← Quay lại trang sách

Phần I: Học Sinh Sỹ Quan Khóa 16:Chương 1: Tuyển Mộ:Chương 1.

Cuối tháng 4 năm 1979, tôi trở về Tel Aviv, sau hai ngày ngồi trong một chiếc tàu ngầm. Viên chỉ huy của tôi đưa cho tôi một lệnh triệu tập: Tôi phải trở về căn cứ quân sự Shalishut, gần Ramat Gan, trong vùng ngoại vi Tel Aviv để có một cuộc gặp ở đấy.

Khi đó, tôi là thiếu tá hải quân, chỉ huy bảo quản vũ khí ở Tổng hành dinh của Hải quân ở Tel Aviv, trong ban tác chiến.

Tôi sinh ngày 28 tháng 11 năm 1949, tại Edmonton, tỉnh Alberta, Canada. Khi cha mẹ tôi chia tay, tôi còn là một đứa trẻ con. Trong Đại chiến thế giới thứ hai, cha tôi đã phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada và đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ khi lái chiếc máy bay ném bom Lancaster trên bầu trời nước Đức. Sau chiến thắng, ông đã gia nhập đội quân Do Thái Palestine để tham gia vào cuộc chiến tranh Độc lập. Là đại uý, ông được giao chỉ huy Căn cứ Không quân Sede Dov, nằm ở vùng ngoại vi phía Bắc Tel Aviv. Mẹ tôi, một người Do Thái Palestine, cũng đã phục vụ đất nước trong thời gian chiến tranh. Bà đã hướng dẫn một đoàn xe vận tải cho người Anh từ Tel Aviv đến Cai Rô. Cuộc chiến tranh kết thúc, bà gia nhập Haganah, cuộc kháng chiến của người Do Thái. Là giáo sư, bà đem tôi theo sống với bà ở London, trong vùng Ontario, rồi một thời gian ngắn ở Motréan. Sau cùng chúng tôi ở Holon, gần Tel Aviv. Khi tôi 9 tuổi, cha tôi đã phải di cư từ Canada sang Hoa Kỳ.

Chúng tôi có trở lại Canada, nhưng khi 13 tuổi, chúng tôi lại về sống ở Holon. Sau đó, mẹ tôi trở lại hẳn Canada, để tôi ở với ông bà nội, Haim vào Margolin. Ông bà tôi đã phải chạy trốn khỏi cuộc tàn sát ở Nga năm 1912 cùng với người con trai là Rafa. Ông bà tôi mất một người con trai trong một cuộc tàn sát và có hai người con khác ở Israel: Một trai là Maza và một gái, Mira là mẹ tôi. Ông bà tôi là người đi khai khẩn, mỏ đường. Là một kế toán có nghề, nhưng ông cam lòng phải làm việc lau rửa sàn nhà cho một hãng Do Thái, trong lúc chờ các bằng tốt nghiệp của mình từ Nga chuyển tới. Sau đó ông trở thành chuyên gia kế toán được kính trọng.

Tôi tiếp nhận một nền giáo dục sioniste. Trước khi thành lập Nhà nước Israel, cậu Maza của tôi đã tham gia vào một đơn vị ưu tú của quân đội trong tương lai, những “con chó Samson”, và nhờ nó, đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh giành độc lập.

Nhưng ông bà tôi là những người duy tâm (không thực tế). Tôi lớn lên với hình ảnh một nước Israel mà ở đó sữa và mật ong tràn ngập, hình ảnh nước Israel đã minh chứng cho mọi sự hi sinh. Đối với tôi, Israel là một nước mẫu mực cho toàn thế giới về sự hào hiệp, tốt bụng. Mong sao có một vụ bê bối về chính trị hoặc tài chính, tôi muốn thấy sai sót của sự quan liêu nhỏ nhặt của Chính phủ và Chính phủ sẽ tự sửa chữa. Tôi thực sự tin tưởng vào những con người vĩ đại đã bảo vệ quyền lợi của chúng tôi, như Ben Gourion, người mà tôi ngưỡng mộ vô hạn. Tôi căm thù ông Begin, con người mà tôi không thể chịu nổi. Tôi lớn lên giữa lúc khao khát sự khoan dung, mà những người Ả Rập được coi như những người nhân đạo. Trước đây chúng tôi sống hoà bình với họ và chúng tôi tin chắc rằng sẽ có một ngày, sự đồng cảm giữa chúng tôi sẽ thắng thế. Đó là cái nhìn của một người Israel như tôi.

Trước khi đủ 18 tuổi, tôi đã tòng quân và vào lính trong ba năm. Chín tháng sau, tôi được nhận quân hàm thiếu uý trong đơn vị quân cảnh.

Tôi là viên sỹ quan trẻ nhất trong Quân đội Israel.

Tôi đã phục vụ trên kênh đào Suez, trong vùng cao nguyên Golan, trên các triền sông của Jordanie. Tôi phục vụ ở đó khi người Jordanie đang đánh đuổi PLO ra khỏi đất nước họ và chúng tôi đã cho phép các xe tăng của họ vượt qua biên giới của chúng tôi để bao vây quân Palestine. Đó thực sự là lạ lùng. Jordanie là kẻ thù của chúng tôi, nhưng PLO còn là kẻ thù lợi hại hơn.

Trong tháng 11 năm 1971, sau khi tôi mãn hạn nghĩa vụ quân sự, tôi lại quay trở về sống ở Edmonton. Tôi đã sống ở đó năm năm. Tôi đã kiếm sống bằng cách làm việc quảng cáo hoặc điều hành một cửa hàng bán thảm. Chính vì thế mà tôi không tham gia cuộc chiến tranh Kippour năm 1973, và tôi biết rằng tôi sẽ không phải vướng víu vào gánh nặng này sau khi đã trả hết món nợ của mình. Tôi trở lại Israel năm 1977, để gia nhập vào hải quân.

Khi tôi tới trình diện tại căn cứ Shalishut, người ta đưa tôi vào một phòng nhỏ. Trong phòng, có một người nước ngoài, ngồi sau chiếc bàn làm việc đón tôi.

— Tên anh đã được tuyển chọn trong máy tính - Ông ta vừa giải thích cho tôi tay vừa lật một vài trang giấy - Anh đã đáp ứng được những tiêu chuẩn của chúng tôi. Anh đã phục vụ cho Tổ Quốc mình, nhưng còn một cách để anh phục vụ hữu ích hơn. Liệu anh có thể ra đi được không?

— Thật sung sướng! Đó là việc gì?

— Trước hết anh phải qua các cuộc kiểm tra, chúng tôi phải kiểm tra xem anh có tài năng cần thiết không. Người ta sẽ triệu tập anh.

Hai ngày sau, tôi nhận được lệnh trình diện tại một căn nhà ở Herzlia vào lúc hai mươi giờ. Và thật bất ngờ, một thầy thuốc tâm thần của căn cứ hải quân ra mở cửa cho tôi. Mọi việc mở đầu tốt đẹp! Ông ta báo trước cho tôi biết rằng ông đã đi tìm hiểu tôi thay cho một nhóm an ninh và dặn tôi không phải nói một lời nào ở căn cứ hải quân cả. Tôi hứa rằng sẽ yên lặng.

Trong bốn tiếng đồng hồ, họ đã kiểm tra tôi đủ kiểu: Dấu mực, phản xạ tâm lý…

Một tuần sau, người ta hẹn gặp tôi ở phía Bắc Tel Aviv, gần Bait Hahayal. Tôi đã nói mọi việc với vợ tôi và chúng tôi có cảm giác là Mossad đứng đằng sau tất cả. Khi người ta lớn lên ở Israel, người ta sẽ cảm thấy điều đó. Và rồi, những điều khác nữa có thể là gì đây?

