Chương 2 Bộ Tóc Giả.
Ngày 27 tháng 10 năm 1984, chúng tôi kết thúc tập sự ở Tổng hành dinh. Chúng tôi bắt đầu giai đoạn cuối cùng trong công việc đào tạo của mình. Những bài học sẽ được thực hiện ở tầng hai của toà nhà chính thuộc Viện Hàn lâm. Chúng tôi không còn đủ 12 người nữa, bởi 3 người đã bỏ. Khoá học hiện không còn sỹ số như trước, vì vậy, Viện Hàn lâm quyết định ngưng khóa đào tạo. Ba người bạn học mới của chúng tôi là: Oded L., Pinhas M. và Ygal A.
Nhưng không phải chỉ có thay đổi như thế.
Araleh Sherf, đã rời bỏ chức vụ phụ trách Viện Hàn lâm để phụ trách Tsafrirm, hay còn gọi là “Gió Brizơ buổi sáng” (bộ phận này nhóm họp các tổ chức phòng vệ của người Do Thái di tản), đã được thay thế bởi David Arbel, ông chủ cũ của văn phòng Paris, mới thoát khỏi vụ làm ăn Lillehammer đáng xấu hổ mà trong vụ này, ông ta đã làm lay động tất cả cái gì mà ông biết đối với những nhà chức trách địa phương. Shai Kauly, vẫn luôn ở đấy, nhưng Oren Riff đã chuyển sang Văn phòng của Mossad. Người chịu trách nhiệm mới của chúng tôi là Itsik E (xem Phần mở đầu và Chiến dịch Sphinx), là một katsa có nghề nghiệp, ít vinh quang - một trong hai katsa mà câu chuyện ở sân bay Orly đã nêu, sau khi đã để vào trong máy bay của Rôm một điệp viên quan trọng, đã bị bắt vì những thành viên của PLO nói tiếng Hébreu.
Arbel, một người thấp, rụt rè, luôn đeo kính, tóc trắng, cắt ngắn, không lộ vẻ tự tin mấy. về phần mình, Itsik tỏ cho thấy là một người có khả năng, vừa trở về từ một sứ mệnh mà ông ta giữ cương vị người thứ hai của chi nhánh Paris, ông nói thành thạo tiếng Anh, Pháp và tiếng Hy Lạp, và kết thân ngay với Michel M. Hai người nói chuyện hoàn toàn bằng tiếng Pháp và hầu như không rời nhau, điều này làm tăng thêm ác cảm của Michel đối với các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên, anh ta vẫn là thành viên trong nhóm của chúng tôi, nhưng không chỉ đánh bóng cho những sự khoa trương của Itsik, mà anh ta còn gièm pha những người khác, trong đó có cả chúng tôi. Vì thế, chúng tôi đã gạt anh ta ra ngoài và đối xử với anh ta như “con ếch” (Grenouille là cái tên mà những người Anglo- Saxon dùng để nhục mạ những người Pháp sau lưng họ). Ngay từ khi người ta nhìn thấy Michel đến, họ đã tỏ bằng điệu bộ cái chân của con ếch nhẩy. Michel nói đến chán tai với chúng tôi về kiểu nấu ăn Pháp, rượu Pháp, các kỹ xảo và các máy móc Pháp của anh ta. Song, chúng tôi lại không chán câu chuyện này: Một người Israel đi vào một quán ăn Pháp và hỏi một chàng trai:
— Này, chàng trai! Các anh có đùi ếch không?
— Dạ, thưa ông dĩ nhiên là có ạ.
— Hay lắm. Hay lắm, vậy thì hãy nhảy vào bếp và mang ra đây cho tôi câu chuyện hài hước đi.
Yosy, Heim và tôi, chúng tôi luôn luôn bên nhau, rồi dần dần trở thành tàn bạo và xấu, hoàn toàn đểu giả. Có thể tất cả mọi người đều biết. Giáo viên huấn luyện của chúng tôi cho biết, chúng tôi sẽ chuyển sang những sự việc nghiêm túc hơn, vì cho tới lúc này, chúng tôi mới chỉ nghiên cứu được B.A.BA của ngành Tình báo.
Nahaman Lavy và một người có tên gọi là Tal bắt đầu chiếu các phim do Mossad quay cho chúng tôi xem, và kể câu chuyện về một trận đánh bị thất bại vì quên không đóng sắt vào móng ngựa của người chỉ huy. Tinh thần câu chuyện là: Một sự cẩu thả nhỏ, cũng có thể làm thất bại một cuộc hành quân.
Sau việc này, thầy giáo hướng dẫn NAKA. Ury Dinure đã giảng cho chúng tôi một bài dài chừng một giờ. Chúng tôi cũng đã bắt đầu một khoá đào tạo cấp tốc về thương mại quốc tế, bao gồm cả việc lãnh đạo xí nghiệp, cách mua bằng gửi thư, cơ cấu lãnh đạo, những quan hệ giữa lãnh đạo và các cổ đông, vai trò của Chủ tịch Hội đồng hành chính, hoạt động của tín phiếu, chuẩn bị các hợp đồng quốc tế, thanh toán đối với việc giao hàng, và tất cả những cái mà chúng tôi phải biết. Những bài học này được trải dài suốt thời kỳ khoá học cuối cùng của chúng tôi, với nhịp độ mỗi tuần hai hay ba lần, mỗi lần trong hai giờ, không tính đến rất nhiều bài thi kiểm tra và các giấy tờ phải hoàn chỉnh.
