải một thằng khờ đến đánh vần cái tên mình cũng vất vả.” Cậu tám tuổi lúc mẹ bị đưa đi. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là lúc cậu bị cha từ bỏ.
“Này,” Jesper lay nhẹ Wylan. “Này. Cha cậu có rất nhiều lựa chọn khác khi phát hiện ra cậu không thể đọc chữ. Ông ta có thể tuyên bố rằng cậu bị mù hoặc có vấn đề về mắt. Hoặc thậm chí ông ta chỉ cần hạnh phúc với việc có một cậu con trai thiên tài.”
“Tôi không phải thiên tài.”
“Cậu ngốc nghếch nhiều chỗ lắm, Wylan à, nhưng cậu không đần độn. Và nếu như tôi nghe thấy cậu tự gọi mình là thằng khờ một lần nữa, tôi sẽ nói với Matthias rằng cậu đã tìm cách hôn Nina. Với lưỡi.”
Wylan đưa ống tay áo chùi mũi. “Anh ta sẽ không bao giờ tin chuyện đó.”
“Vậy thì tôi sẽ nói với Nina rằng cậu tìm cách hôn Matthias. Với lưỡi.” Anh thở dài. “Nghe này, Wylan. Người bình thường không ai nhốt vợ vào nhà thương điên như thế cả. Họ không tước quyền thừa kế của con trai chỉ vì chúng không được như họ mong muốn. Cậu nghĩ bố tôi muốn có thứ rác rưởi giống như tôi lắm sao? Cậu không gây ra chuyện này. Nó xảy ra chỉ vì cha cậu là một kẻ bệnh hoạn trong bộ đồ sang trọng.”
Wylan ấn cạnh bàn tay vào đôi mắt sưng húp. “Tất cả những gì anh nói đều đúng, nhưng chúng không làm tôi cảm thấy khá hơn một chút nào.”
Jesper lại huých nhẹ vào vai Wylan. “Thế chuyện này thì sao? Kaz sẽ phá tan tành cuộc đời của cha cậu.”
Wylan định nói chuyện đó cũng vô ích, nhưng cậu ngần ngừ. Kaz Brekker là sinh vật tàn bạo nhất, hận thù nhiều nhất mà cậu từng gặp, và anh ta đã thề sẽ tiêu diệt Jan Van Eck. Ý nghĩ đó giống như dòng nước lạnh xối thẳng vào cảm giác vô dụng đầy nhục nhã mà cậu đã mang trong lòng từ rất lâu. Không gì có thể chỉnh sửa được chuyện này. Nhưng Kaz có thể phá nát cuộc đời của cha cậu. Và cậu sẽ giàu. Cậu sẽ có thể đưa mẹ ra khỏi chỗ này. Họ sẽ đi tới nơi nào đó ấm áp. Cậu có thể đỡ mẹ ngồi vào trước cây dương cầm, để mẹ chơi đàn, đưa mẹ tới nơi nào đó đầy những màu sắc tươi sáng và những âm thanh đẹp đẽ. Họ có thể đi Novyi Zem. Họ có thể đi bất kì đâu. Wylan ngẩng đầu lên và lau nước mắt. “Thật ra, nó giúp tôi khá nhiều đấy.”
Jesper nhoẻn cười. “Biết ngay mà. Nhưng nếu chúng ta không lên kịp chuyến tàu quay về Ketterdam thì sẽ không có đò