Chương 7 WYLAN
Mình sắp chết và sẽ không có ai giúp mẹ. Không còn một ai nhớ tới Marya Hendriks.
Wylan muốn tỏ ra can đảm, nhưng cậu bị lạnh và bầm dập, tệ hơn thế, vây quanh cậu là những con người gan dạ nhất cậu từng biết, thế mà tất cả bọn họ hình như cũng đang run rẩy.
Họ chậm rãi đi qua các con kênh, dừng lại dưới các gầm cầu và trong những vùng bóng tối để chờ trong lúc tốp thị tuần rầm rập đi qua trên đầu hoặc trên các tuyến kênh. Đêm nay họ triển khai lực lượng rất đông, những chiếc thuyền của họ đi chậm rãi, đèn lồng thắp sáng rực trước mũi. Một điều gì đó đã thay đổi chỉ trong thời gian ngắn sau vụ chạm trán ở cầu Thiện Nữ. Ketterdam đã sống dậy, và nó đang giận dữ.
“Các Grisha…” Nina cất tiếng.
Nhưng Kaz nhanh chóng cắt lời chị. “Hoặc họ đang an toàn tại toà đại sứ, hoặc nằm ngoài khả năng cứu giúp của chúng ta. Họ có thể tự xoay sở được, chúng ta mới là những kẻ bị kẹt.
Và Wylan hiểu ra họ đang gặp rắc rối đến mức nào, vì Nina không cãi nữa. Chị chỉ vùi mặt vào tay và im lặng.
“Họ sẽ ổn cả thôi,” Inej lên tiếng và vòng tay qua vai Nina. “Anh ấy cũng thế.” Nhưng cử chỉ của Inej khá ngập ngừng, và Wylan có thể thấy máu trên quần áo cô.
Sau đó không ai nói tiếng nào. Kaz và Rotty lâu lâu mới khua mái chèo, đưa họ vào những con kênh hẹp và yên tĩnh, thả trôi con thuyền mỗi khi có thể, cho tới khi họ đi vòng qua một khúc quanh gần Schoonstraat và Kaz nói, “Dừng lại. Anh và Rotty thu mái chèo, đưa con thuyền cập sát bờ kênh, rồi nấp phía sau một chiếc thuyền buôn đồ sộ. Không rõ chiếc thuyền kia bán gì, vì nó đã khép chặt cửa nẻo để bảo vệ hàng hoá.
Phía trước, Wylan có thể trông thấy các thị tuần đang kéo quân qua một cây cầu, hai chiếc thuyền của họ chặn đứng lối đi qua gầm cầu.
“Họ đang lập các chốt chặn,” Kaz bảo.
Có nhóm bỏ lại con thuyền để lên bờ đi bộ.
Wylan biết họ đang đến một nơi trú ẩn an toàn khác, nhưng chính Kaz đã nói: Không có nơi nào an toàn cả. Họ có thể trốn ở đâu đây? Pekka Rollins đang bắt tay với cha của Wylan. Hai người có thể kiểm soát cả nửa Ketterdam này. Cậu sẽ bị tóm cổ. Và rồi sao nữa? Sẽ không ai tin cậu là con trai của Jan Van Eck. Wylan Van Eck có thể bị cha đẻ coi thường, nhưng vẫn có những quyền hạn mà không một tên tội phạm người Shu nào với tới được. Liệu cậu có bị tống vào Cổng Địa Ngục không? Liệu cha cậu có tìm được cách để trừ khử cậu hay không?
Khi họ rời xa khu vực nhà xưởng và Barrel, việc tuần tra cũng thưa thớt hẳn, và Wylan nhận ra thị tuần hẳn đang dồn lực vào những địa bàn nhiều tai tiếng nhất. Tuy vậy, cả nhóm vẫn thay đổi lộ trình liên tục, luồn lách qua những ngõ hẻm mà Wylan chưa từng biết tới, đôi lúc còn đi vào những cửa hiệu trống không ở tầng dưới của các toà nhà bỏ hoang để chui ra con phố kế tiếp. Cứ như thể Kaz có một tấm bản đồ bí mật cho thấy những địa điểm bị quên lãng của Ketterdam.
Jesper có đang đợi ở nơi họ sắp đến không? Hay anh đang bị thương và đổ máu trên mặt sàn của nhà mồ mà không có ai tiếp cứu? Wylan từ chối tin vào điều đó. Định mệnh càng nghiệt ngã, Jesper càng kiên cường, cậu còn nhớ lời năn nỉ của anh với ông Colm. Con biết mình đã phụ lòng bố. Nhưng hãy cho con một cơ hội nữa. Đã bao lần Wylan nói điều tương tự như thế với cha mình và hi vọng rằng mình sẽ làm được? Jesper phải sống sót. Cả bọn phải sống.
Wylan nhớ lại lần đầu tiên mình nhìn thấy anh chàng thiện xạ. Nom anh như một sinh vật đến từ thế giới khác, mặc đồ xanh chuối và vàng chanh, sải chân dài ngoẵng, như thể mỗi bước đi tuôn ra từ một cái chai thít cổ.
Vào đêm đầu tiên tại Barrel, Wylan lang thang qua những con phố, chắc mẩm mình sắp bị cướp, răng va vào nhau lập cập vì lạnh. Cuối cùng, khi da cậu chuyển sang màu tím tái và những ngón tay mất hết cảm giác, cậu đã huy động toàn bộ dũng khí để hỏi một người đàn ông đứng hút tẩu trên bậc thềm nhà mình, “Ông có biết ở đâu có phòng cho thuê không ạ?”
“Cái biển ‘còn phòng’ lù lù ngay kia,” ông ta đáp và dùng cái tẩu chỉ sang phía bên kia đường. “Mày bị mù à?”
“Chắc tại cháu không để ý,” Wylan nói.
Nhà trọ bẩn thỉu nhưng được cái rất rẻ. Wylan thuê một căn phòng với giá mười kruge và trả thêm tiền để tắm nước nóng. Cậu biết mình cần phải tằn tiện, nhưng nếu bị viêm phổi thì vấn đề cậu đối mặt sẽ không chỉ là sự túng thiếu. Cậu mang cái khăn tắm nhỏ xíu vào buồng tắm ở cuối hành lang và tắm gội nhanh chóng. Mặc dù nước đủ nóng, cậu thấy sợ khi phải lom khom ở tình trạng trần như nhộng trong một căn buồng không có chốt cửa. Cậu đã cố vắt khô quần áo hết mức có thể, nhưng chúng vẫn còn ẩm khi cậu khoác lên người.