Itsik đã cho chúng tôi một bài tập để chúng tôi học sử dụng tốt hơn những điệp viên của mình. Một việc mới, là làm thế nào để thoát ra khỏi một điệp viên nguy hiểm, trong trường hợp chúng tôi không thể nhờ cậy được vào Metsada để gửi cho chúng tôi một đơn vị kidom. Họ chia chúng tôi thành 3 nhóm 5 người. Mỗi nhóm làm việc về một “chủ đề”, tập hợp những tin tức cần thiết với việc loại bỏ chủ đề trong tương lai.
Nhóm của chúng tôi đã gặt hái được những thông tin nói trên trong 3 ngày. Chỉ duy nhất có một việc có thể phục vụ cho chúng tôi là chủ đề: Hàng ngày mua hai bao thuốc lá, ở cùng một cửa hiệu thuốc lá, và luôn luôn vào cùng một thời gian là mười bảy giờ ba mươi. Nó đã được điều chỉnh như một cái đồng hồ, cửa hiệu cửa hàng thuốc lá, là một nơi lý tưởng để tiếp đón. Ngồi phía sau cùng với một bạn tập sự, do lái xe đưa đi, tôi gọi người điệp viên của mình mà người này biết katsa của họ, đang leo lên chiếc xe bên cạnh xe chúng tôi. Chúng tôi khỏi thành phô, tới một địa điểm thích hợp. Tại đây, chúng tôi dùng cây hoàng mộc đánh nó. Tất cả những điều này, dĩ nhiên chỉ là giả vờ thôi.
Phần còn lại của kế hoạch là hoá trang tội ác bị tai nạn. Trước đây, khi đã giấu chiếc xe của nạn nhân vào bờ đá, gần biển rồi, chúng tôi có thể chuyển nạn nhân bất tỉnh vào trong chiếc xe của họ, để họ ngồi bên vô lăng. Rồi đổ rượu vốt ka vào trong cuống họng nạn nhân (rượu này dễ cháy), nhờ một chiếc phễu làm bằng một tờ báo. Tiếp đó, sau khi đã chờ đợi cho rượu ngấm vào máu, đồng thời nghĩ tới việc mổ xác để nghiên cứu, chúng tôi đã đổ nốt chỗ rượu còn lại vào chỗ ngồi của nạn nhân, để một chiếc bật lửa và một điếu thuốc lá đã hút dở bên cạnh nạn nhân. Những chi tiết này dường như cắt nghĩa cho nguyên nhân của việc bị cháy. Ngay khi ngọn lửa bén vào nạn nhân, theo dự tính, người ta sẽ đẩy chiếc xe xuống bên dưới bờ vực.
Một tổ khác cho thấy “chủ đề” của họ là thích đi đến câu lạc bộ, vào tất cả các buổi tối. Họ chấp nhận một chiến thuật trực tiếp hơn. Họ đi gặp nạn nhân khi họ tới câu lạc bộ, bắn những đường đạn vô hại vào người anh ta rồi nhảy lên xe và chuồn đi một cách thật đơn giản.
Cũng trong cùng thời gian đó, chúng tôi hoàn thiện nghệ thuật làm vỏ bọc, đồng thời học làm thế nào để sử dụng được các hộ chiếu khác nhau. Họ thả chúng tôi ra đường cùng với một chiếc hộ chiếu. Ngay tức khắc, chúng tôi bị bắt tại đó. Chúng tôi chịu những cuộc thẩm vấn liên tục. Họ để cho chúng tôi bị theo dõi, một bodel ghé sát vào chúng tôi và trao cho chúng tôi hộ chiếu mới, rồi vù ngay. Một gã cảnh sát khác lại bắt chúng tôi, và chúng tôi phải chứng minh cho chiếc hộ chiếu mới của mình.
Họ cho chúng tôi làm quen với Tsafririm và các tổ chức quốc phòng được Do Thái đẻ ra từ những người di tản. Cái đó đã đặt ra một vấn đề về tinh thần, chí ít cũng đối với một số người. Tôi phản đối chống lại ý tưởng của những đội tự vệ. Chẳng hạn, tôi nghĩ tại nước Anh, những tổ chức mà bọn trẻ con phải học là xây dựng những nơi cất giấu vũ khí, và học bảo vệ những đền thờ của người Israel, làm cho người ta hiểu nhầm về cộng đồng người Do Thái. Lập luận của tôi như sau: Ngay cả một dân tộc đã từng bị áp bức, từng bị người ta tìm cách loại bỏ - như trường hợp của người Do Thái - thì dân tộc đó cũng không có quyền hành động, chống lại luật pháp, trong các nước dân chủ. Tôi hiểu rằng người ta đang bảo vệ ở Chile, ở Argentine, trong tất cả các nước mà ở đó con người bị bắt cóc ngay trên đường phố, nhưng ở Anh, Pháp hay ở Bỉ lại không có những trường hợp đó.
Sự tồn tại của những nhóm nhỏ chống Do Thái, có thực hoặc tưởng tượng, không phải là lý do để thoái thác, người ta sẽ nhận thấy có những nhóm chống người Palestine ngay ở trong nước Israel. Liệu chúng ta có cho là bình thường khi có biết bao người Palestine tổ chức thành những đơn vị tự vệ và tàng trữ vũ khí không? Hay, chúng ta xem họ như những người của chủ nghĩa khủng bố?