Cuộc nói chuyện này, với một người tên là Ygal, là cuộc nói chuyện đầu tiên của một loạt những cuộc thảo luận tiếp theo xung quanh một tách cà phê Scala Tel Aviv. Ygal, luôn kết thúc cuộc gặp của chúng tôi bằng một lời nói độc thoại không có kết để chuyển đến tôi niềm tin của ông ta. Tôi cũng phải trả lời hàng trăm câu hỏi như: “Nếu anh phải giết một ai đó vì Tổ Quốc, anh có cho đó là một tội phạm không? Tự do có quan trọng đối với anh không? Phải chăng có cái gì đó quan trọng hơn tự do?”. Tôi chắc chắn rằng đó là vì Mossad, Tôi hiểu những câu trả lời mà họ đang chờ ở tôi. Và vì tôi cũng muốn gia nhập Mossad bằng mọi giá.

Không lâu, các cuộc nói chuyện này cứ ba ngày diễn ra một lần và kéo dài suốt bốn tháng. Sau đó, người ta kiểm tra y tế đầy đủ đối với tôi trong một căn cứ quân sự. Thông thường, những người đi khám bệnh trong quân đội, có tới một trăm năm mươi người, họ phải xếp hàng. Đó là làm việc theo dây chuyền. Nhưng ở đó, tôi có cả một đơn vị y tế (mười phòng khám, mỗi phòng có một bác sỹ, một y tá) cho riêng mình tôi và chính họ lại phải chờ đợi tôi! Mỗi một bác sỹ nghe khám cho tôi trong hơn nửa giờ. Người ta bắt tôi làm một loạt xét nghiệm. Hình như tôi thấy có một ai đó nữa.

Nhưng người ta thường không giải thích cho tôi biết là họ mong chờ gì ở tôi. về phần mình, tôi đã sẵn sàng tất cả. Ygal, cuối cùng cho tôi biết việc tập luyện chủ yếu ở trong nước Israel, nhưng xa nhà. Tôi chỉ gặp gỡ gia đình được hai hay ba tuần gì đó. Tôi lo ngại người ta sẽ gửi tôi ra nước ngoài và trong trường hợp đó, tôi có thế quay về nhà trong hai tháng. Tôi từ chối. Ngoại trừ vấn đề là tôi vắng mặt quá lâu. Tuy nhiên, khi người ta yêu cầu tôi suy nghĩ kỹ trước khi đưa ra câu trả lời quyết định, tôi chấp nhận. Khi đó họ liên hệ với Bella vợ tôi, và trong tám tháng sau, họ liên tiếp điện thoại cho chúng tôi.

Tôi đã đi lính, do vậy, tôi không cảm thấy mình có lỗi với đất nước. Hơn nữa, tôi lại là một người dân tộc thiên tả. Tôi tin rằng điều có thể được, trước hết là ở trong nước Israel. Rút cuộc, tôi mong muốn vừa nhận công việc, đồng thời không rời bỏ gia đình.

Tôi chả biết gì về cương vị tôi sẽ làm sau đó, nhưng sau này, khi tôi gia nhập Mossad, tôi hiểu rằng người ta đào tạo tôi để đưa vào đơn vị Kidon, một ngành hoạt động của Metsada. Metsada sau đó trở thành Komemiute, là một vụ gồm các chiến sỹ của Mossad. Nhưng đối với thời đó, tôi không sẵn sàng bỏ những người thân của mình.

Tôi đã từ giã hải quân vào năm 1981, sau khi đã phục vụ ở Lyban, lúc cuộc chiến tranh bắt đầu. Là một hoạ sĩ, tôi quyết định đến với lợi ích của mình, và tôi đã lao vào vẽ tranh trên kính. Tôi cố gắng bán những sản phẩm của mình, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng, những tranh vẽ trên kính không đem lại hiệu quả ở Israel. Không còn nghi ngờ gì nữa là những tranh vẽ trên kính đã gợi lại quá nhiều về các nhà thờ. Không một ai mua tranh của tôi, nhưng kỹ thuật vẽ của tôi đã làm mọi người quan tâm. Vì vậy, tôi đã chuyển cửa hàng tranh ảnh của mình thành trường học.

Tháng 10 năm 1982, tôi nhận được một bức điện ra lệnh cho tôi gọi một số số điện thoại vào thứ năm tiếp theo, trong khoảng từ chín giờ đến mười chín giờ và hỏi Deborah. Tôi tuân lệnh.

Người ta cho tôi một địa chỉ ở tầng trệt trong ngôi nhà Handar Dafna, trên đại lộ Roi-Saul ở Tel Aviv, một trong số những tháp bằng bê tông, như người ta thường thấy ở khắp nơi trên đất nước Israel. Chỉ có các văn phòng làm việc ở địa chỉ này.

Về sau tôi hiểu đó là nơi ngự trị của Tổng hành dinh Mossad.

Tôi bước vào phòng đợi. Chỉ có một chiếc ghế băng ở bên phải và ở bên trái lối vào có một tấm bảng bí mật, chỉ dẫn: “Cơ quan An ninh. Tuyển mộ”. Kinh nghiệm trước đây vẫn còn ám ảnh tôi.

Tôi có linh cảm đã bỏ lỡ một cơ hội.

Với lòng kiên nhẫn và lo âu, tôi đã đến nơi hẹn trước một giờ. Tôi ngồi ở chỗ bán cà phê trên tầng hai để giết thời gian. Phía bên này của toà nhà, quán cà phê, các nhà băng, các công ty tư nhân, tất cả hiện ra một cách tẻ nhạt, nhưng Tổng hành dinh của Mossad như một toà nhà trong một toà nhà. Tôi gọi một chiếc bánh mỳ kẹp jam bông, pho mát, tôi còn nhớ rằng khi đó, trong lúc nhai bánh, tôi liếc xung quanh xem có những tân binh khác không.

Giờ hẹn đã tới. Tôi đi xuống văn phòng đã được chỉ dẫn và người ta dẫn tôi sang một phòng nhỏ có một chiếc bàn to bằng gỗ sáng. Trên bàn, có một chiếc khay công văn và một máy điện thoại. Trên tường, treo một chiếc gương, một tấm ảnh của ai đó mà trông mặt tôi thấy quen thuộc, nhưng tôi không có thể đặt một cái tên cho khuôn mặt đó.

Ngồi sau chiếc bàn làm việc là một người có vẻ mặt dễ gần. Ông ta giở một tập hồ sơ mỏng, lướt qua nhanh rồi nói với tôi:

— Chúng tôi tuyển anh. Mục đích của chúng ta là bảo vệ những người Do Thái trong cộng đồng quốc tế và chúng tôi nghĩ rằng đó là thẩm quyền của anh. Điều đó nghĩa là chúng ta là một gia đình lớn, phải không? Tôi không giấu anh, đó là một công việc khó, và thậm chí nguy hiểm. Nhưng tôi không thể nói gì hơn với anh vì anh đã qua một số sát hạch (kiểm tra).

Ông ta tiếp tục giải thích và báo cho tôi biết trước là người ta sẽ cho triệu tập tôi sau mỗi loạt kiểm tra. Nếu tôi không đạt ở loạt kiểm tra nào đó thì người ta sẽ dừng ở đấy. Nếu tôi vượt qua được thì người ta sẽ chỉ dẫn cho tôi những công đoạn tiếp theo.