Wylan trải qua đêm đó trên một tấm nệm mỏng như giấy, mắt nhìn trân trối trần nhà, tai lắng nghe những tiếng động của nhà trọ. Ở kênh Geld, đêm yên tĩnh đến nỗi người ta có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ vào vách của nhà thuyền, nhưng tại đây mọi thứ tưởng như đang ở giữa trưa. Âm nhạc tràn vào qua ô cửa sổ cáu bẩn. Mọi người nói cười, đập cửa. Cặp đôi ở căn phòng phía trên đang cãi nhau. Cặp đôi ở căn phòng phía dưới rõ ràng đang làm chuyện khác.
Wylan đưa ngón tay lên sờ những vết bầm trên cổ và nghĩ, Giá như mình có thể gọi một tách trà. Đó là lúc cậu bắt đầu hốt hoảng. Cậu có thể thảm hại tới mức nào đây? Cha cậu đã tìm cách giết cậu. Gần như không xu dính túi, cậu đang nằm trên một cái giường nồng mùi hoá chất được người ta dùng để đuổi mạt nệm. Cậu nên vạch ra một kế hoạch, thậm chí ủ mưu báo thù, cố gắng tập trung tâm trí và những nguồn lực của mình. Nhưng cậu đang làm cái gì đây? Ao ước gọi một tách trà. Có thể cậu không được hạnh phúc trong ngôi nhà của cha, nhưng cậu chưa từng phải làm việc vì bất cứ điều gì. Cậu có kẻ hầu người hạ, có những bữa ăn nóng sốt và quần áo sạch. Cho dù thứ cần có để sống sót ở Barrel là gì, Wylan biết mình không có nó.
Trong lúc nằm đó, Wylan cố tìm một lời giải thích cho chuyện đã xảy ra. Nhất định Miggson và Prior là những kẻ chịu trách nhiệm, cha cậu không hề hay biết về dự định của bọn họ. Hoặc giả họ đã hiểu lầm về mệnh lệnh của ông. Đó chỉ là một sai lầm khủng khiếp. Wylan đứng dậy và thò tay vào trong túi áo khoác ẩm ướt. Giấy tiếp nhận cậu vào trường nhạc ở Belendt vẫn còn đó.
Ngay khi lôi cái phong bì dày ra, cậu đã biết cha cậu là người chủ mưu. Cái phong bì đã bị ngấm nước và bốc mùi, nhưng mầu sắc vẫn còn tươi rói. Không có một vết mực nào thấm ra từ tài liệu bên trong. Wylan mở phong bì. Những tờ giấy ướt đã dính bết vào nhau. Cậu cẩn thận tách rời từng tờ. Toàn bộ là những tờ giấy trắng. Cha cậu thậm chí còn không buồn ngụy tạo tài liệu giả. Ông ta biết cậu sẽ không tìm cách đọc chúng, và thằng con khờ khạo của ông ta sẽ không bao giờ nghi ngờ cha mình. Đồ thảm hại.
Wylan sợ hãi ở lì trong nhà trọ hai ngày. Nhưng vào sáng ngày thứ ba, cậu đói đến nỗi mùi khoai tây chiên bốc lên từ dưới đường đã lôi cậu ra khỏi sự an toàn của căn buồng. Cậu mua một túi giấy đầy khoai chiên và ăn ngấu nghiến đến nỗi bị bỏng lưỡi. Rồi cậu bắt mình đi dạo.
Wylan chỉ có đủ tiền để thuê phòng trọ thêm một tuần lễ, thậm chí còn ít hơn nếu cậu dự định ăn uống, cậu cần tìm việc làm, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Cậu không đủ to lớn và khoẻ mạnh để làm việc trong các kho hàng hoặc bến bãi. Những công việc nhẹ nhàng hơn thì đòi hỏi phải biết đọc. Có khi nào một trong số các sòng bạc hoặc nhà chứa cần nhạc công chơi nhạc trong phòng tiếp khách không nhỉ? Wylan vẫn còn cây sáo. Cậu đi tới đi lui trong khu Đông Stave và những con phố nhỏ sáng đèn của nó. Khi trời bắt đầu tối, cậu quay về nhà trọ, hoàn toàn chán nản. Người đàn ông ngậm tẩu vẫn đứng trên thềm nhà, phả khói. Wylan đoán ông ta không bao giờ rời khỏi đó.
“Cháu đang tìm việc làm,” Wylan nói với ông ta. “Ông có biết ai đang cần thuê người không ạ?”
Người đàn ông nhìn cậu qua làn khói thuốc. “Thứ công tử bột như cậu chắc sẽ kiếm được khá tiền ở Tây Stave đấy.”
“Công việc đàng hoàng ấy ạ.”
Người đàn ông phá lên cười cho đến khi bật ho, nhưng sau đó ông ta cũng chỉ cho cậu đi về phía nam, tới khu xưởng thuộc da.
Wylan được trả một khoản thù lao bèo bọt cho công việc trộn màu và vệ sinh bể nhuộm. Các công nhân khác chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, cùng một số thằng con trai gầy gò như cậu. Họ quá mệt mỏi và ốm yếu vì hoá chất nên nói rất ít và chẳng động chân tay vào chuyện gì khác ngoài công việc và nhận tiền thù lao. Mọi người không được trang bị khẩu trang và găng tay. Wylan gần như chắc chắn cậu sẽ chết vì ngộ độc trước khi có dịp bận tâm về nơi mình sẽ đi với số tiền còm cõi kiếm được. Vào một buổi chiều nọ, Wylan nghe trưởng nhóm thợ nhuộm phàn nàn rằng họ bị hao hụt hàng lít thuốc nhuộm do bay hơi khi lò quá nóng. Ông ta chửi rủa về chi phí đã tiêu tốn cho hai người để lo liệu chuyện đó mà vẫn không thay đổi được gì mấy.
Wylan ngần ngừ, rồi đề nghị thêm nước biển vào trong bồn thuốc nhuộm.
“Việc quái gì tao phải làm thế chứ?” Trưởng nhóm thợ nhuộm hạch hỏi.
“Nó sẽ làm tăng nhiệt độ sôi ạ,” Wylan đáp, tự hỏi liệu việc mình lên tiếng có phải là ý hay không. “Thuốc nhuộm sẽ cần nhiệt độ cao hơn để sôi, vậy nên hao hụt do bay hơi sẽ ít hơn. Ông phải thay đổi công thức do nước muối đặc nhanh và cần cọ rửa bồn thường xuyên hơn vì muối là chất ăn mòn.”
