Chương 14 KAZ
Nina rất mệt, Kaz có thể thấy rõ điều đó. Tất cả bọn họ đều mệt mỏi. Ngay cả anh cũng không có lựa chọn nào khác ngoài nghỉ ngơi sau cuộc ẩu đả. Cơ thể anh đã ngừng nghe lời anh. Anh đã vượt qua một giới hạn vô hình và tắt ngấm. Anh không nhớ mình đã ngủ thiếp đi. Anh không mơ. Một tích tắc trước anh còn đang nằm nghỉ trong căn phòng ngủ nhỏ nhất của dãy phòng hạng sang, xem lại các chi tiết của kế hoạch, tích tắc sau anh đã ở trong bóng tối, hoảng loạn, không biết mình đang ở đâu và làm thế nào lại đến đây.
Khi với tay bật đèn, anh cảm thấy đau nhói. Phải chịu đựng những cái chạm nhẹ của Genya khi chị xem xét các vết thương của anh đúng là khổ sở thật, nhưng lẽ ra anh nên để cho bà chị Thợ May ấy chữa cho mình thêm chút nữa. Anh vẫn còn một đêm dài trước mắt, và kế hoạch đấu giá không giống với bất kì cái gì anh từng làm trước đây.
Thời còn ở trong băng Cặn Bã, Kaz từng nghe và chứng kiến nhiều chuyện, nhưng cuộc đối thoại với Sturmhond ở trong phòng tắm nắng đã vượt qua tất cả những chuyện đó.
Họ đi qua các chi tiết của kế hoạch, những gì họ cần Genya làm, dự kiến của Kaz về kết cục của phiên đấu giá. Anh muốn Sturmhond bắt đầu tham gia ở mức năm mươi triệu và đoán người Shu sẽ phản công bằng những bước giá khoảng chục triệu hoặc hơn. Anh cần bảo đảm sự tham gia của phía Ravka. Một khi cuộc đấu giá được loan báo thì phải tiến hành thôi. Không thể có đường lùi được nữa.
Tay thuyền trưởng khá thận trọng, anh ta hỏi dồn về việc nhóm của Kaz được thuê làm vụ Lâu Đài Băng ra sao, cũng như việc làm thế nào họ tìm ra và giải thoát Kuwei. Kaz cung cấp đủ lượng thông tin để thuyết phục Sturmhond rằng Kuwei chính là con trai của Bo Yul-Bayur, nhưng anh không việc gì phải tiết lộ cụ thể đường đi nước bước cũng như những năng lực thực sự của các thành viên trong nhóm. Ai mà biết được, nhỡ đâu Sturmhond có thứ gì đấy mà một ngày nào đó anh muốn đánh cắp thì sao.
Cuối cùng, Sturmhond vuốt phẳng lại vạt áo choàng màu xanh két của mình và nói, “Thôi được, Brekker, rõ ràng là cậu chỉ làm việc với các sự thật nửa vời và những lời nói dối lộ liễu, nên cậu chính là người phù hợp cho vụ này.”
“Chỉ có một chuyện này,” Kaz nói, xem xét cái mũi gãy và mái tóc đỏ của tay thuyền trưởng. “Trước khi chúng ta cùng dắt tay nhau nhảy khỏi vách đá, tôi muốn biết chính xác người mà tôi đang hợp tác là ai.”
Sturmhond nhướn mày. “Chúng ta chưa từng rong ruổi cùng nhau, cũng chưa từng xẻ áo cho nhau, nhưng tôi nghĩ hai ta đã được giới thiệu với nhau một cách đủ văn minh.”
“Thực ra anh là ai, thuyền trưởng?”
“Đây có phải là một câu hỏi sống còn không?”
“Không một tên trộm nào ăn nói như anh.”
“Cậu nên suy nghĩ cởi mở hơn.”
“Tôi biết con trai của một người giàu có trông như thế nào, và tôi không tin có vị vua nào lại cử một tay thuyền trưởng tầm thường đi xử lí vụ việc nhạy cảm này.”
“Tầm thường,” Sturmhond chế nhạo. “Cậu có được học về chính trị không vậy?”
“Tôi biết cách thương lượng. Anh là ai? Chúng tôi cần được biết sự thật, hoặc nhóm của tôi sẽ rút lui.”
“Sao cậu dám chắc điều đó là khả thi, Brekker? Tôi đã biết kế hoạch của cậu. Tôi đi cùng với hai Grisha huyền thoại nhất thế giới, và tôi chiến đấu cũng không tệ đâu nhé.”