— Nếu anh không đạt, hoặc nếu anh bỏ, anh không cần phải tìm để tiếp xúc với chúng tôi nữa. Những quyết định của chúng tôi là dứt khoát. Như thế rõ rồi chứ?

— Vâng.

— Rất tốt. Sau hai tuần nữa hãy đến đây vào lúc chín giờ. Chúng ta sẽ bắt đầu những môn kiểm tra.

— Liệu tôi có phải xa gia đình trong thời gian lâu không?

— Không, điều đó sẽ không cần thiết.

— Thế thì đồng ý. Trong hai tuần nữa, tôi sẽ tới.

Đúng ngày hẹn, người ta đưa tôi vào một phòng đợi, ở đó có chín người khác đã ngồi vào những chiếc bàn dành cho học sinh. Người ta phát cho chúng tôi câu hỏi dày ba mươi trang gồm các câu hỏi về cá nhân, những câu kiểm tra đủ loại, để biết chúng tôi là ai, điều chúng tôi suy nghĩ và tại sao. Khi các câu hỏi được trả lời đầy đủ và được thu lại, người ta nói với chúng tôi:

— Chúng tôi sẽ triệu tập các anh.

Thực ra, một tuần sau, tôi đã được triệu tập và có một người kiểm tra trình độ tiếng Anh của tôi. Tôi nói tiếng Anh không có trọng âm. Người ta hỏi tôi nghĩa của một số thuật ngữ tiếng lóng mà trong đó một số từ được ghi lại, chẳng hạn như “sensass”. Người ta cũng hỏi tôi về các thành phố của Canada và của Hoa Kỳ, tên Tổng thống Hoa Kỳ và cứ như thế họ tiếp tục hỏi.

Các cuộc triệu tập nối tiếp nhau trong ba tháng, nhưng lần này các cuộc kiểm tra diễn ra trong toà nhà của Mossad. Tôi và các bạn tôi qua kiểm tra y tế không biết đến lần thứ mấy rồi. Họ hỏi chúng tôi hai lần với máy phát hiện nói dối. Ngoài ra, họ không ngớt nhắc chúng tôi là không tiết lộ một điều gì với những tân binh khác.

Thời gian càng trôi qua thì tôi càng trở nên sốt ruột. Người hỏi kiểm tra tôi tên là Uzi. về sau tôi biết ông rõ hơn với cái tên đầy đủ: Uzi Nákdimon. Đó là người chịu trách nhiệm tuyển mộ. Cuối cùng, người ta nói với tôi rằng, tôi đã vượt qua tất cả các cuộc kiểm tra và không còn bài kiểm tra nào nữa. Nhưng trước đấy, họ muốn gặp Bella.

Cuộc hỏi chuyện đã kéo dài sáu tiếng đồng hồ với rất nhiều câu hỏi kỳ cục không chỉ về bản thân tôi, mà còn về sự giáo dục chính trị của tôi, cuộc hỏi chuyện như xem xét phẩm chất của con người với một cuộc kiểm tra tỉ mỉ tình cảm đối với nước Israel và với vị trí của nước này trên thế giới. Ông bác sỹ tâm lý có mặt trong cuộc hỏi chuyện, đã giữ im lặng.

Khi Bella kết thúc mọi việc, Uzi gọi tôi lại để nói với tôi là đến trình diện ở trụ sở vào lúc bảy giờ sáng thứ hai sau. Tôi phải mang theo một va ly đầy quần áo, phòng khi cuộc kiểm tra cuối cùng có thể kéo dài ba hoặc bốn ngày. Họ thông báo với tôi rằng tôi phải theo một khoá đào tạo trong hai năm và tiền lương của tôi sẽ tương đương với tiền lương của cấp cao hơn cấp của tôi. Tôi nghĩ không đến nỗi tồi. Khi đó tôi đang là đại uý bảo quản vũ khí, tôi sẽ ăn lương cấp tá. Tôi không còn ở cương vị cũ: Tôi đã thành đạt! Tôi tự coi mình là con ông, cháu cha, nhưng chẳng bao lâu, tôi thấy hàng nghìn người khác cũng được tuyển chọn như vậy. Theo trình tự của số thí sinh, những thực tập sinh được tổ chức trong khoảng ba năm. Có năm nghìn người xin vào nhưng chỉ lựa chọn mười lăm người. Những người này còn phải qua một kỳ kiểm tra cuối cùng. Đôi khi có mười lăm người đạt, đôi khi chẳng có ai cả. Đây không phải là một cuộc thi và không có tỷ lệ quy định (không có chỉ tiêu).

Là người ưu tú của một dân tộc! Trong trường hợp ấy, điều này không có nghĩa là những người giỏi nhất, nhưng là những người thích hợp nhất. Sự khác biệt là tầm cỡ. Phần lớn những người được lựa chọn là những người ở trên đất liền. Họ nghiên cứu những nghề nghiệp cụ thể. Nhưng, người ta sẽ không nói ra điều đó bởi muốn để chúng tôi tin rằng mình là những người ưu tú, đã được chọn lọc. Chẳng bao lâu, trước ngày đã dự định, một nhân viên đưa thư đem đến cho tôi một bức thư khẳng định ngày và địa điểm hẹn gặp và nhắc tôi đem theo một bộ đồ quần áo. Mặt khác tôi phải viết lý lịch tóm tắt dưới một biệt danh để làm căn cước mới. Tôi đã chọn cho mình cái tên Simon Lahav. Simon là họ của bố tôi và người ta nói với tôi rằng Ostrovsky, trong tiếng Nga hay tiếng Ba Lan có nghĩa là lưỡi kiếm. Trong tiếng Hébreu (tiếng dân tộc Hébreu - người Do Thái, ND) gọi là Lahav.

Tôi khai là họa sĩ và ghi địa chỉ ở Holon, trên thực tế, Holon tương xứng với một địa danh mơ hồ nào đấy.

Một buổi sáng mưa của tháng giêng năm 1983, đúng ngày đã định, tôi đến điểm hẹn trước bảy giờ một chút. Cả thảy chúng tôi có mười người, hai nữ và tám nam, cùng với ba hay bốn người gì đó, có lẽ họ là người huấn luyện. Mỗi người trong chúng tôi đều nộp một phong bì trong có bản sơ yếu lý lịch (CV), và căn cước mới của chúng tôi. Họ chở chúng tôi trên một chiếc xe buýt tới Câu lạc bộ Tổ Quốc (Country Club ), một trung tâm phức hợp du lịch, ở cửa ngõ của Tel Aviv, trên đường Haifa. Câu lạc bộ Tổ Quốc tự cho là có những thiết bị giải trí tốt nhất của Israel.

Họ cho hai người ở một phòng và ra lệnh mở va ly của chúng tôi rồi sau đó tập trung chúng tôi trong toà nhà số một. Trên một ngọn đồi phía trên Câu lạc bộ Tổ Quốc. Thực ra, mọi người đều biết ngôi nhà đó ở Israel, gọi là Midrasha, trường huấn luyện của Mossad, hay còn được gọi là Viện Hàn lâm. Ngay khi vừa tới, tôi đã nhận ra Viện Hàn lâm. Với một sự xúc động, tôi hỏi, liệu sau khi thực tập, tôi có được chấp nhận vào đây không. Nhưng tôi tin chắc rằng mọi người sẽ gây trở ngại cho tôi. Liệu họ có thấy tôi mắc bệnh tự mãn không? Nhưng hãy hiểu cho đó là một phẩm chất của nghề nghiệp.