Loại lập luận này chắc chắn không được đánh giá cao ở Mossad, nhất là trong bối cảnh của sự hi sinh vì Tổ Quốc. Tôi không phản đối sự hi sinh là tồi tệ nhất trong các tai họa mà người Do Thái đã phải gánh chịu. Cha Bella đã trải qua 4 năm trong trại tập trung Auschwitz và hầu hết cả gia đình cha đã bị người Đức trừ khử. Nhưng không nên quên rằng còn 50 triệu nạn nhân khác. Người Đức mưu tính triệt hạ hết những người Tziganes, và các cộng đồng tôn giáo khác, hàng triệu người Nga, người Ba Lan. Sự hi sinh có thể, hoặc phải là cái cớ để tập hợp mọi dân tộc lại, hơn là lấy nó làm cái cớ để chia rẽ họ. Và đấy chính là quan niệm đúng đắn của tôi.
Những hoạt động thể thao đã được dùng làm tình huống nguy hiểm hết mức, đặc biệt với một loại thể thao mới: Chúng tôi đang đi trong toà nhà của một trại quân sự gần Herzliya, chúng tôi phải đi lên và đi xuống cầu thang đó, vừa đi, vừa bắn đạn thật, trong khi đó, một khẩu súng máy bắn vào chúng tôi những viên đạn bằng gỗ, rất đau. Tất cả những cái đó, bắt chúng tôi phải vừa bắn, vừa nhảy xuống, bắt chúng tôi phải bảo vệ vũ khí của mình, ngoài việc luyện tập thể thao.
Chúng tôi cũng luyện tập hiệu lệnh, tập trượt trên một sợi dây dài, nhảy băng qua mặt trước của một ngôi nhà, tập xuống máy bay trực thăng bằng thang dây, rồi những kỹ thuật khác, như kỹ thuật được gọi là “nhảy và bắn” ứng dụng để chống lại một tên “cướp” đang ở trong chiếc ô tô ca.
Một trong những bài học của chúng tôi có tựa đề: “Tuyển mộ một điệp viên chung với một người bạn làm nghĩa vụ quân sự”, với CIA chẳng hạn. Đó giải thích vì sao người ta gọi là tuyển mộ lẫn nhau. Sau lời giới thiệu cho bài giảng của mình, thầy giáo đã tuyên bố với chúng tôi:
— Người ta đã thực hiện ra sao? Đương nhiên, người ta chả làm gì cả. Chúng ta không áp dụng việc tuyển mộ này. Nếu người ta đề nghị chúng ta chia sẻ những công việc làm của một điệp viên, tại sao lại không, nhưng nếu chúng ta có thể tự mình làm được thì hãy làm lấy.
Ông dạy chúng tôi làm thế nào để cài cắm một điệp viên vào cơ quan của bạn. Trước hết ngay từ lúc có thể, người ta giao cho người điệp viên những chỉ thị riêng, vả lại những chỉ thị đó được gửi cho họ trước, rồi khẳng định khi ở bên cạnh cơ quan của bạn, không còn để dấu vết gì lại cho người điệp viên. Thật đơn giản, nếu đánh giá rằng người điệp viên đáng làm việc đó, người ta sẽ làm cho người điệp viên biến mất bằng cách giao trách nhiệm cho người điệp viên làm việc hai mang với những việc mà cơ quan khác trả lương. Và thế là người đó trở thành điệp viên của chúng ta, loại điệp viên mà chúng ta gọi là điệp viên “xanh và trắng”, theo màu cờ của Israel.
Một bộ phim làm tôi phải suy nghĩ. Phim có tiêu đề Ngài Tổng thống sau chiếc kính chiếu chi tiết vụ ám sát John F. Kennedy, ngày 22 tháng 11 năm 1963. Theo Mossad, những kẻ ám sát - là những sát thủ của Mafia và không phải Lee Harvey Oswald thực ra muốn hạ sát Thống đốc bang Texas, John Connally, người tháp tùng Kennedy trong xe, nhưng ông này chỉ bị thương. Văn phòng nghĩ rằng Oswald là một con mồi giả thôi, và Connally, mục tiêu thật của một băng, tìm kiếm việc mở ra con đường trong việc làm ăn về dầu hoả. Mossad nắm giữ bản giải trình chính thức đối với chuyện tầm phào thuần tuý này. Để thẩm tra, về lý thuyết người ta dựng lại cảnh diễu hành của Tổng thống và bố trí, sắp đặt những tay xạ thủ giỏi, được trang bị vũ khí có tiêu chuẩn cao hơn vũ khí của Oswald, ở khoảng cách thực là 80 m. Những tay xạ thủ này đã bắn trượt mục tiêu.
Thật là hoàn hảo nếu Connally bị giết, thì tất cả mọi người sẽ nghĩ ngay tới mục tiêu là Kennedy. Tuy nhiên, nếu họ muốn giết Kennedy, thì họ có thể giết ông ta ở bất kỳ đâu. Người ta nói rằng, viên đạn chạm tới Connally đã vượt qua đầu của Tổng thống, xuyên qua ngực để đập vào người của viên Thống đốc. Trong khi xem phim, người ta thấy rõ rằng ba điểm được nêu trên không thẳng hàng. Viên đạn này thực sự là một vũ nữ nhảy valse.
Mossad lưu giữ tất cả những phim về cuộc ám sát Dallas, những tấm ảnh của vùng đó, địa hình những nơi xảy ra, những tấm ảnh chụp từ máy bay. Người ta chế tạo ra những hình mẫu người và bắt đầu với một số lần không thể tính toán nổi dựa vào kinh nghiệm của cuộc diễu hành với lý do sau đây: Nếu sử dụng khẩu súng có độ chính xác cao, tôi có thể đứng ở bất cứ vị trí nào. Tôi chọn một địa điểm, từ đó, có thể nhận ra mục tiêu trong thời gian có thể lâu nhất, ở khoảng cách có thể là ngắn nhất, đồng thời tránh để người ta chú ý tới mình. Với những dữ liệu này, Mossad đã chọn những điểm bắn thích hợp, để từ đó, nhiều xạ thủ sẽ cùng bắn đồng loạt.