Trưởng nhóm thợ nhuộm chỉ nhổ toẹt nhúm jurda trong miệng xuống sàn và phớt lờ Wylan. Nhưng vào tuần lễ sau đó, họ đã thử cho nước biển vào một trong các bồn thuốc nhuộm. Sau đó vài ngày, họ pha nước biển vào tất cả các bồn thuốc nhuộm, và ông trưởng nhóm bắt đầu tìm tới Wylan với nhiều thắc mắc hơn. Làm thế nào họ nhuộm màu đỏ nhưng không khiến da bị cứng? Làm thế nào rút ngắn thời gian nhuộm và làm khô? Cậu có thể chế ra một loại nhựa để giúp cho màu nhuộm không bị thôi được không?
Sau đó một tuần, khi Wylan đang đứng ở các bể nhuộm với mái chèo gỗ, choáng váng và ràn rụa nước mắt vì thuốc nhuộm, trong đầu tự hỏi liệu cậu có nên yêu cầu tăng lương vì đã giúp đỡ trưởng nhóm không, thì một anh chàng tiến lại gần. Vóc dáng lêu nghêu và nước da sẫm màu của người Zemeni, trông anh chẳng ăn nhập gì với quang cảnh của xưởng nhuộm. Không chỉ vì anh mặc chiếc áo gilet xanh chuối và quần dài vàng chanh, mà vì ở anh toát lên sự khoan khoái, như thể anh không ở trong một cái xưởng nhuộm bần cùng hôi hám, mà là tại một bữa tiệc anh rất nóng lòng muốn gia nhập. Mặc dù gầy gò, cơ thể anh di chuyển với một sự linh hoạt và duyên dáng nhất định. Ông trưởng nhóm thợ nhuộm không thích có người lạ đi vào xưởng, nhưng lại không nói tiếng nào trước anh chàng giắt súng ngang hông ấy, mà chỉ nhấc nhẹ chiếc mũ một cách trân trọng rồi nhanh chóng bỏ đi.
Suy nghĩ đầu tiên của Wylan là anh chàng Zemeni có đôi môi hoàn hảo nhất cậu từng thấy. Ý nghĩ thứ hai là cha cậu lại cử ai đó đến để giết cậu. Cậu ghì lấy cái mái chèo. Liệu anh ta có bắn cậu ngay giữa thanh thiên bạch nhật không? Người ta có làm như thế không?
Nhưng anh ta chỉ nói, “Nghe bảo cậu khá rành về hoá học.”
“Gì cơ? Tôi… vâng. Chút chút,” Wylan lắp bắp.
“Chỉ chút chút thôi à?”
Wylan có linh cảm câu trả lời của mình sẽ rất quan trọng. “Tôi có kiến thức.” Cậu đã từng được dạy các môn khoa học và toán, cậu học rất chuyên cần với hi vọng chúng sẽ bằng cách nào đó bù đắp cho những khiếm khuyết khác của mình.
Anh chàng đưa cho Wylan một tờ giấy được gấp lại. “Vậy thì tới địa chỉ này sau giờ làm việc vào tối nay. Bọn tôi có thể cho cậu một công việc.” Anh nhìn quanh, như thể vừa để ý mấy cái bồn thuốc nhuộm và tốp thợ xanh mét đang khom người bên chúng. “Một công việc thực thụ.”
Wylan trân trối nhìn tờ giấy. Một mớ bòng bong những chữ cái trước mắt cậu. “Tôi… tôi không biết chỗ này ở đâu.”
Anh chàng thở hắt ra. “Cậu không phải người ở đây, đúng không?” Wylan gật đầu xác nhận. “Tốt thôi. Tôi sẽ đến đón cậu, bởi vì rõ ràng là tôi chẳng có chuyện gì làm để giết thời gian ngoài việc đi hái hoa quanh thành phố. Wylan, đúng không?” Wylan gật đầu. “Wylan gì?”
“Wylan… Hendriks.”
“Cậu biết nhiều về chất nổ chứ, Wylan Hendriks?”
“Chất nổ á?”
“Uỳnh, oàng, bùm.”
Wylan không biết anh chàng kia muốn nói điều gì, nhưng cậu có cảm giác nếu thừa nhận như vậy thì sẽ là một sai lầm trầm trọng. “Tất nhiên,” cậu đáp với tất cả sự tự tin huy động được.
Anh chàng nhìn cậu với ánh mắt hoài nghi. “Để rồi xem. Ra đứng trước cổng lúc sáu hồi chuông, và không mang súng đạn, trừ phi cậu muốn rắc rối.”
“Tất nhiên là không.”
Anh chàng kia đảo tròn đôi mắt xám rồi lẩm bẩm. “Hẳn là Kaz bị điên rồi.”
Đúng sáu giờ, Jesper xuất hiện và đưa Wylan tới một cửa tiệm bán mồi câu trong khu Barrel. Wylan khá bối rối với bộ quần áo nhàu nhĩ của mình, nhưng đây là bộ duy nhất mà cậu có, và nỗi sợ bị rơi vào một cái bẫy do cha mình giăng ra khiến cậu không nghĩ tới nó nữa. Ở phòng trong của tiệm, cậu gặp Kaz và Inej. Họ nói là cần bom sáng và một thứ gì đó mạnh hơn. Wylan đã từ chối.
Tối hôm đó, Wylan quay về nhà trọ và thấy lá thư đầu tiên. Những chữ duy nhất mà cậu nhận ra là tên của người gửi: Jan Van Eck.
Cậu thức cả đêm, chắc mẩm Prior sẽ phá tung cửa xông vào và kẹp cánh tay hộ pháp quanh cổ mình bất cứ lúc nào. Cậu nghĩ đến chuyện chạy trốn, nhưng tiền trọ còn thiếu trước hụt sau, lấy đâu ra mà mua vé tàu xe đi khỏi Ketterdam. Chưa kể cậu chẳng có hi vọng gì ở thôn quê. Sẽ chẳng có ai thuê cậu làm công việc đồng áng. Sáng hôm sau, cậu đến gặp Kaz, và đêm đó, cậu chế quả bom đầu tiên cho băng Cặn Bã. Cậu biết việc mình làm là phi pháp, nhưng vài giờ chế bom mang lại cho cậu số tiền nhiều hơn cả tuần lễ cặm cụi trong xưởng thuộc da.