Trong toà nhà có một phòng rộng mênh mông, người ta để ở đó những chiếc bàn dài. Quầy ăn đổ nát mà chưa bao giờ tôi thấy ở đâu giống như vậy, cũng không có những người phụ trách khách sạn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của khách. Chúng tôi gồm khoảng hai mươi khách ăn. Khoảng mười giờ rưỡi sáng, một nhóm đứng dậy sang phòng bên cạnh và các thí sinh ngồi vây quanh một chiếc bàn dài ở giữa phòng, trong khi các huấn luyện viên ngồi cả phía sau họ, bên chiếc bàn nhỏ kê sát tường. Một bầu không khí êm ái lan toả, chúng tôi vừa có được một sự gắn bó dễ chịu. Cà phê được đem tới và như thường lệ, mọi ngươi đều hút thuốc.

— Xin chào mừng các cậu cử - Uzi Nakdimon thốt lên với chúng tôi - Các anh sẽ ở đây ba ngày. Đừng có làm những điều các anh suy nghĩ, người ta đang chờ đợi ở các anh. Hãy sử dụng lương tri của các anh cho dù trong hoàn cảnh nào đi nữa. Chúng tôi đã tìm được những con người có tài năng đích thực. Các anh đã thành công qua một số cuộc kiểm tra, và có thể đảm bảo với các anh rằng các anh đã đáp ứng tốt sự mong đợi của chúng tôi.

Ông ta nói tiếp: - Mỗi một người trong các anh sẽ có một huấn luyện viên hướng dẫn. Tất cả các anh chọn cho mình một cái tên và một nghề nào đó. Hãy cố giữ gìn cái vỏ bọc của mình, nhưng cố gắng lột được chiếc vỏ bọc của bạn các anh, đó là công việc của các anh.

Tôi không biết việc đó, nhưng nhóm của chúng tôi là nhóm đầu tiên. Có những áp lực về chính trị để các bà vợ có thể trở thành các katsa. Vì thế, người ta đã quyết định thử một vài bà vợ. Dĩ nhiên, không có ý định bắt họ phải trở thành những katsa. Trước hết vì những người phụ nữ là những người dễ bị tổn thương hơn, nhưng trên hết vẫn là vì mục tiêu ưu đãi của Mossad. Đó là những người Ả Rập. Một người Ả Rập có thể mắc bẫy của một người đàn bà, nhưng không bao giờ người đó sẽ chấp nhận làm việc cho người này. Bởi thế họ không thể bị những người phụ nữ tuyển mộ.

Chúng tôi bắt đầu tự giới thiệu. Dần dần, chúng tôi kể về mình, những người khác đặt các câu hỏi, đôi khi các huấn luyện viên ngồi phía sau chúng tôi.

Lúc đến lượt tôi, tôi không muốn nói chính xác là tôi đã làm việc cho công ty này hay công ty kia, có thể có ai đó biết việc đó. Tôi nói rằng tôi là cha của hai đứa con, nhưng tôi khẳng định là tôi có con trai, vì là tôi không coi như đưa ra những chi tiết thật sự. Tuy thế, tôi cố gắn nó vào thực tế. Cái đó dễ. Tôi không cảm thấy có một chút sợ sệt nào. Đó giống như một trò chơi thôi, tôi tự nói vui như thế.

Trò tập luyện này kéo dài khoảng ba giờ đồng hồ. Khi đó, tôi đưa ra những câu hỏi cho một trong số những đồng nghiệp, có một huấn luyện viên ngả người về phía tôi và hỏi: “Xin lỗi, thế trước đây tên anh là gì?”. Cần phải kiên trì với sự cẩn thận của ông ta.

Sau buổi luyện tập, họ ra lệnh cho chúng tôi trở về phòng của mình, thay trang phục, và khoác những bộ quần áo của chúng tôi như mọi ngày. Người ta bảo chúng tôi: “Các anh sẽ vào thành phố”.

Chúng tôi được chia thành từng nhóm ba người leo lên một xe mà ở trong xe đã có hai thầy giáo ngồi đợi. Vào Tel Aviv, hai thầy giáo nữa gia nhập với chúng tôi ở góc đại lộ Roi Saul và ở góc đường Ibn Geverol. Lúc đó gần mười sáu giờ ba mươi phút. Một trong số những giáo viên quay về phía tôi nói:

— Anh nhìn cái ban công đó, cái thấp ấy? Anh có ba phút để suy nghĩ. Sau đó, tôi muốn anh đi vào ngôi nhà đó, và sáu phút sau, không hơn, tôi muốn anh gặp người chủ nhà hoặc người thuê ngôi nhà trên chiếc ban công với một cốc nước cầm trong tay.

Đấy là điều tôi thực sự sợ. Chúng tôi không ai có căn cước, ở Israel, đó là không hợp pháp. Hơn nữa chúng tôi phải dùng tên giả, điều gì sẽ xảy ra. Và, nếu chúng tôi gặp rắc rối với cảnh sát, chúng tôi sẽ phải kể cho họ nghe câu chuyện mà chúng tôi chọn làm vỏ bọc.

Làm gì đây? Trước tiên phải phát hiện ra căn hộ nào ứng với cái ban công đó đã. Sau một hồi lâu do dự, tôi tuyên bố với giáo viên là tôi đã sẵn sàng.

— Kế hoạch của anh ra sao, phác hoạ vài nét lớn được không? - Người giáo viên hỏi tôi.

— Tôi chuẩn bị quay phim -Tôi trả lời.

Người giáo viên luôn nhấn mạnh đến sự việc bột phát, nhưng cũng muốn chúng tôi có một kế hoạch cơ bản và họ không bao giờ nói những lời như những người Ả Rập: Ala bab Allah, “Số phận của chúng tôi nằm trong tay Thánh Allah” hay nói một cách khác: “Advienne que pourra” (Muốn ra sao thì ra).

Tôi đi vào khu nhà một cách lanh lợi và gõ cửa. Một bà già khoảng sáu mươi tuổi ra mở cửa:

— Chào bà - Tôi nói tiếng Hébreu - tôi là Simon, thuộc đơn vị đảm bảo an ninh trên đường. Chúng tôi biết ngã tư đường phố của bà rất nguy hiểm, đã xảy ra nhiều vụ tai nạn.

Tôi dừng lại để nghe sự phản ứng của bà ta.

— Ôi dào, không phải nói với tôi điều đó nữa! - Bà ta nói. (Xem cách thức mà người Israel điều hành thì biết, ở mọi ngã tư đường phố đều có nhiều tai nạn. Tôi không vì thế mà muốn mình dị lụy đến thanh danh của ai).

— Chúng tôi muốn thuê ban công nhà bà, thưa bà.

— Thuê ban công nhà tôi ư?

— Dạ vâng, chúng tôi muốn quay phim cảnh đi lại ở địa điểm này. Xin bà hãy an tâm, không ai làm phiền bà. Chúng tôi chỉ muốn đặt một camera cố định trên ban công của bà thôi. Liệu bà có thể cho tôi ngắm qua chiếc ban công một chút được không? Nếu góc này tốt, chúng tôi có thể quyết định ký hợp đồng với bà. Mong rằng bà sẽ vui lòng với giá thuê 500 livres một tháng được chứ?

— Ồ! Chắc là được! Đi lối này - Bà chủ nhanh nhảu hướng dẫn tôi ra xem ban công.

— Xin bà làm ơn cho cốc nước được không? Hôm nay, trời nóng quá.