Oswald đã dùng khẩu súng có culasse Mannlicher - Carcano, cỡ đạn 6,5mm, có băng nạp đạn và có kính ngắm bắn xa, mà ông ta đã mua qua đặt hàng để người ta chuyển tới. Ông ta đã chọn trong catalogue, và đã trả 21 đô la 45 xu. ông ta cũng có một khẩu súng lục Smith&Wesson cỡ đạn 38. Ông ta không bao giờ biết mình bắn hai hoặc ba phát, nhưng ông ta sử dụng đạn thông thường của quân đội, có tốc độ ban đầu là 660m/giây.
Trong lúc dựng lại, những người xạ thủ của Mossad với mức độ mạnh hơn, nhằm mục tiêu, súng của họ được gắn vào một chân ba chạc, rồi hét qua micro “bắn” để phát ra một tia la-de xác định sự tác động của viên đạn lên cơ thể con người lên xe và xác định điểm xuyên qua. Phân tích những màn dựng lại nhiều lần, chỉ cho thấy rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, kẻ sát thủ đã nhắm vào gáy Connally, và Kennedy đã có một động tác, hay một hoạt động đúng vào lúc xấu số đó, ở chừng mức nào đó người bắn đã có do dự.
Đấy cũng chỉ là dựng lại, nhưng màn dựng lại cho thấy rằng Oswald đã không thể hành động như người ta dự định. Thậm chí ông ta cũng không phải là một người chuyên nghiệp. Hãy nhìn với khoảng cách đó, người ta ở trên tầng sáu, hãy nghiên cứu khẩu súng của anh ta. Anh ta không dùng loại đạn được tăng cường sức mạnh. Các anh hãy suy nghĩ xem, đúng là khẩu súng vừa mua. Mọi người đều biết rằng anh ta cần phải có thời gian và sự khéo léo để làm quen với việc bắn có kính ngắm. Không, việc giải thích chính thức đúng là không thể tưởng tượng được.
Một vụ khác, tôi thấy không thể tưởng tượng, đó là vụ do Dan Drory giới thiệu, một buổi sáng đẹp trời, vào cuối tháng đầu của khoá học. Là một người không quá một mét bẩy mươi, ông ta bắt đầu bài học theo cách như sau:
— Chào các bạn, tên tôi không quan trọng, tôi tới đây để nói với các bạn về một hoạt động, mà tôi đã tham gia cùng với một người gọi là Amikan. Thời kỳ đó, tôi làm việc cho một đơn vị kindon, và đơn vị tôi nhận được lệnh phải giết người phụ trách đại điện của Palestine ở ATen và người trợ lý của ông ta. Amikan là một người khổng lồ, cao hai mét, rất mê tín.
Hoạt động mà Dan Drory kể lại cho chúng tôi, gọi là PASAT, và là một thắng lợi của Mossad vào giữa những năm 70.
Một cách thấy rõ là Dan Drory yêu công việc của ông ta: Ông ta rút trong chiếc cặp mang theo một khẩu súng lục Đức, Parabelum, tương tự như khẩu Luger, và đặt lên trước mặt bàn.
— Tôi rất quý thứ này… Và, cái này cũng vậy - Ông ta vừa nói, vừa rút ra một khẩu Eagle, một súng của Israel có hệ thống làm mát - nhưng người ta cấm đeo nó bên mình. Ngược lại, khẩu súng này, tôi lại có quyền được sử dụng (lúc đó, ông ta giới thiệu với chúng tôi một khẩu Bretta 22). Và với khẩu súng này, không cần bộ phận giảm thanh.
Ông ta dừng lại một lúc, rồi chìa ra một con dao găm lưỡi lê mà lưỡi dao bấm về phía trước, vuốt đầu thành một mũi nhọn sắc.
Đây là cái mà tôi ưa thích nhất. Khi các anh rút con dao khỏi người bị đâm, miệng vết thương khép lại và ngưng không cho máu chảy ra. Ví dụ, anh có thể ấn lưỡi dao vào sâu, sau đó ngoáy lưỡi dao, làm như vậy, các anh sẽ mỏ rộng vết thương, rồi rút dao ra nhẹ nhàng. Tiếp đó, ông ta khoe một loại bao găng tay có móng vuốt, ở đầu ngón cái có gắn một lưỡi dao dày như lưỡi dao Thuỵ Sỹ và ở ngón trỏ gắn một lưỡi dao khác gọi là lưỡi dao máy cắt cho thảm lát sân.
— Đó là công cụ thuận lợi của Amikan- Ông tuyên bố như vậy đồng thời xỏ tay vào găng - Các anh túm bắt một gã nào đó ở cổ, rồi siết bàn tay lại. Nó cũng giống một cái kéo, cắt được mọi thứ. Thêm nữa, cái chết không xảy ra tức thì. Điều này, Amikan đánh giá cao. Nhưng để dùng chiếc găng tay này, cần phải có một nắm đấm thép như nắm đấm của Amikan.
Điều đó đủ để tôi thoát khỏi gã này.