“Còn tôi là thằng giang hồ cống rãnh đã đưa Kuwei Yul-Bo sống sót thoát khỏi Lâu Đài Băng. Hãy nói cho tôi biết anh có bao nhiêu cơ may trước tôi.” Nhóm của anh không thể cạnh tranh lại người Ravka về khoản quần áo và tước hiệu, nhưng Kaz biết mình sẽ đặt cược vào đâu nếu còn tiền.
Sturmhond chắp tay lại sau lưng, và Kaz nhận thấy một sự thay đổi rất nhỏ trong cung cách của anh ta. Đôi mắt Sturmhond không còn ánh lên tia thích thú, lúc này chúng có một sức nặng bất ngờ. Anh ta không thể là một thuyền trưởng tầm thường.
“Xem nào,” Sturmhond lên tiếng, mắt nhìn xuống phố phường Ketterdam bên dưới, “theo giả thiết, tất nhiên rồi, vua Ravka có mạng lưới gián điệp cài sâu trong Kerch, Fjerda và Shu Han, ngài biết một cách chính xác tầm quan trọng của Kuwei Yul-Bo đối với vận mệnh vương quốc mình. Cứ coi như nhà vua không tin tưởng người nào cho cuộc thương lượng ngoại trừ bản thân mình, nhưng ngài cũng biết sẽ nguy hiểm đến thế nào nếu vi hành một cách chính danh trong khi Ravka vẫn còn chưa hết rối ren, bản thân ngài lại không có người nối dõi và sự kế tục vương triều Lantsov chưa hề được bảo đảm.”
“Vậy là theo giả thiết,” Kaz nói, “người ta có thể phải gọi anh là bệ hạ.”
“Hoặc một loạt những danh xưng mĩ miều khác. Theo giả thiết.” Sturmhond nhìn Kaz với ánh mắt thăm dò. “Nhưng làm thế nào cậu biết tôi không phải là người mà tôi xưng danh, Brekker?”
Kaz nhún vai. “Anh nói tiếng Kerch như thể đó là tiếng mẹ đẻ - một thứ bản ngữ phong phú. Anh không ăn nói như một kẻ giao du với đám thuỷ thủ và giang hồ tứ xứ.”
Tay thuyền trưởng hơi nghiêng người, hoàn toàn tập trung vào Kaz. Sự xuề xoà của anh ta đã biến mất, giờ đây trông anh ta như một người có thể điều khiển cả đạo quân. “Cậu Brekker,” anh ta nói. “Hay là Kaz, tôi xin mạn phép gọi cậu như vậy nhé? Tôi đang ở vào một tình thế nhạy cảm. Tôi là vị vua cai quản một quốc gia có ngân khố rỗng tuếch, lưỡng đầu thọ địch. Bên cạnh đấy cũng tồn tại những thế lực bên trong nước tôi có thể tranh thủ sự vắng mặt của tôi để tranh giành quyền lực.”
“Anh đang nói rằng anh sẽ là một con tin tuyệt hảo.”
“Tôi đồ rằng khoản tiền chuộc tôi sẽ ít hơn nhiều so với cái giá dành cho Kuwei. Thật đấy, nó làm tổn thương sâu sắc đến lòng tự trọng của tôi.”
“Trông anh chẳng có vẻ gì là tổn thương cả,” Kaz nói.
“Tôi đã tạo ra Sturmhond hồi còn trẻ, và danh tiếng của anh ta vẫn còn phục vụ tốt cho tôi. Tôi không thể đấu giá Kuwei dưới danh nghĩa nhà vua Ravka. Tôi hi vọng kế hoạch của cậu sẽ diễn ra như cậu hình dung. Nhưng nếu nó không diễn ra như thế, đó sẽ là một thất bại đáng xấu hổ cả về mặt ngoại giao lẫn chiến lược. Tôi tham gia đấu giá với danh nghĩa Sturmhond, hoặc không tham gia. Nếu nó là vấn đề thì…”
Kaz đặt tay lên cây gậy chống. “Chỉ cần anh không tìm cách lừa tôi thì anh tham gia với danh nghĩa bà tiên Istamere tôi cũng mặc.”