Một lát sau, cả hai chúng tôi quay ra ban công ngắm quang cảnh người, xe đi lại. Ở bên dưới những anh em khác quan sát, theo dõi tôi. Khi bà chủ vừa quay lưng đi vào, tôi giơ chiếc cốc về hướng mọi người như chào họ. Trước khi rời căn nhà, tôi ghi tên và số điện thoại của bà chủ và nói chúng tôi sẽ đi xem một số chỗ khác, nếu quyết định chọn ban công nhà bà, chúng tôi sẽ gọi điện thoại lại.

Khi tôi quay lại với nhóm, một trong số những người dự tuyển đã đi làm nhiệm vụ của họ. Người này phải đứng quan sát đằng trước một máy bán vé và phải vay được 10 Livres của người đầu tiên sử dụng máy. Anh ta khẩn khoản với người khách không quen biết là vợ anh ta đang đẻ, nên anh ta nhất thiết phải thuê tắc xi đến bệnh viện để gặp vợ, và anh ta không mang tiền theo người. Anh ta ghi tên và địa chỉ của người cho vay tiền và hứa sẽ trả lại 10 Livres. Người khách lạ đã cấp cứu cho anh ta.

Người dự tuyển thứ ba đã không có được những may mắn như thế. Anh ta cũng có nhiệm vụ như tôi. Anh ta phải leo lên ban công của một căn hộ khác. Anh ta đã thành công trong việc trèo lên mái nhà, làm như một người sửa chữa ăng ten của máy vô tuyến truyền hình. Nhưng thật không may cho anh ta là khi tụt xuống căn hộ đã nói ở trên để hỏi xem liệu anh ta có thể sử dụng ban công để kiểm tra lại ăng ten được không, thì anh ta phát hiện ra người thuê căn hộ này thực sự là một người sửa chữa ăng ten.

— Anh nói tầm bậy cái gì với tôi thế? Người chủ căn hộ kêu lên - Ăng ten vẫn hoạt động rất tốt.

Người chủ có ý muốn gọi cảnh sát và anh chàng dự tuyển này rút lui một cách vội vã.

Sau bài thi này, họ dẫn chúng tôi tới đường Hayarkon. Đó là một con đường quan trọng, với các khách sạn lớn nằm hai bên kéo dài tới tận Méditerranée. Người ta dẫn chúng tôi vào một phòng lớn của Khách sạn Sheraton và bảo chúng tôi ngồi xuống.

— Anh hãy nhìn khách sạn trước mặt kia, Khách sạn Basel thấy không? - Một trong số những giáo viên huấn luyện hỏi tôi - Hãy đi tới đó lấy cho tôi tên người khách có mặt trong sổ ghi của họ. Người thứ ba tính từ trên xuống.

Trong các khách sạn ở Israel, nhìn chung, những người làm lễ tân - cũng như những người khác - thường để sổ ghi chép của họ phía sau quầy. Đêm xuống, trong khi vượt sang đường, tôi không biết mình đến đó lấy sổ như thế nào để có cái tên ấy. Tôi biết rằng mình có vỏ bọc và việc đó chỉ là một một màn kịch.

Vừa bị căng thẳng và lại bị kích thích quá độ. Tôi muốn giành thắng lợi!

Biết rằng có thể được đón tiếp tốt hơn nếu tôi đóng vai một người du lịch nước ngoài, tôi quyết định nói tiếng Anh. Trong khi tôi tiếp cận với lễ tân, để hỏi liệu có ai nhắn nhủ gì không, tôi lại nghĩ đến chuyện tầm phào là có ai đó gọi điện thoại hoặc muốn nói gì với Dave. Anh gọi điện thoại nhiều lần, có ai đó trả lời là anh quay nhầm số rồi, trong khi anh tỏ bực bội. Sau cùng, anh gọi lại và nói: “Alô, Dave nói đây. Có thông điệp gì cho tôi không?”.

— Có phải ông xuống khách sạn không? - Người lễ tân hỏi.

— Không - Tôi đáp - nhưng tôi có hẹn với một khách của các anh.

Người lễ tân bảo đảm rằng không có một thông điệp nào cho tôi. Tôi đi lại ngồi ở phòng đợi.

Tôi kiên nhẫn nhìn đồng hồ trôi qua chừng nửa giờ, rồi quay lại lễ tân.

— Ông ta đã ở đây rồi mới phải - Tôi khẳng định - Xin anh có thể kiểm tra lại được không?

— Thế ông ấy tên gì? - Anh ta hỏi tôi.

Tôi lẩm nhẩm cái tên hình như giống “Kamalunke” và anh rút cuốn sổ ghi tên ra rồi bắt đầu lướt qua.

— Thế anh viết tên đó thế nào?

— Tôi không biết gì hơn. Với chữ c hay K gì đó!

Tôi quay người lại phía trên quầy như muốn giúp người phục vụ tìm kiếm, thực ra là để đọc cái tên thứ ba từ trên xuống.

— Ồ, nhưng tôi đang ở Khách sạn Basel! - Tôi thốt lên, cùng lúc làm ra vẻ ngạc nhiên - Xin lỗi, tôi cứ tin rằng anh là người thành phố. Tôi quả là ngốc.

Tôi sướng phát điên lên. Đột nhiên, tôi tự hỏi, làm sao giáo viên huấn luyện biết được tôi tìm được cái tên thích ứng. Thế rồi, tôi nhớ ra rằng, ở Israel, họ có thể hiểu tất cả.

Vì trong phòng chờ của khách sạn rất đông, nên hai giáo viên kéo tôi ra phố. Một trong hai giáo viên nói với tôi là tôi còn bài kiểm tra cuối cùng, và đưa cho tôi chiếc micro của máy điện thoại. Tôi phải vào trong Khách sạn Tal, đi đến chiếc máy điện thoại ở phía tường trong phòng chờ, thay chiếc micro bằng chiếc người ta giao cho tôi, và mang chiếc cũ lại, trong khi đó để máy điện thoại ở chế độ hoạt động.

Nhiều người xếp hàng trước máy chờ đợi, nhưng tôi tự động viên mình, tôi phải hoàn thành nhiệm vụ với mọi giá. Khi đến lượt, tôi nhét chiếc thẻ điện thoại vào máy và quay số một cách bâng quơ. Hai đầu gối tôi run lên cầm cập. Tôi nhấc máy nghe lên, đưa máy lên tai nghe, đồng thời tháo vít của loa. Tôi lấy cuốn sổ tay trong túi ra và giả vờ ghi chép. Tôi kẹp ống nghe giữa tai và vai, rồi nói tiếng Anh.

Một người đợi đến lượt đứng sau tôi gần đến nỗi tôi thấy hơi thở thổi vào cổ mình. Tôi nhét cuốn sổ vào túi và buông một cái nhìn bực mình về phía anh ta. Anh ta lùi lại và tỏ ra hơi bẽn lẽn. Thế là tôi mắc dây vào micro. Cuối cùng thì có một cú điện thoại trả lời tôi: “Alô, ai ở đầu dây?” Nhưng tôi đã treo nó trở lại ngay khi tôi vặn lại vít của máy nghe.

Trong khi run lên cầm cập, tôi lục tìm chiếc micro vừa đánh cắp để trong túi. Đấy là lần đầu tiên tôi ăn cắp. Tôi đã phát ốm vì nó. Tôi lảo đảo quay lại gặp người giáo viên và giơ chiến lợi phẩm ra.

Chúng tôi quay trở về Câu lạc bộ Tổ Quốc mà không nói lấy một lời. Sau bữa cơm tối, người ta ra lệnh cho tôi viết một báo cáo đầy đủ về tất cả những hoạt động trong ngày, không bỏ sót bất cứ một chi tiết nào, thậm chí chi tiết đó chẳng có ý nghĩa gì để nộp vào sáng hôm sau.