Những lá thư từ cha cậu tiếp tục được gửi đến. Mỗi tuần một lần, có khi hai lần. Đó có phải là những lời đe doạ? Hay là mắng mỏ? Wylan cất chúng thành một chồng dưới nệm, và thỉnh thoảng trong đêm tối, cậu dường như có thể cảm thấy mực thấm qua những trang giấy, qua lớp nệm để xuyên vào tim cậu như một thứ chất độc hắc ám.
Tuy nhiên, theo thời gian, càng làm việc cho Kaz, cậu càng cảm thấy bớt sợ hãi. Cậu sẽ có tiền, rời khỏi Ketterdam, và không bao giờ nói ra cái họ Van Eck lần nữa. Và nếu như cha cậu quyết định thủ tiêu cậu trước lúc đó thì Wylan cũng đành chịu. Quần áo cậu đã rách rưới hết cả. Cậu gầy đến mức phải đục lỗ mới trên sợi dây lưng. Nhưng cậu thà bán mình vào nhà chứa ở Tây Stave còn hơn là cầu xin sự thương hại của cha.
Lúc đó Wylan không nhận ra rằng Kaz đã biết chân tướng cậu ngay từ đầu. Tay Nhám điều tra về bất cứ người nào đến cư ngụ ở Barrel, và anh ta đã đặt cậu vào sự bảo vệ của băng Cặn Bã, tin tưởng rằng một ngày nào đó cậu thiếu gia giàu có sẽ trở nên hữu dụng.
Wylan không mảy may nghi ngờ về lí do Kaz tìm đến với mình, nhưng cậu cũng biết mình sẽ không sống sót lâu đến thế nếu không có sự giúp đỡ của anh ta. Ngoài ra, Kaz không bận tâm chuyện cậu không biết đọc. Anh ta và những người khác trêu chọc cậu, nhưng họ cho cậu cơ hội để chứng tỏ bản thân. Họ trân trọng những thứ cậu làm được, thay vì trừng trị cậu bởi những chuyện cậu không thể thực hiện.
Wylan tin rằng Kaz có thể giúp cậu trả thù cho mẹ. Cậu tin rằng bất chấp sự giàu có và sức ảnh hưởng của Jan Van Eck, băng đảng này - băng đảng của cậu - có thể đối đầu với ông ta. Nhưng giờ đây, cha cậu đang vươn tay để trừng trị cậu một lần nữa.
Quá nửa đêm họ mới đến được trung tâm tài chính. Đó là một trong những khu vực giàu có nhất của Ketterdam, nằm cách không xa sàn giao dịch và Toà thị chính. Ở đây sự hiện diện của cha cậu rõ rệt hơn, và Wylan tự hỏi tại sao Kaz lại đưa mọi người đến chỗ này. Kaz dẫn họ đi vào một ngõ hẻm nằm sau lưng một toà nhà lớn. Một cánh cửa mở ra tại đó, và họ tiến vào lối cầu thang bộ ôm vòng quanh buồng thang máy đồ sộ. Cả bọn chui vào trong thang máy. Rotty ở lại phía sau, chắc là để canh chừng lối vào. Cửa thang máy đóng lại, họ đi lên mười lăm tầng lầu để tới tầng trên cùng của toà nhà. Tại đó, họ bước vào một hành lang ốp gỗ bóng loáng, trần sơn màu tím nhạt.
Chúng ta đang ở trong một khách sạn, Wylan nghĩ thầm. Ban nãy là cửa vào dành cho người phục vụ và thang máy của nhân viên.
Họ gõ một cánh cửa hai tấm trắng phau. Ông Colm Fahey ra đón họ trong bộ đồ ngủ dài trùm thêm chiếc áo khoác. Họ đang ở Geldrenner.
“Những người khác đang ở bên trong,” ông nói với giọng run run.
Ông Colm không hỏi han gì mà chỉ cho họ đường tới phòng tắm và rót một tách trà cho bản thân, trong lúc cả bọn dây bùn ra tấm thảm tím. Khi Matthias trông thấy Nina, anh bật dậy khỏi chiếc sô pha màu cà tím và ôm chầm lấy chị.
“Bọn anh không thể vượt qua các chốt chặn để đến Bãi Ngọt,” anh nói. “Anh đã sợ điều tồi tệ nhất.”
Và rồi tất cả bọn họ ôm chầm lấy nhau, Wylan kinh hãi nhận ra mắt mình ngấn lệ. Cậu vội chớp mắt để xua chúng đi. Cậu không muốn Jesper chứng kiến mình khóc một lần nữa. Người ngợm anh chàng thiện xạ dính đầy bồ hóng và bốc mùi khét lẹt, nhưng đôi mắt anh long lanh giống như mỗi lần được chiến đấu. Tất cả những gì Wylan muốn lúc này là được đứng gần anh hết mức có thể, và biết anh vẫn bình an.
Cho đến hiện tại, Wylan vẫn chưa ý thức được mọi người có ý nghĩa như thế nào đối với mình. Cha cậu chắc sẽ cười khẩy với đám côn đồ trộm vặt, chiến binh nửa mùa và con bạc khát nước này. Nhưng họ là những người bạn đầu tiên của cậu, những người bạn duy nhất, và Wylan biết cho dù có phải lựa chọn từ hàng ngàn người bạn, cậu vẫn sẽ chọn họ.
Chỉ có Kaz đứng cách xa cả nhóm, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ xuống những đường phố đen ngòm phía dưới.
“Kaz,” Nina lên tiếng. “Có thể anh không mừng rỡ vì chúng tôi toàn mạng, nhưng chúng tôi đều mừng vì anh còn sống đấy. Lại đây nào!”
“Kệ anh ấy đi,” Inej nói khẽ.
“Thánh thần ơi, Bóng ma,” Jesper thốt lên. Cô bị thương rồi.
“Chúng ta có nên gọi bác sĩ không?” ông Colm hỏi.
“Không!” Cả nhóm đồng thanh đáp.
“Tất nhiên là không rồi,” ông Colm nói. Tôi có nên gọi cà phê không?”
“Có ạ,” Nina đáp.
Ông gọi cà phê, bánh waffle, cùng một chai brandy, và trong lúc chờ đợi, Nina nhờ mọi người đi tìm kéo để chị cắt khăn tắm khách sạn làm băng gạc. Ngay khi một cây kéo được tìm thấy, chị lập tức đưa Inej vào trong phòng tắm để xem xét các vết thương.