“Thật hay khi có các lựa chọn được để ngỏ.” Sturmhond lại nhìn ra thành phố. “Vụ này có thể nào thành công được không, cậu Brekker? Hay tôi đang liều lĩnh với vận mệnh của Ravka và giới Grisha khi tin tưởng vào danh dự cũng như năng lực của một thằng nhóc lẻo mép?”
“Cả hai đều đúng phần nào,” Kaz đáp. “Anh đang liều lĩnh với một đất nước. Chúng tôi đang liều lĩnh với sinh mạng của mình. Có vẻ công bằng.”
Nhà vua Ravka chìa tay ra. “Thoả thuận nhé?”
“Thoả thuận.”
Họ bắt tay nhau.
“Giá mà các hiệp ước có thể được kí kết nhanh chóng như thế này,” Sturmhond nói, cung cách thuyền trưởng đã lại quay về như thể anh ta vừa đeo một chiếc mặt nạ mua ở Tây Stave. “Tôi sẽ đi uống và tắm táp một chút. Người ta chỉ có thể chấp nhận chừng này bùn đất và bụi bẩn là cùng. Như một người kháng chiến từng nói với một hoàng tử, nó không tốt cho làn da.” Anh ta ra vẻ như phủi thứ bụi vô hình trên vạt áo rồi bước ra khỏi phòng tắm nắng.
Kaz vuốt tóc và xốc lại áo xống. Thật khó mà tin một thằng giang hồ cống rãnh lại mới thoả thuận với một nhà vua. Anh nghĩ đến cái mũi gãy đã mang lại cho tay thuyền trưởng diện mạo của một người từng nhiều phen chinh chiến. Theo những gì Kaz biết thì nhà vua của Ravka đúng là đã từng vào sinh ra tử, nhưng chắc hẳn anh ta cũng đã cho Thợ May chỉnh sửa các đường nét khuôn mặt. Thật khó mà ẩn danh khi mặt bạn nằm chình ình trên tờ tiền. Nói cho cùng, cho dù có là vua hay không, Sturmhond cũng là một kẻ lừa đảo thượng hạng, nên tất cả những gì quan trọng lúc này là anh ta và người của anh ta hoàn thành phần việc của mình.
Kaz xem đồng hồ - đã quá nửa đêm, muộn hơn anh muốn. Anh đi tìm Nina, và bị bất ngờ khi thấy Jesper đứng chờ ngoài hành lang.
“Chuyện gì vậy?” Kaz hỏi, trong đầu lập tức nghĩ đến những thứ có thể sai hỏng trong lúc anh đang ngủ.
“Không có gì,” Jesper đáp. “Hay là không nhiều hơn thường lệ.”
“Vậy cậu muốn gì?”
Jesper nuốt nước bọt rồi nói, “Matthias đã đưa hết chỗ parem còn lại cho anh, đúng không?”
“Thì sao?”
“Nếu có chuyện gì xảy ra… người Shu sẽ xuất hiện ở buổi đấu giá, có thể cả bọn Kherguud nữa. Vụ này quá nguy hiểm. Tôi không thể bỏ mặc bố tôi được. Tôi cần parem, như một giải pháp an toàn.”
Kaz đưa mắt dò xét Jesper hồi lâu. “Không.”
“Chết tiệt. Tại sao không chứ?”
Một câu hỏi hợp lí. Đưa parem cho Jesper sẽ là một nước cờ thông minh, một nước đi thuận tiện.
“Bố cậu thương cậu hơn bất kì mảnh đất nào…”
“Nhưng…”
“Tôi sẽ không để cậu biến mình thành kẻ tử vì đạo đâu, Jes. Nếu một trong số chúng ta nằm xuống, tất cả chúng ta sẽ cùng nằm xuống.”
“Đây là lựa chọn của tôi.”
“Nhưng hình như tôi mới là người có quyền quyết định.”
Kaz bỏ đi về phía phòng khách. Anh không muốn tranh cãi với Jesper, nhất là khi không hoàn toàn chắc chắn vì sao mình lại từ chối ngay lập tức.
“Jordie là ai?”
Kaz khựng lại. Anh biết câu hỏi sẽ đến, nhưng việc nghe thấy cái tên của anh trai mình vẫn quá đỗi khó khăn với anh. “Một người mà tôi đã tin tưởng.” Anh liếc qua vai và bắt gặp đôi mắt xám của Jesper. “Một người mà tôi đã từng không muốn đánh mất.”