Vào lúc nửa đêm khi chúng tôi xem vô tuyến (Anh bạn cùng phòng và tôi), cùng mệt nhoài, thì người giáo viên gõ cửa vào. Ông ta bảo tôi mặc chiếc quần Jean vào rồi theo ông. Ông ta đưa tôi đến một vườn cây ăn quả là nơi sẽ có cuộc họp. Người ta nghe thấy tiếng chó rừng hú lên ở phía xa xa, và những tiếng inh ỏi không dứt của những chú dế mèn.

— Đến đây, tôi sẽ chỉ cho cậu chỗ ẩn nấp - Ông ta nói với tôi như vậy - Tôi muốn biết có bao nhiêu người sẽ tham dự cuộc họp này và họ sẽ nói gì. Tôi để cậu tiêu khiển trong hai hoặc ba giờ đồng hồ.

— Ông hãy tin vào tôi - Tôi khẳng định.

Tôi đi theo ông ta đến một con suối (Wadi — nước của con suối này chỉ chảy trong mùa mưa). Chỉ có một một mạch nước, và một kênh đào bằng xi măng có đường kính 60 cm chảy bên dưới con đường.

— Kia kìa - Ông chỉ ra hướng nước chảy, và nói - Đó là nơi ẩn náu tốt. Cậu hãy dùng những tờ báo cũ này làm bình phong.

Chà, đây lại là một cuộc sát hạch nữa. Tôi sợ nơi kín đáo, và họ không thể không biết điều đó, với tất cả các bài kiểm tra mà tôi đã vượt qua. Tôi rất sợ những con rận, con gián, con sâu, con chuột. Tôi cũng không ưa bơi lội trong hồ, vì dưới đáy phủ đầy một lớp bùn. Tôi đã bị gài vào bẫy. Đến nỗi tôi cũng không phân biệt được đầu cuối của con kênh nữa. Thời gian ba giờ này là kéo dài nhất trong đời tôi. Và dĩ nhiên chả có một ai tới cả, chẳng có cuộc họp nào, chả có gì hết. Để đấu tranh chống lại sự buồn ngủ, tôi luôn miệng lặp đi, lặp lại rằng mình đang ở trong những cái cống.

Cuối cùng, giáo viên tới.

— Tôi muốn có một báo cáo về cuộc họp - Ông ta đòi tôi.

— Tôi chả thấy ai cả.

— Cậu tin chắc như vậy chứ?

— Tuyệt đối chắc chắn.

— Đúng là cậu đã ngủ.

— Không đâu, hoàn toàn không.

— Thế cậu có nhìn thấy tôi khi tôi đi qua đó không?

— Chắc thầy giáo nhầm lẫn rồi. Nhìn từ đây thì chẳng có ai đến cả.

Trên đường trở về, người giáo viên yêu cầu tôi không nói gì về sự việc vừa xảy ra.

Chiều hôm sau, người ta yêu cầu tôi ăn mặc thích hợp. Người ta sẽ dẫn chúng tôi tới Tel Aviv. Mỗi đứa chúng tôi sẽ theo dõi một toà nhà ở đó. Chúng tôi phải ghi lại bằng chữ tất cả những gì chúng tôi sẽ lưu tâm. Chúng tôi cũng phải bịa ra một câu chuyện để minh chứng cho sự có mặt của chúng tôi tại những địa điểm đó.

Khoảng hai mươi giờ, hai người đưa tôi vào thành phố trên một chiếc xe nhỏ. Một trong hai người đó là Shai Kauly, một katsa kỳ cựu có nhiều sứ mạng trong bảng thành tích của mình (xem trong chương I, phần 3: Les Strella). Họ để tôi tại một chòm nhà trên đường Dizengoff, trục đường chính của Tel Aviv, và ra lệnh cho tôi theo dõi ngôi nhà năm tầng, ghi chép những người ra vào, giờ vào, giờ ra, mô tả những con người đó, ánh đèn còn chiếu và khi ánh sáng tắt vào lúc mấy giờ. Họ nói với tôi là sẽ đến đón tôi muộn và bảo tôi nhận ra ám hiệu quy định bằng pha đèn.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là giấu mình vào đâu đó. Đúng, nhưng ở đâu? Người ta lại yêu cầu tôi đứng nhìn. Ai đó sẽ ra vào? Đột nhiên tôi có ý nghĩ: Ngồi phệt xuống đất và vẽ ngôi nhà. Tôi ghi chép các thông tin bằng tiếng Anh, viết ra mặt sau để che giấu ý nghĩa. Nếu như có ai đó hỏi rằng tôi đang làm gì, thì tôi trả lời tôi vẽ cảnh ban đêm bởi vì những vui chơi, giải trí cũng thưa thớt, và ánh sáng không quan trọng lắm khi người ta vẽ chỉ có màu đen trắng.

Khoảng nửa giờ thì có một chiếc xe đến đỗ cách tôi vài bước chân với tiếng lốp xe phanh gấp. Một người đàn ông bước xuống xe và giơ cho tôi xem chiếc phù hiệu.

— Ông là ai? - Người đó hỏi tôi.

— Simon Lahav.

— Ông làm cái gì ở kia?

— Tôi đang vẽ.

— Một người hàng xóm ở đây phàn nàn. Người ta khắng định là ông đang theo dõi nhà băng.

Thực tế là ở tầng một có nhà băng.

— Tôi không làm gì cả, tôi đang vẽ - Tôi phản ứng đồng thời đưa tờ giấy mình vẽ ra - Các ông hãy xem đây.

— A lê, không lộn xộn gì nữa. Tôi bắt giữ anh.

Họ tống tôi lên xe. Hai cảnh sát giữ tôi. Đó là một chiếc xe Ford áp giải bình thường. Khi đẩy tôi xuống chiếc ghế phía sau, tôi nghe thấy viên cảnh sát ngồi cạnh tay lái xe thông báo việc bắt giữ tôi bằng vô tuyến điện. Viên cảnh sát không ngớt hỏi tôi là ai. Tôi hai lần trả lời “Simon”.

Rồi người này quay lại, vì tôi vừa mới nói, nên viên cảnh sát ngồi cạnh tát tôi một cái.

— Câm mồm! - Hắn ta hét lên.

— Nhưng ông ta hỏi tôi - Tôi phản kháng lại.

— Người ta không hỏi gì cả đâu mà trả lời.

Tôi làm như thằng điếc - Thế thì những giáo viên của tôi đi qua đâu? - Viên cảnh sát bắt giữ tôi hỏi tôi từ đâu tới. Tôi trả lời ông ta là từ Holon, nhưng viên cảnh sát ngồi trước đập một cái vào trán tôi.

— Tôi hỏi tên anh - Hắn gào the thé, nước bọt bắn tung ra. Tôi lặp lại, tên tôi là Simon. Và từ Holon tới. Khi đó, người ngồi cạnh ghê tôi cười ở lên:

— A, tên này là một gã ma lanh!

Đến đó, hắn ta tháo một sợi dây buộc và khoá tay tôi về phía sau lưng. Hắn thả một chuỗi lời nguyền rủa và đối xử với tôi rất bẩn thỉu.

Tôi cam đoan là tôi chỉ ngồi vẽ. Rồi hắn ta hỏi nghề nghiệp của tôi là gì và tôi trả lời hắn tôi là một nghệ sỹ.