Araikan không bao giờ ra khỏi nhà mà không theo chiếc mũ kippa của mình. Bắt buộc phải hoạt động trong bóng tối và trong các nước thù địch, không để ý thì sẽ khó vượt qua được cái bợp tai của hắn ta. Vì thế, ông ta đã quyết định cạo trọc tóc ở trên đỉnh đầu và mang một bộ tóc giả… một chiếc kippa bằng tóc thật.
Khi nhận được lệnh phải thủ tiêu hai thành viên của PLO, Drory và Amikan cùng với đội của họ đã đến ATen và ở trong vùng của hai mục tiêu ở. Người Palestine sống trong những ngôi nhà riêng biệt trong thành phố, và hàng ngày chỉ gặp nhau trong các buổi làm việc Văn phòng vẫn chưa nghiên cứu kỹ về vụ bê bôi Lillehamer, trong vụ này, một người vô tội đã bị giết chết do vô ý (xem chương II; phần 3), và người phụ trách mới của Mossad, ông Itzhak Hofi, đích thân giám sát hoạt động. Ông ta chỉ bật đèn xanh ra lệnh sau khi đã kiểm tra tại chỗ thấy các mục tiêu là ngon ăn.
Để đơn giản hoá việc thuyết trình, tôi gọi người phụ trách bộ phận Palestine là “Abdul” và gọi người trợ lý của ông là “Said”. Sau khi phân tích, quyết định được đưa ra là công việc không có thể thực hiện trong căn hộ của Abdul. Hai nhân vật này, hàng tuần, cứ các ngày thứ ba và thứ năm đều có các cuộc gặp gỡ với các quan chức chính thức của PLO, trong một khách sạn ở trên một đường phố chính của ATen. Một công việc theo dõi chặt chẽ đối với hai nhân vật này đã kéo dài, trước khi quyết định được thông qua.
Amikan và các điệp viên của ông ta đã chụp nhiều ảnh, và kiểm tra giấy tờ của họ hai lần chứ không phải là một lần, để đảm bảo đúng đối tượng mục tiêu. Họ phát hiện ra rằng, Abdul đã bị cảnh sát Jordanie bắt giữ, khi còn là thanh niên, nhờ có những hồ sơ tìm thấy ở Đông Jelusalem, sau khi người Israel chiếm đóng khu vực này. Người ta cũng thu được một chiếc cốc mà Abdul dùng khi ở khách sạn, và người ta so sánh dấu vân tay trên cốc với dấu vân tay trong hồ sơ của ông. Kết quả cho thấy, ông ta chính là mục tiêu.
Sau mỗi cuộc họp, Abdul lên xe, trở về nhà một người bạn gái. Said đi cùng bên cạnh ông. ông ta tới các cuộc gặp trong bộ quần áo mặc hàng ngày, và chỉ thay khi trở về căn hộ của ông, một dinh thự ở ngoại ô, cách xa chừng 20 phút đi xe, rồi đi dự dạ hội. Ông ở tầng hai, là tầng cuối cùng của một ngôi nhà có bốn căn hộ. Một đường dẫn xuống ga-ra ở dưới tầng hầm gồm bốn ngăn thắng hàng. Các ngăn được những chiếc đèn gắn trên tường chiếu sáng và ga-ra được chiếu sáng bằng đèn trên trần. Said lái chiếc xe vào trong ngăn thứ hai, tính từ trong ra, rồi đi ngược trở lại đương vào ga- ra và đi vào nhà qua cửa.
Abdul là một nhà chính trị và ít quan tâm đến việc để phòng an ninh, nhưng Said lại thuộc một bộ phận của quân đội PLO và ông ta ở cùng chung căn hộ, một loại tương đương với các nhà ẩn náu của chúng tôi. Họ ở cùng với ba người Palestine khác, mà ít nhất hai trong số họ là lính cận vệ.
Con đường có khách sạn ở, là một trục đường đôi với hai làn đường riêng biệt được ngăn bằng một giải phân cách ở giữa. Khách sạn có chỗ để xe tư, dành riêng cho các khách đến nhà hàng ăn. Abdul và Said để xe ở đây. Còn một bãi để xe nữa, đằng sau ngôi nhà dành cho những người ở trong khách sạn.
Sau khi phân tích, Drory và Amikan quyết định hành động vào lúc kết thúc cuộc họp, buổi chiểu ngày thứ năm.
Có một trạm điện thoại tự động ở phía bên kia của con đường, ở cách nửa ngôi nhà, và một trạm điện thoại khác gần căn hộ của Said. Vì Said luôn luôn rời khách sạn trước Abdul. Kế hoạch hành động bắt đầu lúc Abdul đi xuống trước cửa khách sạn, nhân viên Mossad sẽ gọi điện thoại cho người cùng tham gia, khi người này đứng đợi trong trạm điện thoại kia và hạ sát lúc Said đi về.
Amikan lãnh đạo một đội chịu trách nhiệm về Said. Người ta đòi hỏi phải dùng khẩu súng lục cỡ đạn 9mm và người chỉ huy của Amikan đã kiểm tra lại thấy súng không được nạp đạn nổ hai lần. Thực tế, tất cả mọi người đều biết rằng Mossad dùng các loại đạn này và cần phải tránh để lại dấu ấn. Ngược lại, người ta cần phải làm cho mọi người tin là có một âm mưu sát hại giữa các phe cánh kình địch của PLO.
Vào buổi chiều như đã nói, một chiếc xe tải nhỏ lách vượt trước mặt khách sạn, phía bên kia đường. Một người đàn ông ngồi trên ghế phòng đợi của khách sạn, và Drory đi vào từ nơi đậu xe của khách đến ăn, Itzhak Hofi đi sát cạnh. Drory và Hofi sẽ ở lại trong xe của họ cho tối khi có tín hiệu, một loạt tiếng kêu tích tích trong máy bộ đàm.