Kaz tìm thấy Nina và Matthias đang ngủ trên sô pha trong phòng khách tím. Tại sao hai thành viên to xác nhất nhóm lại chọn cái chỗ chật hẹp nhất để nằm ngủ, anh không hiểu nổi. Anh lấy cây gậy chọc vào người Nina. Không buồn mở mắt, cô tìm cách hất nó đi.
“Thức dậy và tươi tỉnh lên nào.”
“Biến đi,” cô nói, rồi vùi mặt vào ngực Matthias.
“Đi thôi, Zenik. Người chết còn chờ được, chứ tôi thì không.”
Cuối cùng cô nhỏm dậy và xỏ giày. Cô đã thay bộ kefta bằng áo khoác và quần dài từng mặc trong vụ Bãi Ngọt. Matthias quan sát mọi cử chỉ của cô, nhưng không yêu cầu đi theo hai người. Anh biết sự hiện diện của mình chỉ càng làm tăng rủi ro cho họ.
Inej xuất hiện trên ngưỡng cửa, và họ im lặng đi tới thang máy. Lệnh giới nghiêm đang được áp dụng trên các đường phố Ketterdam, nhưng không còn cách nào khác. Họ sẽ phải trông cậy vào vận may và khả năng trinh sát dò đường của Inej để tránh các tốp thị tuần.
Họ rời khách sạn bằng cửa sau và đi về phía khu vực công xưởng của Ketterdam. Họ rảo bước chậm rãi, vòng vèo qua các chốt chặn, chốc chốc lại dừng trong lúc Inej biến đi trước khi xuất hiện trở lại, ra hiệu cho họ chờ đợi hoặc đổi lộ trình, và lại mất hút.
Cuối cùng họ cũng đến được nhà xác, một công trình bằng đá xám không có gì đặc biệt nằm ở rìa của khu vực kho bãi. Phía trước nhà xác có một khu vườn từ lâu không ai lui tới. Chỉ có thi thể của người giàu được mang tới đây để chuẩn bị cho việc vận chuyển và mai táng phía ngoài thành phố. Nó không phải là đống xác người trên đảo Tử Thần, nhưng Kaz vẫn có cảm giác như anh đang bước vào một cơn ác mộng. Anh nghĩ đến giọng nói của Inej vang vọng trên lớp đá trắng. Tiếp tục đi.
Nhà xác vắng tanh, cánh cổng sắt được khoá chặt. Kaz phá khoá và ngoái đầu quan sát những cái bóng di động trong khu vườn rậm rạp. Anh không thể trông thấy Inej, nhưng anh biết cô đang ở đó. Cô sẽ canh chừng lối vào trong lúc họ hoàn tất công việc.
Bên trong nhà xác lạnh ngắt, mọi thứ chỉ được chiếu sáng bằng một ngọn đèn tử thi với ánh lửa xanh lam. Có một phòng hậu sự, và phía sau nó là một gian phòng bằng đá rộng, với những dãy tủ nhiều ngăn xếp thành hàng, đủ lớn để chứa xác. Toàn bộ nơi này bốc mùi tử khí.
Anh nghĩ đến mạch đập nơi cổ Inej, sự ấm áp của làn da cô khi anh áp môi vào. Anh cố gạt bỏ ỷ nghĩ đó. Anh không muốn kí ức đó gắn với căn phòng thối rữa này.
Kaz chưa bao giờ quên được nỗi kinh hoàng của cái đêm ở cảng Ketterdam, kí ức về thi thể của anh trai mà anh ôm chặt trong lúc tự nhắc mình đạp chân mạnh hơn nữa, hít thở thêm nữa, giữ nổi cơ thể, để sống sót. Anh đã vào được bờ, và dành cả đời để trả mối thù đó. Nhưng cơn ác mộng của anh không chịu biến mất. Kaz cứ tưởng nó sẽ thoái lui một cách dễ dàng. Anh sẽ không cần đắn đo trước khi bắt tay người khác hoặc đi vào những khu vực chật hẹp. Nhưng không, mọi chuyện trở nên tồi tệ đến nỗi anh không thể chạm vào ai đó trên phố mà không mường tượng ra mình đang ở ngoài cảng, trên đảo Tử Thần, vây quanh là những xác người, hoặc đang bơi dưới nước, bấu víu vào da thịt trơn tuột của Jordie để khỏi chết chìm.