Vừa lái xe, gã tài xế vừa quay lại báo cho tôi biết người ta sẽ chăm sóc tôi và tôi sẽ biết thế nào là đau đớn. Một trong số họ giật lấy những bức vẽ của tôi, vò nhàu chúng rồi ném xuống ghế. Sau đó, họ ra lệnh cho tôi cởi giày. Việc đó quả là khó, vì tôi bị khoá tay.

— Anh giấu thuốc phiện ở đâu? - Một người hỏi.

— Thuốc phiện nào cơ? Tôi không hiểu! Tôi là một nghệ sỹ, không có gì khác nữa.

— Nếu anh không nói bây giờ thì tí nữa sẽ phải nói, anh hãy tin lời tôi.

Và những loạt mưa roi tuôn xuống. Tôi thấy hàm mình bị một cú móc mạnh và tôi tin là đã gãy một chiếc răng.

Người ngồi cạnh gã tài xế túm cổ tôi kéo lại phía hắn, gầm lên, vẻ dọa nạt hiện lên mặt, bắt tôi khai giấu thuốc phiện ở đâu. Trong khi đó, xe chạy qua thành phố mà không có một mục đích nào.

Phải chăng họ hoạt động do tính tàn bạo đơn thuần? Tôi đã nghe nói về những câu chuyện như ở trên. Người ta lượm một người trên đường phố và ra sức hành hạ người ấy. Càng ngày, càng thấy lo lắng, tôi đề nghị người ta đưa tôi đến sở Cảnh sát để tôi có thể gọi một luật sư biện hộ.

Sau một giờ lo liệu, một trong số họ hỏi tôi tên phòng tranh mà tôi có trưng bày ảnh. Vì tôi biết tất cả các phòng tranh ở Tel Aviv và vào giờ này các nơi đó đóng cửa cả, nên tôi chỉ nói với họ tên một phòng tranh. Tới trước một tủ kính, do tay vẫn bị trói, tôi kêu lên và dùng đầu chỉ địa điểm:

— Chính nơi đó! Tranh của tôi trưng bày ở đó!

Thật tồi tệ là tôi không có căn cước. Tôi khẳng định là tôi quên căn cước ở nhà. Họ lột quần của tôi để tìm thuốc phiện. Tôi không đem theo thứ đó, thế rồi họ bớt căng thẳng hơn và hình như tin tôi. Tôi nói với họ là tôi muốn quay trở lại chỗ cũ, vì người ta sẽ đến đó đón tôi, nhưng tôi không biết đường. Tôi tuyên bố là tôi không có tiền và một người bạn sẽ qua đón tôi sau đó.

Họ đưa tôi đến chỗ tôi bị bắt và cho xe đỗ vào gần điểm chờ ô tô buýt. Một trong số những gã cảnh sát lượm những bức vẽ của tôi và quăng ra cửa xe. Họ cởi khoá tay cho tôi bắt ngồi đợi trong xe. Họ sửa lại báo cáo. Một chiếc xe buýt đến. Người ngồi cạnh tôi đẩy tôi ra khỏi xe và tôi lăn xuống đất. Họ ném cho tôi đôi giày và cái quần rồi phóng xe đi, không quên ra lệnh cho tôi phải đi ngay trước khi họ quay trở lại.

Tôi ngồi bệt xuống đất, không mặc quần, hổ thẹn vì những cái nhìn của khách qua lại đang xuống xe buýt. Nhưng điều cần thiết là phải thu lại các bức tranh. Khi tôi làm xong thì cũng như tôi đã leo lên tới đỉnh dãy núi Evrest. Ôi, cảm giác của người chiến thắng!

Ba mươi phút sau, mặc quần áo vào, tôi quay lại nhiệm sở khi nhận ra tín hiệu pha đèn gọi. Tôi leo lên xe và người ta đưa tôi về Câu lạc bộ Tổ Quốc, nơi tôi phải tu sửa bản báo cáo. Mãi về sau này, tôi có bổn phận tìm lại ba người “cảnh sát” kia.

Tất nhiên họ không phải là cảnh sát, và hình như các tân binh khác cũng chịu những thử thách như tôi tối hôm đó.

Một trong số những người xin vào làm việc, đứng chầu trực dưới một gốc cây, bị mấy viên thanh tra ghé sát vào hỏi. Được yêu cầu giải thích sự có mặt của mình, anh ta trả lời rằng đứng quan sát những con chim cú. Khi người ta lưu ý với anh ta rằng ở đây không có con chim cú nào, anh ta vặn lại:

— Rõ ràng là các ông đã làm cho chúng khiếp sợ.

— Người ta có quyền đi dạo chơi trên xe, anh ta cũng vậy.

Một anh chàng khác cũng bị “bắt” trong Quảng trường Kiker Hamdina nổi tiếng, nơi mà người ta thường so sánh nó với quảng trường của nước Israel, về mùa hè, rạp xiếc đặt ở đó, và về mùa đông, người ta lội bì bõm trong những vũng bùn nước. Lớp tân binh có ít mánh khoé. Họ nói với cảnh sát là họ đang làm nhiệm vụ đặc biệt, rằng họ là những người do Mossad tuyển dụng và người ta đang đưa họ đi thực hiện các bài thi. Vì thế họ bị đánh trượt.

Thực ra, chỉ có duy nhất một nữ tân binh mà sau này tôi gặp lại là một trong hai người nữ dự tuyển, là giáo viên dạy bơi ở bể bơi của Mossad vào ngày nghỉ cuối tuần, khi các gia đình của nhân viên Mossad được quyền tới đó.

Ngày thứ ba, sau bữa ăn sáng, người ta đưa chúng tôi vào Tel Aviv một lần nữa. Thử thách đầu tiên của tôi là đi vào một cửa hiệu ăn, bắt chuyện với một người đàn ông mà họ chỉ định cho tôi từ xa, và hẹn gặp ông ta vào ngay buổi chiều hôm đó. Tôi nghiên cứu nơi đến trước khi vào và chú ý thấy người phục vụ ân cần chăm sóc, phục vụ người đàn ông đó. Tôi suy ngẫm có thể đấy là ông chủ. Tôi tiến đến ngồi vào bàn bên cạnh và liếc thấy ông ta đang đọc một tạp chí điện ảnh.

Việc đó đã khẳng định thêm sự suy đoán của tôi. Tôi nói với người phục vụ là muốn nói chuyện với ông chủ, và tôi là một nhà điện ảnh muốn dùng cửa hiệu ăn làm nền cho một bộ phim. Tôi chưa nói dứt lời, thì ông chủ đã đến ngồi ở bàn tôi. Tôi nói ngay là tôi đang bận vì một công việc phải làm. Chúng tôi đi đến thống nhất là hẹn gặp lại nhau vào buổi chiều, rồi chúng tôi bắt tay nhau. Tôi rời khỏi cửa hàng.

Sau đó, người ta dẫn cả mười người chúng tôi ra một công viên, ngay cạnh đại lộ Rothschild, nơi chúng tôi phải theo dõi sự đi lại của một người cao to khỏe mạnh choàng một chiếc áo vải ca rô màu đen và trắng. Chúng tôi tiến hành việc theo dõi một cách bí mật. Không dễ gì tiến hành theo dõi bí mật khi chúng tôi có mười người, nhất là lại có hai mươi người khác đang quan sát chúng tôi. Khắp nơi đều có những người đứng trên ban công, sau những rặng cây, ở mọi góc phố. Nhưng các giáo viên, những người đang sát hạch chúng tôi, lại muốn biết trước hết là các ứng tác và phương pháp của chúng tôi.