Tiếng gõ cửa vang lên khiến mọi người sững sờ, nhưng đó chỉ là người phục vụ. Ông Colm ra mở cửa và nhất quyết bảo rằng mình có thể tự xoay sở với xe đồ ăn, để chị ta không thể trông thấy những người khách lạ trong phòng. Ngay khi cửa phòng đóng lại, Jesper vội lao đến giúp bố bưng chiếc khay bạc chất đầy đồ ăn và một chồng đĩa sứ mỏng tang. Wylan đã không được ăn trên những chiếc đĩa như thế kể từ lúc rời nhà. Cậu nhận ra Jesper đang mặc áo của bố: nó quá rộng ở phần vai và tay áo thì lại quá ngắn.
“Đây là đâu vậy?” Wylan hỏi, mắt nhìn quanh căn phòng được trang trí tuyền một màu tím.
“Ketterdam Suite, bác nghĩ thế,” ông Colm đáp và đưa tay gãi gáy. “Nó đẹp hơn hẳn căn phòng trọ của bác ở quận Đại học.”
Nina và Inej đã bước ra khỏi phòng tắm. Nina lấy một đĩa đầy đồ ăn và buông mình xuống ghế cạnh Matthias. Chị bẻ đôi cái bánh waffle rồi cắn một miếng to, ngoe nguẩy những ngón chân một cách sung sướng.
“Xin lỗi nhé, Matthias,” chị nói lúng búng vì chỗ thức ăn đầy trong miệng. “Em đã quyết định ra đi với bố của Jesper. Em nghiện những thức ăn ngon lành của bác ấy rồi.”
Inej đã cởi áo ngoài và chỉ mặc áo chẽn chần bóng, phơi trần hai cánh tay. Những dải khăn được quấn quanh vai, hai cẳng tay, đùi phải và ống chân trái của cô.
“Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra với cô vậy?” Jesper hỏi Inej trong lúc đưa cho bố một tách cà phê đặt trên chiếc đĩa lót mỏng manh.
Inej ngồi thịch xuống một chiếc ghế bành cạnh chỗ Kuwei đang ngồi dưới sàn. “Gặp gỡ bạn mới.”
Jesper buông mình xuống sô pha, Wylan cũng ngồi vào một chiếc khác với đĩa bánh đặt trên đầu gối. Trong phòng ăn có bàn ghế đàng hoàng, nhưng dường như không ai trong số họ quan tâm. Chỉ có ông Colm ngồi ở đó với tách cà phê và chai rượu bên cạnh. Kaz tiếp tục đứng bên cửa sổ, và Wylan tự hỏi thứ anh nhìn thấy có gì mà hấp dẫn đến vậy.
“Rồi,” Jesper vừa nói vừa cho đường vào tách cà phê của mình. “Ngoài chuyện Inej có bạn mới, chuyện quái gì đã xảy ra ngoài kia vậy?”
“Xem nào,” Nina đáp. “Inej đã rơi xuống từ độ cao hai mươi tầng lầu.”
“Bọn tôi đã khoan một lỗ to tướng trên trần phòng ăn của cha tôi,” Wylan lên tiếng.
“Nina có thể dựng dậy người chết,” Inej buột miệng.
Chiếc tách của Matthias va vào đĩa lót. Trông nó thật tức cười trong bàn tay hộ pháp của anh.
“Chị không dựng họ dậy. Ý chị là, họ đứng dậy, nhưng không phải là họ sống lại. Chị không nghĩ thế. Chị cũng không chắc nữa.”
“Cô nói nghiêm túc đấy à?” Jesper hỏi lại.
Inej gật đầu. “Tôi không thể giải thích được, nhưng tôi đã chứng kiến tận mắt.”
Trán Matthias nhăn lại. “Lúc chúng ta ở trong khu sứ quán của Ravka, em cũng đã điều khiển được những mảnh xương.”
Jesper nhấp một ngụm cà phê. “Cả chuyện ở ngôi nhà bên hồ nữa. Có phải cô đã điều khiển đám mây bụi đó không?”
“Bụi nào cơ?” Inej thắc mắc.
“Nina không đơn thuần đánh gục một vệ quân, mà làm anh ta ngạt thở bằng một đám mây bụi.”
“Có một nghĩa trang gia đình ở cạnh ngôi nhà bên hồ đó,” Wylan nhớ đến mảnh đất kín cổng cao tường nằm cạnh hàng rào phía tây. “Nếu như thứ bụi đó là… xương thì sao? Những gì còn lại khi người ta tan rã ấy?”
Nina đặt đĩa thức ăn xuống. “Thôi đi, mấy người làm tôi hết ngon miệng rồi đó.” Rồi chị lại cầm nó lên. “Gần như thôi.”
“Chính vì vậy nên anh mới thắc mắc về chuyện parem làm biến đổi năng lực của Grisha,” Kuwei nói với Matthias.
Nina nhìn cậu ta. “Nó có thể à?”
“Tôi không biết. Chị mới chỉ dùng nó một lần. Chị đã qua được giai đoạn cai thuốc. Chị là một trường hợp hiếm gặp.”
“May cho tôi ghê.”
“Nó tệ vậy sao?” Matthias hỏi lại.
Nina nhặt vài mẩu bánh trong lòng và bỏ vào trong cái đĩa của mình. “Theo lời của một núi cơ bắp tóc vàng nào đó, thì nó phi tự nhiên.” Giọng chị đã mất đi sự vui vẻ hồn hậu. Nina buồn bã ra mặt.
“Chắc là thế rồi,” Matthias nói. “Chẳng phải các Tâm Y được biết đến như là Đội ngũ Điều khiển Sự sống và Cái chết đó sao?”
“Đây không phải là cách hoạt động của năng lực Grisha.”
“Nina,” Inej nhẹ nhàng lên tiếng. “Parem đã đưa chị tới bờ vực cái chết. Có lẽ chị đã mang theo thứ gì đó trở về cùng với mình.”
“Thế thì đó là một kỉ vật đáng sợ.”
“Hoặc là Djel đã tắt một nguồn sáng và bật một nguồn khác,” Matthias đáp.
Nina liếc xéo anh chàng. “Anh bị đập vào đầu à?”
Matthias đưa tay ra nắm lấy tay Nina. Tự dưng Wylan cảm thấy mình đang xâm phạm một cảnh hết sức riêng tư. “Anh rất mừng là em còn sống,” Matthias nói. “Anh rất mừng là em còn ở bên anh. Và đã chịu ăn uống.”