Buổi chiều hôm đó, không rõ nguyên nhân, lần đầu tiên Abdul và Said lại cùng đi từ khách sạn và không ai đi xen vào. Những sát thủ lấy làm hài lòng nhìn họ bước lên xe và nổ máy đi.
Thứ năm sau đó, đội của Drory và Hofi lại vào vị trí. Lần này Said rồi khỏi khách sạn vào lúc hai mươi mốt giờ và đi thẳng tối xe của mình. Người của Mossad cho chiếc xe tải nhỏ tiến lên vài bước - như là họ vừa đến và thực hiện một màn mỏ đầu - trong lúc đó, Said nổ máy đi.
Hai phút sau, người ngồi trong ghế phòng đợi, ra ám hiệu như đã thoả thuận: Abdul chuẩn bị đi ra..Khách sạn có hai cửa, một cửa bình thường và một cửa quay. Để chắc chắn rằng Abdul sử dụng cửa qua3t, người ta đã đóng chiếc cửa bình thường lại.
Một nhân viên của Mossad đã hành động, đi vào phòng đợi, vượt qua cửa đúng phía sau Abdul, và bao vây làm cho người này không thể ra được. Một người đàn ông khác chiếm giữ một trạm điện thoại, ở phía cuối đường một chút, và liên lạc với một đội viên khác đang đứng trong trạm điện thoại gần khu của Said.
Abdul bước xuống cầu thang, ngoặt sang trái và đi vào khu để xe. Drory tiến tới gặp ông ta, Hofi theo gót họ. “Abdul phải không?”, Hofi hỏi. Khi nghe câu trả lời, Drory nã hai phát đạn, gần sát vào đúng ngực và một viên khác vào đầu ông ta. Abdul ngã vật xuống và chết ngay. Hofi đã kịp vượt qua bên đường, leo lên chiếc xe tải nhỏ đã lăn bánh được một bước. Người đàn ông đứng trong trạm điện thoại thông báo: “Sứ mệnh đã hoàn thành” với người ở đầu dây bên kia, để báo hiệu rằng giai, đoạn hai của cuộc hành động có thể bắt đầu.
Về phần mình, Drory quay đi bước những bước lặng lẽ lên xe và rời đi xa. Người đàn ông ngồi trong phòng đợi quay lại khách sạn và đi ra cửa sau, nơi có một chiếc xe đã chờ ông ta. Toàn bộ cảnh này diễn ra trong mười giây, và nếu có người khách nào quan sát thấy, người khách đó sẽ kết luận là người vừa đi ra, do quên một cái gì đó quay vào đi tìm. Phải mất mười phút mối có thể phát hiện ra thi thể của Abdul trong bãi để xe.
Khi Said đưa xe vào ngăn của mình trong ga - ra, Amikan trốn trong một bụi cây, ngăn cách giữa hai nhà ở kế bên, ngồi đợi ông ta. Ngọn đèn trên trần đỏ, nhưng nhờ có ánh sáng trên tường, Amikan qua lỗ cửa thông hơi, biết rằng Said đã bắt gặp một người nào đó trong quá trình đi trên đường. Từ chỗ đó, Amikan không đoán được ai là Said trong hai người ấy, thế là ông ta quyết định bạn của kẻ thù mình, thì cũng là kẻ thù của mình. Amikan tiến sát gần, từ phía sau chiếc xe đến, và bọc khẩu súng ngắn cỡ 9mm bằng một cuốn tạp chí, rồi nhắm đầu hai người, nhả hết cơ số đạn.
Amikan tiến lại gần để kiểm tra xem họ chết hẳn chưa. Những viên đạn được bắn từ phía sau đầu, và khi thoát ra phía trước đã tạo ra những lỗ thủng há miệng.
Việc bắn xảy ra nhanh chóng, nhưng thật tàn bạo. Amikan đã dùng súng giảm thanh, nhưng tiếng động của kính vỡ và những tiếng các viên đạn đập vào tường đã làm cho những cận vệ của Said chú ý. Họ chạy ra khỏi căn hộ được chiếu sáng và men theo ban công ngược sang kêu to “Said! Said!”. Một thành viên trong nhóm của Amikan, đang giấu mình trước ngôi nhà, đã đáp lại bằng tiếng Ả Rập “Xuống ngay! Xuống nhanh lên”, những câu nói này làm cho các lính cận vệ hành động theo. Không chờ đợi những người xuống, người giấu mặt kia trong nhóm Amikan, đã nhanh chóng cùng Amikan chạy ra chiếc xe đợi họ phía bên kia đường. Tại đây, một người đàn ông đã đứng đợi họ trong trạm điện thoại. Chiếc xe nổ máy và biến đi trong đêm.
Tôi sẽ mãi mãi nhớ tới sắc mặt của Drory. Ông ta mô tả lại việc làm, như người ta nói về một bữa ăn ngon với một người phàm ăn. Tôi hầu như không quên được khuôn mặt của ông ta. Ông ta giơ tay lên trước mặt của ông như đang cầm khẩu súng và ngắm bắn. Nhưng với một cái nhếch mép cười giễu cợt làm sao! Ông ta nói bã bọt mép về những điều đó.
Vào cuối giờ học, một ai đó đã hỏi ông rằng, người ta đã biểu lộ tình cảm như thế nào khi người ta giết một người khi không ở trong tình thế phải tự vệ chính đáng, cũng không phải đang ở trên chiến trường.