Bài thi này kết thúc và chúng tôi viết sửa báo cáo. Họ phân riêng từng người chúng tôi ra. Lần này, tôi còn được đưa tới đường Ibn Gevirol, nhưng trước Ngân hàng Hapoalim. Người ta yêu cầu tôi vào đó hỏi tìm tên ông giám đốc, địa chỉ riêng của ông ta và tập hợp được những thông tin một cách đầy đủ về ông ta.

Các bạn nên nhớ rằng ở Israel, mọi người đều dè chừng với tất cả và với bất cứ thứ gì. Tôi thâm nhập vào ngân hàng và hỏi một nhân viên ở bên cạnh về tên của ông giám đốc. Người đó nói tên và chỉ cho tôi văn phòng ông giám đốc ở tầng hai. Tôi lên đó và yêu cầu được gặp ông ta với yêu cầu là tôi đã sống lâu năm ở Hoa Kỳ, bây giờ tôi mong muốn trở về sống ở Israel. Tôi muốn chuyển một khoản tiền lớn vào một tài khoản mới.

Bước vào phòng, tôi lưu ý ngay tới tấm biển của B’Nai Brith trên bàn người thư ký của ông (B’Nai Brith, tiếng Do Thái nghĩa là: Fils de alliance - Những đứa con của Liên minh, được thành lập năm 1843 tại Hoa Kỳ, để giúp những người mới nhập cư. Ngày nay, Tổ chức này có mặt tại 45 nước và bao gồm khoảng 100.000 nhân viên). Tôi bắt đầu ngay câu chuyện đã nói trên và điều bất ngờ lớn nhất đó là ông giám đốc mời tôi tới nhà ông. Chẳng bao lâu sau, ông ta được chuyển sang làm phó giám đốc tại New York. Chúng tôi trao đổi địa chỉ với nhau rồi tôi hứa sẽ trở lại thăm ông ta. Tôi cũng nói trước với ông ta là tôi chưa có số điện thoại, vì tôi ghé dừng chân ở đây, nhưng tôi sẵn sàng gọi điện cho ông, nếu ông cho tôi số điện thoại.

Các thể thức chuyển tiền mất chừng mười lăm phút thảo luận, sau đó, chúng tôi nói chuyện phiếm. Trong gần một giờ đồng hồ, tôi đã hiểu tất cả về ông giám đốc ngân hàng.

Sau bài kiểm tra này, người ta đưa tôi đến Khách sạn Tal cùng với hai người mới tuyển nữa, và người ta lệnh cho chúng tôi phải chờ những người khác. Chúng tôi ngồi đợi chừng mười phút, thì có sáu người đàn ông đi vào phòng đợi.

— Chính người đó - Một trong hai người mới tuyển nói và giơ tay chỉ cho tôi.

— Hãy đi theo chúng tôi - Người kia nói.

— Sẽ diễn ra cái gì đây? - Tôi lấy làm ngạc nhiên - Tôi chẳng làm cái gì cả.

— Nào đi, ba người các anh, hãy theo tôi. Người thứ ba ra hiệu và dằn giọng.

Họ cho chúng tôi lên một chiếc xe tải nhỏ, bịt mắt chúng tôi lại. Chiếc xe nổ máy đi. Chà, lại bắt đầu một cuộc viễn du lộn xộn qua thành phố đây. Cuối cùng, chúng tôi đã đến một ngôi nhà, nhưng vẫn bị bịt mắt. Tới đó, họ phân chia chúng tôi ra. Bị nhốt vào trong một phòng hẹp, tôi chỉ nghe thấy tiếng động của người đi, lại Sau hai hay ba giờ gì đó, người ta tháo băng bịt mắt và bảo tôi đi ra. Tôi được ngồi trên một chiếc ghế văn phòng trong một phòng tắm nhỏ. Khi đó, tôi không biết đây là đâu nhưng sau này, tôi được biết rằng đó là tầng hai của Viện Hàn lâm (Trường huấn luyện của Mossad). Người ta đưa tôi vào một phòng có cửa sổ không mở được, do một người to lớn chiếm giữ. Ông có một điểm đen trong con mắt khiến người ta tưởng rằng có hai con ngươi. Ông bắt đầu hỏi một cách nhẹ nhàng: Tên tôi là gì? Tại sao tôi lại điều hành điện thoại của khách sạn? Phải chăng tôi dự tính một mưu đồ phá hại gì? Địa chỉ của tôi ở đâu?

Sau hàng loạt câu hỏi như vậy, ông ta nói sẽ tháp tùng tôi về nhà tôi, thế là tôi phá lên cười. Vì ông ta hỏi có điều gì làm cho tôi vui nhộn, tôi giải thích cho ông ta rằng tôi nhận thấy tình huống nực cười. Thực ra, tôi tự thấy mình đang đi đến một vùng đất hão huyền nào đó, rồi thốt lên: “Nhà tôi! Nhà tôi qua đâu rồi?”. Tôi không thể kiềm chế được tiếng cười của mình.

— Tất cả những việc này nghĩa là gì? - Tôi ngạc nhiên tự hỏi - Các anh muốn gì ở tôi?

Ông ta lấy chiếc áo vét Pierre Balmain của tôi. Sau đấy, tôi bị cởi hoàn toàn quần áo. Người ta đến thu nhận tôi, trần truồng trong phòng tắm, và trước khi đóng cửa, người ta đổ một xô nước vào người tôi.

Tôi đứng đó, trần truồng, run rẩy mất chừng hai mươi phút. Cuối cùng tôi trở lại phòng của con người dễ sợ kia. Ông ta đón tôi một mình:

— Thế nào? Anh luôn luôn muốn cười phải không?

Người ta đưa tôi vào một phòng làm việc trong một phòng tắm nhỏ tới sáu lần. Mỗi lần, họ đập cửa phòng làm việc, tôi lại trốn xuống gậm bàn.

— Xin lỗi, chúng tôi làm sai - Cuối cùng ông ta thông báo.

Người ta đem trả quần áo cho tôi và hứa đưa tôi về khách sạn. Họ bịt mắt chúng tôi, đẩy lên xe.

Khi người lái xe nổ máy đi, một ai đó kêu lên:

— Đợi đã! Hãy đón nốt nó!

— Chắc là anh nhầm -Tôi phản ứng, và một lần nữa, họ nhốt tôi vào phòng tắm.

Hai mươi phút qua đi, họ lại đưa tôi vào phòng làm việc.

Với vẻ đau buồn, người đàn ông to lớn kia xin lỗi. Đó là một lỗi lầm.

Họ để tôi trước cửa Câu lạc bộ Tổ Quốc và một lần nữa xin lỗi rồi ra đi.

Buổi sáng ngày thứ tư, người ta lại đưa chúng tôi đến một phòng làm việc, từng người vào một.

— Sao, anh đang nghĩ gì? Anh có tin là anh sẽ trúng tuyển không? - Họ hỏi tôi.

— Tôi không biết gì về việc đó- Tôi trả lời - Tôi không biết các ông mong đợi gì ở tôi. Tôi đã làm hết sức tất cả những gì tôi có thể.

Tôi chỉ ở trong phòng làm việc vài phút, còn những người khác sau nửa giờ mới ra. Cuối cùng, người ta nói với chúng tôi:

— Cảm ơn tất cả. Chúng tôi sẽ gọi đến các anh.

Và thế là hai tuần sau điều đó đến với chúng tôi. Tôi nhận được một giấy triệu tập để có mặt vào đầu giờ sáng hôm sau.

Tôi đã trúng tuyển! Bây giờ, mọi việc nghiêm túc sẽ bắt đầu.