Tình hình đã đi xa đến mức nguy hiểm. Có lần Gorka quá chén ở Thiên Đường Xanh, Kaz và Ấm Trà đã phải đưa anh ta về nhà. Họ dìu anh ta qua sáu khối phố, cơ thể Gorka ngả nghiêng, hết áp làn da hôi hám vào Kaz rồi lại dựa vào Ấm Trà, giải phóng anh trong chốc lát - mặc dù anh vẫn có thể cảm thấy cánh tay lông lá của anh ta đè lên gáy mình.
Sau đó, Ấm Trà bắt gặp Kaz co quắp trong phòng tắm, người run lẩy bẩy và ướt đẫm mồ hôi. Anh giả vờ rằng mình bị trúng thực, răng anh đánh lập cập trong lúc chèn chân vào cánh cửa để cho Ấm Trà đi ra ngoài. Anh không thể chạm vào anh ta, nếu không muốn mất trí hoàn toàn.
Ngay hôm sau, anh mua cho mình đôi găng tay đầu tiên - cái thứ rẻ tiền màu đen luôn bị thôi màu mỗi khi gặp nước. Yếu đuối là vấn đề sinh tử tại Barrel. Người ta có thể đánh hơi thấy nó nơi bạn giống như ngửi thấy máu vậy, và nếu Kaz muốn hạ gục Pekka Rollins, anh không thể cho phép mình run lẩy bẩy trên sàn phòng tắm thêm một lần nào nữa.
Kaz không bao giờ giải đáp thắc mắc về đôi găng tay, không bao giờ đáp trả những lời chế nhạo. Anh cứ đeo chúng hết ngày này qua ngày khác, chỉ cởi ra khi ở một mình. Anh tự nhủ rằng đây chỉ là biện pháp tạm thời, và nó không ngăn được anh làm chủ các trò tiểu xảo, học xào và chia bài thậm chí còn khéo hơn cả khi không đeo găng. Đôi găng giúp anh cách nước, giúp cho anh khỏi chết chìm khi những kí ức đêm đó đe dọa kéo anh xuống. Khi đeo găng vào, anh có cảm giác như được vũ trang tốt hơn cả một con dao hay khẩu súng, cho tới khi anh gặp Imogen.
Lúc đó anh mười bốn tuổi, chưa phải là phó tướng của Per Haskell, nhưng đang tạo dựng tên tuổi qua từng trận đánh và phi vụ. Imogen mới đến Barrel, lớn hơn anh một tuổi. Con nhỏ đã chán những trò ăn cắp vặt mà nó tiến hành cùng một băng nhóm nhỏ ở Zierfoort. Kể từ khi đến Ketterdam, nó loanh quanh trong hai khu Stave, làm những công việc lặt vặt và tìm cách len lỏi vào một trong các băng nhóm của Barrel. Kaz lần đầu trông thấy Imogen lúc nó phang chai vào đầu một thằng Chim Cắt táy máy tay chân. Lần thứ hai là khi Per Haskell bảo Kaz đi ghi cược cho các trận đấu võ đài mùa xuân. Con nhỏ đầy tàn nhang, răng cửa bị hở, nhưng có thể đứng vững giữa một cuộc ẩu đả.
Một đêm nọ, khi họ đang đứng cạnh võ đài trống vắng để đếm lại số tiền kiếm được, con bé đã chạm vào ống tay áo của anh, và khi anh ngẩng lên, nó chậm rãi mỉm cười, môi mím lại để anh không thấy kẽ hở giữa hai chiếc răng cửa.
Sau đó, khi nằm trên chiếc nệm cứng quèo trong phòng ngủ chung ở Thanh Gỗ, Kaz nhìn lên trần nhà bị thấm dột, nghĩ đến cái cách mà Imogen mỉm cười với mình, nghĩ tới chiếc quần dài trễ cạp trên hông nó. Con nhỏ có dáng đi xiên, như thể luôn tiếp cận mọi thứ ở một góc chéo. Anh thích thế. Anh thích nó.
Cơ thể con người chẳng có gì là bí mật tại Barrel. Không gian chật chội, và người ta đón nhận lạc thú ở nơi tìm thấy nó.
Những thằng con trai khác trong băng Cặn Bã cứ liên tục khoe về những cuộc chinh phục của mình. Kaz chẳng nói gì. May mắn là anh không nói gì trong hầu như mọi chuyện, nên cũng không sao. Nhưng anh biết những điều người ta chờ đợi anh nói, những thứ đáng lẽ anh phải mong muốn. Anh muốn chứ, trong những khoảnh khắc, trong thoáng chốc - một cô gái băng qua đường trong chiếc váy màu xanh ngọc hờ hững khoe bờ vai trần, một vũ công di chuyển như ngọn lửa trong một buổi biểu diễn tại Đông Stave, tiếng cười của Imogen như thể anh vừa kể câu chuyện hài hước nhất trên đời khi mà anh chẳng nói năng gì mấy.