Nhưng đó là tự vệ chính đáng cho quốc gia!- Drory tuyên bố như vậy- Tất nhiên, người đó không đe dọa tôi bằng vũ khí, nhưng, người đó là hiện thân cho việc đang hướng vũ khí của họ vào Israel. Cụ thể, trong trường hợp này, tình cảm không có ý nghĩa gì.
Người đã hỏi ông về Amikan, một người bạn chiến đấu của ông, có thể nghĩ gì khi anh ta đứng đợi, giấu mình trong bụi cây. Drory giải thích rằng Amikan luôn luôn theo dõi giờ, bởi vì trời đã muộn và anh ta có thể chết vì đói. Anh ta nóng ruột muốn kết thúc công việc theo dõi và để đi kiếm một miếng gì ăn như bất kỳ một người đi làm nào bị chậm trễ vì công việc.
Đột nhiên, chúng tôi không muốn đặt thêm những câu hỏi khác nữa.
Một lát sau, bài học về chụp ảnh bắt đầu.
Chúng tôi học sử dụng các loại máy khác nhau, cũng như học cách tráng phim. Một trong những vấn đề kỹ thuật là hoà tan hai viên thuốc trong nước ấm, rồi nhúng phim vào trong nước này với thời gian tám mươi giây, làm thế nào để phim không hoàn toàn hiện hết hình lên - luôn còn thời gian để làm tiếp tục nữa - nhưng cho phép bảo đảm chắc chắn là chủ đề đã lựa chọn phải được chụp tốt. Người ta cũng bắt chúng tôi phải luyện tập với các ống kính khác nhau, và giới thiệu cho chúng tôi biết làm thế nào để chụp được ảnh với những chiếc máy được cất giấu, chẳng hạn như để trong túi thể thao.
Pinhas M một trong ba người mới, đã quyết định chuyển sang công việc thực hành để kiếm tiền.
Gần bãi biển ở phía bắc Tel Aviv, không xa Câu lạc bộ Quốc gia là Tel Barbeach. Đó là nơi có hoạt động mại dâm. Những cô gái chờ khách đi xe tới, và dẫn họ ra đằng sau những đụn cát. Pinhas đặt chiếc máy có trang bị hệ thống chụp đêm của mình tại một ngọn đồi, trên những đụn cát, rồi chụp những gã đàn ông trông vẻ phong nhã với những chiếc xe của họ. Pinhas đã chụp được những tấm phim âm bản tuyệt diệu, nhờ có những máy chất lượng cao và có ống kính chụp xa tốt. Chúng tôi biết cách nối vào máy tính của cảnh sát như thế nào, và Maidan, người lo việc ghi chép số đăng ký xe của các nạn nhân, và cũng không đến nỗi tồi để tìm ra tên họ và địa chỉ của những người này. Qua điện thoại, Pinhas đã trao đổi những tài liệu đã thoả thuận để lấy tiền.
Cậu ta khoe là đã làm được một khoản lời khá, nhưng không cho biết rõ tổng số là bao nhiêu. Kết cục, có một ai đó đã khiếu kiện và cậu này đã bị phạt. Tôi chờ đợi xem người ta có xin lỗi không, nhưng đã không có gì xảy ra cả. Những người có trách nhiệm, chắc chắn nghĩ rằng một suy nghĩ sáng kiến như vậy, xứng đáng được bù đắp. Cố sức đắm mình vào trong sự rắc rối, người ta càng nhận thấy hơn cái gì là thối tha.
Trong đầu óc của Mossad, những bức ảnh như vậy có thể nêu lên một cách thuyết phục mạnh mẽ trong trường hợp cần tuyển mộ người, còn nữa… Người ta đã kể một câu chuyện về một viên chức người Ả Rập Saudi bị chụp ảnh ở trên giường với một cô gái. Mossad đã cảnh báo cho cô gái, để cô ta đưa khách tới những nơi rõ ràng và chụp ảnh. Một hôm, một katsa chạm trán với người Ả Rập, cùng với những chứng cứ về những hành động cuồng loạn của ông ta.
— Anh nói gì về hợp tác với chúng tôi? - Người của Mossad hỏi đồng thời đặt những tấm ảnh lên bàn.
Nhưng trong khi đợi sự phản ứng, thì người Ả Rập nọ thốt lên:
— A ha, thật tuyệt! Những tấm ảnh này quả là tuyệt! Tôi lấy ba tấm này và hai tấm này. Nhất định, tôi sẽ đưa cho bạn bè xem những tấm ảnh này.
Không cần phải nói thêm điều gì cũng đủ biết việc tuyển dụng đã thất bại.