Nina ngả đầu lên vai anh chàng. “Anh ngon hơn bánh waffle rồi đấy, Matthias Helvar.”
Một nụ cười nhẹ xuất hiện trên môi anh chàng người Fjerda. “Đừng có nói những điều không thật lòng, tình yêu của anh.”
Có tiếng gõ cửa nhẹ vang lên. Mọi người lập tức chộp lấy vũ khí. Ông Colm cứng người trên chiếc ghế.
Kaz ra hiệu cho ông ngồi yên tại chỗ trong lúc anh khẽ khàng tiến ra cửa. Anh nhòm qua lỗ quan sát.
“Là Specht,” anh nói. Cả bọn thở phào, và Kaz mở cửa.
Họ im lặng quan sát trong lúc Kaz và Specht thì thầm trao đổi nhanh điều gì đó, rồi Specht gật đầu và đi về phía thang máy.
“Tầng này có lối tiếp cận tháp đồng hồ không ạ?” Kaz hỏi ông Colm.
“Ở cuối hành lang ấy,” ông già đáp. “Tôi chưa từng lên đó. Cầu thang dốc lắm.”
Không nói một lời, Kaz rời phòng. Mọi người nhìn nhau trân trối suốt một lúc lâu trước khi đi theo anh, rồng rắn đi ngang qua chỗ ông già đang quan sát cảnh tượng với đôi mắt mệt mỏi.
Trong lúc đi trên hành lang, Wylan nhận ra toàn bộ tầng này của khách sạn đều phục vụ cho sự xa xỉ của Ketterdam Suite. Nếu cậu phải chết thì đây không phải là nơi tệ hại nhất để trải qua đêm cuối cùng.
Từng người một, họ trèo lên một cầu thang xoắn bằng thép rồi chui qua một cửa lật. Gian phòng trên đỉnh rộng rãi và khá lạnh, bị choán chỗ gần hết bởi cỗ máy của một cái đồng hồ cực lớn. Bốn mặt của nó nhìn ra Ketterdam và bầu trời xám xịt.
Ở hướng nam, một vệt khói bốc lên từ đảo Mạng Đen. Nhìn về hướng đông bắc, Wylan có thể thấy con kênh Geld, tàu thuyền chữa cháy và lực lượng thị tuần đang bao quanh khu vực gần nhà cha cậu. Cậu còn nhớ vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt của ông ta khi họ đáp xuống ngay giữa bàn ăn. Nếu không quá hoảng sợ thì cậu hẳn đã bật cười rồi. Sự hổ thẹn nuốt chửng con người ta. Giá như họ châm lửa đốt luôn phần còn lại của ngôi nhà đó.
Tít phía đằng xa, các bến cảng ken đầy tàu xe của thị tuần. Ketterdam ngập chìm trong sắc tím, như thể mắc một dịch bệnh.
“Specht nói họ đã đóng hải cảng và ngừng mọi tuyến đường thuỷ, Kaz thông báo. “Họ đã phong toả Ketterdam. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.”
“Ketterdam sẽ không chịu đâu,” Inej nói. “Mọi người sẽ nổi loạn.”
“Họ sẽ không đổ tội cho Van Eck.”
Wylan cảm thấy nôn nao. “Họ đổ tội cho chúng ta.”
Jesper lắc đầu. “Ngay cả khi cài cắm thị tuần trên mọi con đường, họ cũng không đủ nhân lực để phong toả thành phố và tìm kiếm chúng ta.”
“Vậy à?” Kaz hỏi. “Nhìn lại đi.”
Jesper tiến đến ô cửa sổ phía tây, nơi Kaz đang đứng. “Lạy các thánh và bà dì Eva,” anh nói một hơi.
“Chuyện gì vậy?” Wylan hỏi trong lúc hai người quan sát qua lớp kính.
Một đám đông đang di chuyển về phía đông, từ khu Barrel băng qua quận Zelver.
“Bạo loạn à?” Inej hỏi.
“Giống một cuộc diễu hành nhiều hơn,” Kaz đáp.
“Tại sao các thị tuần không chặn họ lại?” Wylan hỏi trong lúc cơn lũ người thoải mái băng qua các cây cầu, qua từng chốt chặn. “Sao họ lại để chúng đi qua?”
“Rất có thể là vì cha cậu đã bảo họ làm thế,” Kaz đáp.
Khi đám đông tiến đến gần hơn, Wylan nghe thấy tiếng reo hò và tiếng trống. Đúng là nghe giống như một cuộc diễu hành thật. Đám đông tràn qua cầu Zelver, ùa qua khách sạn trong lúc tiến về phía quảng trường phía trước Sàn giao dịch. Wylan nhận ra băng của Pekka Rollins dẫn đầu đoàn người. Kẻ đi đầu khoác một bộ da sư tử với một cái vương miện bằng vàng giả gắn trên bờm.
“Chim Cắt kìa,” Inej nói và chỉ tay về phía sau băng Kim Sư. “Cả tụi Đầu Gấu nữa.”
“Chó săn của Harley,” Jesper điểm danh, “và bọn Hắc Thủ.”
“Tất cả bọn chúng,” Kaz nói.
“Cái đó có nghĩa là gì vậy?” Kuwei hỏi. “Dải băng tím ấy?”
Mỗi thành viên trong đám đông phía dưới đều có buộc một dải lụa tím ở bắp tay trái.
“Bọn chúng được trao quyền,” Kaz đáp. “Specht nói tin tức đã lan truyền khắp Barrel. Tin tốt là bây giờ họ muốn bắt sống chúng ta - kể cả Matthias. Tin xấu là họ đã treo thưởng cho cả cặp song sinh người Shu đang đi cùng chúng ta, do vậy khuôn mặt của Kuwei - và của Wylan - giờ cũng đã xuất hiện trên các nẻo đường.”
“Và Hội đồng Thương buôn chấp nhận chuyện này sao?” Matthias thắc mắc. “Nếu bọn chúng chuyển sang cướp bóc gây rối thì sao?”
“Không đâu. Rollins biết chuyện mình làm. Nếu thị tuần tìm cách phong toả khu Barrel, các băng đảng sẽ chống lại. Giờ đây bọn chúng không còn ở ngoài vòng pháp luật nữa, và Van Eck có hai đoàn quân, chúng ta bị kẹp ở giữa.
Inej thở gấp.