Anh co tay lại trong chiếc găng, lắng nghe những thằng cùng phòng ngáy vang. Mình có thể vượt qua chuyện này, anh tự nhủ. Anh mạnh hơn sự bệnh hoạn này, mạnh hơn lực kéo của nước. Anh không gặp khó khăn gì khi nghiên cứu hoạt động của một sòng bài, anh từng làm điều đó. Khi anh quyết định tự học về tài chính, anh cũng làm chủ được nó. Kaz nghĩ đến nụ cười chậm rãi, mím môi của Imogen và ra một quyết định. Anh sẽ chinh phục điểm yếu này theo cùng cách mà anh đã chinh phục mọi thứ trên con đường của mình.
Anh bắt đầu từ những động thái mà không ai để ý. Chia bài cho một ván bài cào mà không mang găng. Ngủ một đêm với đôi găng nhét dưới gối. Thế rồi, khi Per Haskell cử anh và Ấm Trà đi đánh dằn mặt thằng ranh Beni vì thiếu nợ không trả, Kaz đã chờ cho đến khi dồn được nó vào một con hẻm và Ấm Trà bảo anh khoá chặt tay nó để tuột đôi găng ra, như một phép thử dễ dàng.
Ngay khi tiếp xúc với cổ tay của Beni, cảm giác ghê tởm chụp lên anh. Nhưng Kaz đã chuẩn bị và đương đầu với nó, phớt lờ những giọt mồ hôi lạnh trong lúc bẻ quặt khuỷu tay của Beni ra sau lưng. Kaz ép mình dùng thân người kẹp chặt cơ thể gã, trong lúc Ấm Trà nhắc lại từng điều khoản trong món nợ của gã với Per Haskell, kết thúc mỗi mục bằng một cú đấm vào mặt hoặc vào bụng Beni.
Mình ổn mà, Kaz lự nhú, Mình có thể xử lí chuyện này. Thế rồi nước dâng lên.
Lần này những ngọn sóng cao như các chóp đỉnh của nhà thờ Barter, tóm lấy anh và lôi anh xuống, với sức nặng mà anh không thể thoát khỏi. Trong tay anh lại là cơ thể đang phân hủy trương phình của Jordie. Kaz xô nó ra, thở hổn hển lấy hơi.
Sự việc tiếp theo mà Kaz ý thức được là anh đang dựa người vào một bức tường gạch. Ấm Trà quát mắng anh vì đã để xổng mất Beni. Bầu trời xám xịt trên đầu anh, mùi hôi hám của con hẻm tràn ngập lỗ mũi anh, trộn lẫn giữa mùi rác rưởi và nước tiểu.
“Cái chó gì vậy, Brekker?” Ấm Trà hét lên, khuôn mặt vằn đỏ vì nộ khí, mũi như muốn bốc khói theo cách đáng lẽ rất tức cười. “Mày vừa thả nó ra đó! Nếu nó có dao thì sao hả?”
Kaz chỉ lơ mơ ghi nhận điều đó. Beni gần như không chạm vào anh, nhưng không hiểu sao, khi không có đôi găng tay, mọi chuyện tệ hại hơn nhiều. Sự tiếp xúc của da thịt, cái mềm mại của một cơ thể khác ở sát gần cơ thể anh.
“Mày có đang nghe tao nói không đấy, hả thằng nhãi?” Ấm Trà túm áo Kaz, các đốt ngón tay lướt qua cổ anh, khiến một đợt sóng kinh tởm khác ập vào anh. Hắn lay anh cho đến khi răng anh va vào nhau lập cập.
Ấm Trà đã trút vào Kaz trận đòn mà hắn định dành cho Beni. Rồi bỏ mặc anh nằm hấp hối trong con hẻm. Bạn không thể mềm yếu hoặc bị sao nhãng trong lúc tiến hành một phi vụ. Khi mà đồng đội đang trông chờ ở bạn. Kaz co tay lại trong đôi găng, nhưng không tung cú đấm nào hết.