Chương trình học được nối tiếp bằng một buổi giới thiệu về những cách thức làm tình báo trong các nước Ả Rập. Sau đó, chúng tôi hỏi cảnh sát điều tra khách sạn về những kỹ thuật giám sát của họ. Các katsa thường xuyên dùng khách sạn vào hoạt động của họ, và vấn đề quan trọng là làm thế nào để tránh tạo ra sự chú ý của người khác. Luôn luôn là những chi tiết nhỏ nhất. Thí dụ, một phục vụ buồng gõ cửa đi vào và nhận thấy rằng các câu chuyện đột nhiên ngừng bặt, người phục vụ buồng mạo hiểm báo cho cảnh sát điều tra rằng trong phòng đó đang diễn ra điều gì ám muội. Ngược lại nếu câu chuyện cứ tiếp tục, coi như không có cô ta ở đó, thì sẽ không gợi nên sự ngờ vực. Chúng tôi cũng có một loạt bài học về cảnh sát châu Âu, lần lượt từng nước. Chúng tôi phân tích chỗ yếu, chỗ mạnh của họ, phương pháp điều tra của họ. Chúng tôi cũng nghiên cứu quả bom Hồi giáo (ý nói về bom nguyên tử của Pakistan), và tham quan nhiều cơ sở quân sự, cũng như nhà máy nguyên tử của trung tâm nghiên cứu Dimona trong khu vực Neguev, cách Beersheba khoảng 60 km. Lúc đầu, nhà máy được ngụy trang là nhà máy dệt, sau đó thành “trạm khai thác đã hết” cho tới lúc CIA thu được bằng chứng, nhờ những tấm ảnh do máy bay U.2 chụp tháng 12 năm 1960 cho thấy nhà máy che giấu một lò phản ứng hạt nhân. Một lò phản ứng hạt nhân khác, nhỏ hơn đặt ở Nahl Sorek, trong một căn cứ không quân nằm về phía Nam Tel Aviv. Người ta đã gọi nó là KAMG (viết tắt của chữ Kure Garny Le Machkar, nói một cách khác là Trung tâm nghiên cứu hạt nhân). Tôi đã tham quan cả hai trung tâm này.
Một khi bí mật đã bị bóc trần, David Ben Gourion thông báo một cách chính thức sự tồn tại một dự án về trung tâm hạt nhân sẽ dùng vào mục đích hoà bình. Một sự nói dối thành kính!
Năm 1986, một người Israel gốc Ma rốc, tên là Mordechai Vanunu, từng làm việc ở Dimona từ 1976 đến 1985, trước khi di tản sang Úc, để lộ ra, đã chụp 57 tấm ảnh các bộ phận khác nhau, bí mật nhất của trung tâm, ở nhiều tầng dưới mặt đất ở đó người ta tàng trữ khá nhiều plutonium nhằm sản xuất 150 liều thuốc cho bom hạt nhân và bom nhiệt hạch. Ông này cũng khẳng định rằng, Israel đã giúp Nam Phi tiến hành các cuộc thử nghiệm hạt nhân ở cực Nam của biển Ấn Độ, trên các hòn đảo sa mạc của Prince Eduard và Marion trong tháng 9 năm 1979.
Vanunu bị kết án 18 năm tù về tội làm gián điệp, trong một phiên toà bí mật ở Jelusalem. Bị quyến rũ bởi một người nữ đồng phạm của Mossad, thu hút trong một chiếc thuyền thả neo ngoài khơi của Rôm, ông ta đã bị bỏ thuốc mê rồi bị đưa lên một tàu của Israel và bị đưa về Israel. Tờ Sunday Times của London đã vội vã cho xuất bản một loạt những lời tự thú của ông, kèm theo nhiều bức ảnh, khi Mossad thực hiện việc bắt và phán xử ông ta.
Việc bắt cóc là một sai lầm. Vanunu không phải là một nhà chuyên môn và cũng không tạo nên bất kỳ mối nguy hiểm nào, nhưng, những cách thức mà Mossad dùng đã đóng góp vào việc tạo ra một vụ làm ăn in ấn, đi ngược lại với mục đích nghiên cứu của họ. Vanunu đã được dẫn độ về Israel, nhưng Mossad đã không tạo được lý lẽ để tự hào về việc này.
Theo những gì mà tôi được thấy ở nhà máy Dimona, thì những thông tin của Vanunu là chính xác. Đúng như những gì ông ta đã kết luận, ông ta khẳng định là chúng tôi đã chế tạo các quả bom nguyên tử và chế tạo ra những máy bay, để trong trường hợp cần thiết, chúng tôi sử dụng. Điều đó là chính xác. Và điều này, ở Học viện, không phải là một bí mật với bất kỳ ai, rằng chúng tôi giúp đỡ Nam Phi, cung cấp cho họ đại bộ phận những trang thiết bị quân sự, huấn luyện các đơn vị tinh nhuệ đặc biệt cho họ. Chúng tôi sẽ sát cánh làm việc với họ trong nhiều năm, cả Israel và Nam Phi tin vào sự cần thiết tàng trữ vũ khí hạt nhân. Và hai nước chúng tôi sẵn sàng dùng đến nó.
Những biện pháp an ninh rất chặt chẽ ở Dimona, đã gợi lại trong tôi câu chuyện về những tên lửa đất đối không Hawk và Chapparal. Những tên lửa kinh hãi này đã là chủ đề cho không biết bao nhiêu câu chuyện vui trong khoá học sinh sỹ quan của chúng tôi. Khi chúng tôi thăm các dàn phóng tên lửa, chúng tôi đã thấy những quả đạn lăn lộn tại chỗ. Chúng được bảo vệ kỹ lưỡng! Sau đó, Israel đã đem bán nó cho Iran. Điều này làm cho chúng tôi còn phì cười hơn.
Chúng tôi có nhiều bài học về hệ thống thông tin liên lạc quốc tế, đặc biệt, đường cáp Địa Trung Hải, đi ngầm dưới biển tới Palerme, tới đảo Sicile, từ đó liên lạc với các vệ tinh. Các vệ tinh này truyền phần lớn nhưng tin tức của các nước Ả Rập. Đơn vị 8200 đã đạt được việc móc nối và bắt được tất cả những gì các nước Ả Rập phát đi.
Cứ hai tuần, chúng tôi phải viết một bài tập về “môn quan hệ xã hội”. Mỗi người trong chúng tôi sắp xếp các môn học của mình theo trình tự tra