“Gì vậy?” Wylan hỏi lại, nhưng khi nhìn xuống quảng trường bên dưới, cậu hiểu ra ngay. Nhóm cuối cùng của đoàn người đã xuất hiện. Một người đàn ông lớn tuổi đội mũ gắn lông chim dẫn đầu, và cả đám đang kêu quang quác rất to như những con quạ. Cặn Bã, băng đảng của Kaz. Họ đã quay lưng lại với anh.
Jesper đấm tay vào kính. “Lũ ăn cháo đá bát.”
Kaz không nói gì, anh chỉ quan sát đám đông ùa qua mặt tiền của khách sạn bên dưới, những băng đảng giang hồ đi thành từng cụm đủ màu sắc, vừa chửi rủa lẫn nhau vừa reo hò như thể hôm nay là một ngày hội. Ngay cả sau khi tất cả đã đi qua, tiếng hò reo vẫn vang vọng khắp không gian, có lẽ bọn chúng sẽ tuần hành đến tận Toà thị chính.
“Giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra?” Kuwei thắc mắc.
“Chúng ta sẽ bị săn lùng bởi mọi gã thị tuần và mọi thằng du côn Barrel, cho tới khi bị bắt,” Kaz đáp. “Không có cách nào rời khỏi Ketterdam nữa. Nhất là khi mang theo cậu.”
“Chúng ta có thể chờ đợi được không?” Kuwei hỏi. Ở đây, với bác Fahey?”
“Chờ điều gì?” Kaz hỏi lại. “Chờ ai đó đến giải cứu à?”
Jesper áp đầu vào kính. “Bố tôi. Tôi đã lôi ông ấy vào chuyện này. Ông ấy sẽ bị buộc tội che giấu kẻ gian.”
“Không,” Kuwei đột ngột gào lên. “ Không. Hãy giao nộp tôi cho Van Eck.”
“Tuyệt đối không,” Nina nói.
Kuwei chém tay vào không khí. “Mọi người đã cứu tôi từ tay người Fjerda. Nếu chúng ta không hành động thì trước sau gì tôi cũng bị bắt.”
“Để rồi tất cả chuyện này đổ sông đổ biển à?” Wylan hỏi, ngạc nhiên với sự giận dữ của mình. “Sau tất cả những gì chúng ta đã liều lĩnh? Sau tất cả những gì chúng ta đã vượt qua ở Lâu Đài Băng? Cả những gì mà Inej và Nina đã phải chịu đựng để giải thoát chúng ta nữa?”
“Nhưng nếu tôi nộp mạng, thì mọi người sẽ thoát,” Kuwei nhấn mạnh.
“Mọi chuyện không dễ dàng như thế đâu,” Jesper đáp. “Pekka đã có cơ hội để trừ khử Kaz khi được cả khu Barrel hậu thuẫn, còn Van Eck bảo đảm sẽ không để chúng tôi nhởn nhơ trên đường phố Ketterdam. Chuyện này không còn gói gọn trong việc bắt cậu nữa rồi.”
Kuwei rên lên và ngồi thụp xuống, dựa lưng vào tường. Cậu nhóc liếc nhìn Nina đầy trách móc. “Lẽ ra chị nên giết tôi luôn tại Lâu Đài Băng.”
Nina nhún vai. “Nhưng như vậy thì Kaz sẽ giết tôi rồi Matthias giết Kaz, và tất cả chuyện này sẽ rối tinh rối mù.”
“Tôi không thể tin nổi chúng ta thoát ra khỏi Lâu Đài Băng để rồi bị mắc kẹt ngay tại chính thành phố của mình,” Wylan thốt lên. Chuyện này thật khó tin.
“Ờ,” Jesper nói. “Chúng ta tiêu tùng cả đám thật rồi.”
Kaz vẽ một vòng tròn trên lớp kính bằng một ngón tay đi găng. “Không hẳn. Tôi có thể làm thị tuần dịu lại.”
“Không,” Inej thốt lên.
“Tôi sẽ ra đầu thú.”
“Nhưng Kuwei…” Nina lên tiếng.
“Thị tuần không biết về Kuwei. Họ nghĩ mình đang tìm kiếm Wylan. Tôi sẽ bảo với họ rằng Wylan đã chết. Tôi sẽ nói rằng chính tay tôi đã giết cậu ta.”
“Anh có bị loạn óc không đấy?” Jesper hỏi lại.
“Kaz,” Inej nói. “Bọn họ sẽ đưa anh lên đoạn đầu đài.”
“Họ sẽ phải đưa tôi ra xét xử trước.”
“Cậu sẽ thối rữa trong tù trước khi điều đó xảy ra, Matthias nói. “Van Eck sẽ không đời nào để cậu có cơ hội phát biểu trước toà.”
“Anh thực sự nghĩ họ có buồng giam nào cầm chân được tôi sao?”
“Van Eck thừa biết anh giỏi phá khoá như thế nào,” Inej giận dữ phản bác. “Anh sẽ chết trước khi tới được nhà tù.”
“Chuyện này thật nực cười,” Jesper nhận định. “Anh sẽ không hi sinh vì chúng tôi. Không ai phải hi sinh cả. Chúng ta sẽ chia nhau ra. Chúng ta sẽ đi theo cặp, tìm cách vượt qua các chốt chặn, rồi ẩn nấp ở đâu đó dưới miền quê.”
“Đây là thành phố của tôi,” Kaz nói. “Tôi sẽ không cụp đuôi mà rời bỏ nó.”
Jesper gầm lên bực tức. “Nếu đây là thành phố của anh thì nó còn được bao nhiêu? Anh đã từ bỏ phần hùn của mình ở Quạ Đen và Cảng số Năm. Anh không còn băng nhóm nữa. Cho dù anh có đào thoát được thì Van Eck và Rollins cũng sẽ huy động thị tuần với cả nửa khu Barrel lùng sục anh. Anh không thể chống lại tất cả bọn họ.”
“Để rồi xem.”
“Khỉ thật, Kaz. Anh vẫn luôn nói với tôi như thế nào? Bài đen thì bỏ đi.”
“Tôi đang cho mọi người một lối thoát. Hãy nắm lấy nó.”
“Sao anh lại coi chúng tôi như một đám ranh con chết nhát vậy?”
Kaz quay về phía Jesper. “Anh chính là đứa chỉ chực bỏ chạy, Jesper. Anh chỉ muốn tôi chạy cùng để khỏi cảm thấy tồi tệ về chuyện đó. Luôn miệng nói thích chiến đấu lắm nhưng lúc nào cũng là người đầu tiên bàn tới chuyện chạy trốn.”