Anh mất gần một giờ để lết ra khỏi con hẻm, và nhiều tuần lễ để xây dựng lại danh tiếng bị tổn hại. Mọi vấp váp ở Barrel đều có thể dẫn tới một cú ngã chí mạng. Anh đi tìm Beni để khiến gã phải ao ước rằng người đánh mình là Ấm Trà. Anh đeo găng và không tháo ra, Anh tàn nhẫn và đánh mạnh gấp đôi. Anh không còn bận tâm đến việc tỏ ra bình thường, cứ để cho mọi người thấy sự điên loạn trong anh và để họ đoán nốt phần còn lại. Ai đến quá gần, anh tung cú đấm. Ai dám đặt tay lên người anh, anh bẻ cổ tay, một bên, hai bên, rồi cả quai hàm. Tay Nhám, họ gọi anh như thế. Con chó dại của Haskell. Cơn cuồng nộ trong anh bùng cháy, và anh học cách coi khinh những người phàn nàn, van xin, những kẻ cam chịu. Để tao dạy cho mày biết đau là thế nào, anh sẽ nói như vậy, rồi vẽ một bức tranh bằng nắm đấm.
Tại võ đài, lần tiếp theo Imogen đặt tay lên ống tay áo của Kaz, anh đã nhìn thẳng vào mắt con bé cho đến khi nụ cười mím môi đó tan biến. Con bé buông tay. Và nhìn đi chỗ khác. Anh tiếp tục đếm tiền.
Lúc này, Kaz gõ cây gậy chống xuống sàn nhà xác.
“Ta kết thúc chuyện này thôi,” anh nói với Nina và nghe thấy giọng mình vang vọng một cách ồn ào quá mức trên mặt đá lạnh lẽo. Anh muốn ra khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt.
Bắt đầu ở hai phía đối diện với nhau, họ quan sát ngày tháng trên các ngăn tủ, tìm một thi thể trong tình trạng phân huỷ phù hợp. Ngay cả việc nghĩ tới chuyện này cũng làm cho ngực Kaz thắt lại. Nó giống như một tiếng thét đang tích tụ. Nhưng đầu óc anh đã ấp ủ kế hoạch này, biết rằng nó sẽ dẫn anh tới đây.
“Đây rồi,” Nina nói.
Kaz băng qua gian phòng tiến đến chỗ cô. Đứng trước ngăn tủ, không ai trong hai người muốn mở nó ra. Kaz biết cả hai người bọn họ đều đã từng nhìn thấy hàng đống tử thi. Bạn không thể kiếm sống trên đường phố khu Barrel hoặc chiến đấu trong hàng ngũ Hạ Quân mà chưa từng chạm mặt cái chết. Nhưng đây lại là chuyện khác. Đây là sự phân huỷ sau cái chết.
Cuối cùng, Kaz móc đầu quạ của cây gậy chống vào tay nắm và kéo. Ngăn tủ nặng hơn anh tưởng, nhưng nó mở ra một cách trơn tru. Anh đứng yên.
“Chúng ta có chắc đây là ý hay không vậy?” Nina hỏi.
“Tôi luôn chào đón nếu cô có ý tưởng hay hơn,” Kaz đáp.
Nina thở dài, rồi kéo tấm vải khỏi thi thể. Cảnh tượng khiến Kaz nghĩ tới một con rắn đang lột da.
Người đàn ông ở độ tuổi trung niên, đôi môi đã đen thẫm vì sự phân huỷ.
Hồi còn bé, Kaz từng nín thở mỗi khi đi qua một nghĩa địa, chắc mẩm rằng nếu mở miệng thì một thứ gì rất kinh khủng sẽ chui vào. Căn phòng chao nghiêng. Anh cố gắng hít thở, buộc mình quay lại với thực tại. Anh xoè các ngón tay đeo găng, cảm nhận lớp da căng lên, và nắm chặt cây gậy chống trong lòng bàn tay.
“Tôi tự hỏi ông ta đã chết như thế nào,” Nina thì thầm trong khi quan sát những nếp da xám ngoét của khuôn mặt người chết.
“Một mình,” Kaz đáp, mắt nhìn những đầu ngón tay của ông ta. Có cái gì đó đã gặm chúng. Lũ chuột cống hẳn đã phát hiện ra ông ta trước khi người ta tìm thấy. Hoặc là một trong những con vật nuôi của ông ta. Kaz lấy trong túi ra cái hộp thuỷ tinh đậy kín mà anh đã nẫng của Genya. “Lấy những gì cô cần đi.”
•••
Đứng trên tháp đồng hồ khách sạn, Kaz quan sát những người trong nhóm. Thành phố vẫn đang chìm trong bóng tối, nhưng bình minh sẽ sớm ló dạng và họ sẽ đi theo những lộ trình tách biệt: Wylan và ông Colm tới một tiệm bánh không người để chờ phiên đấu giá bắt đầu. Nina đi đến khu Barrel với một số nhiệm vụ cần làm. Inej vào vị trí trên mái nhà thờ Barter.
Về phần mình, Kaz sẽ bước xuống quảng trường phía trước Sàn giao dịch cùng với Matthias và Kuwei. Ở đó họ sẽ được một tốp thị tuần hộ tống vào trong nhà thờ. Kaz tự hỏi Van Eck sẽ cảm thấy như thế nào khi các sĩ quan của mình lại đi bảo vệ một thằng khốn khu Barrel.
Anh cảm thấy là chính mình nhiều hơn so với nhiều ngày vừa qua. Vụ mai phục ở nhà của Van Eck đã làm anh chao đảo. Anh không sẵn sàng cho việc Pekka Rollins tham gia vào chuyện này. Anh chưa chuẩn bị cho sự nhục nhã mà nó gây ra, cho sự quay lại mạnh mẽ của những kí ức về Jordie.
Em đã phụ lòng anh. Giọng nói của anh trai anh vang lên, lớn hơn bao giờ hết. Em đã để cho lão qua mặt một lần nữa.
Kaz đã gọi Jesper bằng tên của anh trai mình. Một sơ sẩy tệ hại. Nhưng có lẽ anh muốn trừng phạt cả hai. Lúc này Kaz đã lớn hơn Jordie lúc anh ấy đầu hàng bệnh dịch Thị Nữ. Giờ đây anh có thể nhìn lại và thấy sự kiêu hãnh của anh trai mình, khát vọng thành công nhanh chóng của anh ấy. Anh đã phụ lòng em, Jordie. Anh lớn hơn. Anh đáng lẽ phải là đứa khôn ngoan.
Anh nghĩ tới câu hỏi của Inej. Không ai bảo vệ các anh sao? Anh nhớ Jordie ngồi bên cạnh mình trên chiếc cầu, còn sống và tươi cười, nhớ hình ảnh phản chiếu của chân họ trên mặt nước bên dưới, nhớ sự ấm áp của tách sôcôla nóng trong đôi tay đeo găng. Đáng lẽ chúng ta phải chăm sóc lẫn nhau.
Họ từng là hai cậu bé nhà nông mất bố, lạc lõng trong cái thành Ketterdam này. Thế nên Pekka mới lừa được họ. Không chỉ là sự cám dỗ của đồng tiền. Lão ta đã cho họ một gia đình mới. Một bà vợ giả hiệu làm món hutspot, một đứa con gái giả hiệu để Kaz chơi cùng. Pekka Rollins đã dụ hai anh em bằng ngọn lửa ấm áp và sự hứa hẹn về một cuộc sống mà họ đã bị mất.
Và đó là thứ huỷ diệt bạn: ước mơ về một điều mà bạn không bao giờ có được.
Anh điểm lại những khuôn mặt mà mình đã chiến đấu bên cạnh và đổ máu cùng. Anh từng nói dối họ, và cũng từng bị lừa dối. Anh từng đưa họ vào địa ngục và lôi họ trở ra.
Kaz đặt bàn tay lên cây gậy chống, lưng quay về phía thành phố.
“Chúng ta đều muốn những thứ khác biệt từ ngày hôm nay. Tự do, sự cứu rỗi…”
“Tiền bạc,” Jesper đề xuất.
“Nhiều tiền. Có rất nhiều người tìm cách cản đường chúng ta. Van Eck. Hội đồng Thương buôn. Pekka Rollins và đàn em của lão. Một vài quốc gia khác, và hầu hết những người trong cái thành phố bị thánh thần ruồng bỏ này.”
“Đáng lẽ đây phải là một lời động viên chứ?” Nina thắc mắc.
“Họ không biết chúng ta là ai. Không thực sự biết. Họ không biết những gì ta đã làm, những điều ta đã thực hiện cùng nhau. Kaz gõ cây gậy chống xuống sàn. “Thế nên ta hãy cho họ thấy họ đã chọn sai người để tuyên chiến như thế nào.