“Bởi vì tôi muốn sống.”
“Vì cái gì chứ?” Kaz hỏi, mắt long lên. “Để anh có thể chơi bài tiếp à? Để anh có thể một lần nữa phụ lòng bố và khiến bạn bè thất vọng sao? Anh có nói cho ông ấy biết chính mình là nguyên nhân khiến ông ấy sắp mất trang trại không? Anh có thú nhận với Inej rằng mình chính là nguyên nhân khiến cô ấy suýt mất mạng dưới lưỡi dao của Oomen không? Khiến tất cả chúng ta suýt mất mạng?
Đôi vai Jesper chùng xuống, nhưng anh không bỏ cuộc. “Tôi đã phạm sai lầm. Tôi đã để phần xấu lấn át phần tốt, nhưng lạy các thánh, Kaz à, anh còn bắt tôi phải cầu xin sự tha thứ đến bao giờ nữa đây?”
“Anh nghĩ sự tha thứ của em như thế nào, hả Jordie?”
“Jordie là thằng cha nào vậy?”
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khuôn mặt Kaz đờ ra, một sự bối rối gần như hoảng sợ xuất hiện trong đôi mắt đen của anh - nó đến rồi đi nhanh tới nỗi Wylan tự hỏi liệu cậu có đang tưởng tượng.
“Anh muốn gì ở tôi?” Kaz gằn giọng, vẻ mặt sắt đá và tàn nhẫn hơn bao giờ. “Sự tin tưởng của tôi à? Anh đã có và làm nó vỡ tan tành chỉ vì không thể giữ mồm giữ miệng.”
“Đúng một lần. Thế bao nhiêu lần tôi đã yểm trợ cho anh? Bao nhiêu lần tôi đã làm tốt? Những cái đó không có nghĩa lí gì sao?” Jesper giơ hai tay lên trời. “Tôi không thể cãi thắng được anh. Không ai thắng được anh.”
“Phải đấy. Anh không thể. Anh nghĩ mình là một tay chơi, nhưng anh chỉ là một đứa thất bại bẩm sinh. Đánh đấm. Bài bạc. Trai gái. Anh cứ lao vào cho đến khi thua cuộc, do vậy lần này, hãy biết khôn mà bỏ đi.”
Jesper lao tới trước. Kaz né sang phải, và hai người quấn lấy nhau. Họ đâm sầm vào tường, cụng đầu nhau, buông ra rồi lại đấm đá nhau túi bụi.
Wylan quay sang Inej, hi vọng cô sẽ phản đối, hoặc Matthias tách họ ra, bởi vì ai đó phải làm gì đó. Nhưng những người khác chỉ lùi lại, tạo khoảng trống. Duy có Kuwei tỏ ra đau đớn.
Jesper và Kaz lăn lộn, va vào động cơ đồng hồ, rồi đứng dậy. Đây không phải là một trận chiến, mà là một cuộc ẩu đả xấu xí của những cái thúc chỏ và nắm đấm.
“Ghezen lòng lành, ai đó ngăn họ lại đi!” Wylan tuyệt vọng lên tiếng.
“Jesper không nổ súng,” Nina đáp.
“Kaz cũng không dùng gậy,” Inej nhận định.
“Hai người nghĩ họ không thể giết nhau bằng tay không được à?”
Cả hai đều đã đổ máu - Jesper bị rách môi, còn Kaz rách trán. Áo của Jesper đã trùm một nửa lên đầu anh, trong khi ống tay áo của Kaz cũng tuột chỉ.
Cánh cửa lật mở toang và ông Colm Fahey ló đầu lên. Đôi má hồng hào của ông đỏ au.
“Jesper Llewellyn Fahey, đủ rồi đấy!” Ông quát to.
Jesper và Kaz khựng lại, rồi trước sự kinh ngạc của Wylan, họ buông nhau ra, khuôn mặt tỏ rõ sự ăn năn.
“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” Ông Colm hỏi. “Bố tưởng hai đứa là bạn?”
Jesper đưa tay lên xoa gáy, vẻ mặt trông như chỉ muốn chui tọt qua khe ván sàn. “Bọn con… ơ… bất đồng với nhau.”
“Bố thấy rồi. Bố đã rất kiên nhẫn với tất cả chuyện này, Jesper, nhưng cái gì cũng có giới hạn. Bố muốn con xuống ngay trước khi bố đếm đến mười, nếu không bố sẽ đánh đít đến nỗi con không thể ngồi được suốt hai tuần lễ đấy.”
Cái đầu của ông Colm biến xuống dưới cửa lật. Im lặng bao trùm.
Rồi Nina bật cười khúc khích. “Cậu gặp rắc rối to rồi.”
Jesper nhăn mặt. “Matthias, Nina đã để cho Cornells Smeet sờ mông.”
Nina ngừng cười. “Tôi sẽ bẻ ngược răng cậu từ trong ra ngoài.”
“Chuyện đó là không thể.”
“Tôi vừa dựng dậy người chết. Cậu thực sự muốn cãi tôi hả?”
Inej ngoẹo đầu sang một bên. “Jesper Llewellyn Fahey sao?”
“Im đi,” Jesper nói. “Đó là họ của tôi.”
Inej trịnh trọng nghiêng người. “Sao cũng được, Llewellyn.”
“Kaz?” Jesper ướm lời.
Nhưng Kaz đang nhìn vào khoảng không. Wylan nghĩ cậu biết vẻ mặt này.
“Có phải đó là…” Cậu dò hỏi.
“Mặt ủ mưu á?” Jesper hỏi lại.
Matthias gật gù. “Hẳn rồi.”
“Tôi đã biết phải làm như thế nào,” Kaz nói một cách chậm rãi. “Làm sao để giải thoát Kuwei, đưa các Grisha đi, lấy tiền của chúng ta, hạ Van Eck, và cho gã khốn Pekka Rollins đó tất cả những gì gã xứng đáng.”
Nina nhướn mày. “Hết chưa vậy?”
“Bằng cách nào?” Inej hỏi.
“Bấy lâu nay chúng ta chỉ chơi trò của Van Eck. Chúng ta trốn tránh. Quá đủ rồi. Chúng ta sẽ bày ra một cuộc đấu giá. Giữa thanh thiên bạch nhật.” Anh quay lại đối diện với họ, đôi mắt anh sắc lạnh như mắt cá mập. “Và vì Kuwei quá nóng lòng muốn hi sinh thân mình, cậu ta sẽ là vật đấu giá.”