Phần III: Lừa Bịp Đủ Kiểu:Chương 1: Tên Lửa Strella.
Ngày 28 tháng 11 năm 1971, bốn tên khủng bố đã giết hại Thủ tướng Jordanie, Wasfi Tall, trong lúc ông đang đi vào Khách sạn Sheraton của Cairo. Người Ả Rập thân phương Tây, quyết định thương lượng với Israel, Tall đã trở thành nạn nhân đầu tiên của một nhóm khủng bố Palestine được mệnh danh là Tháng Chín Đen (tiếng Ả Rập là: Ailut al Aswad), để tưởng nhớ tới tháng 9 năm 1970, khi vua Hussein của Jordanie đập tan một nhóm biệt kích Palestine trong nước ông.
Vượt xa sự khát máu nhất, cực đoan nhất của các nhóm Fedayin, Tháng Chín Đen đã nhanh chóng theo đuổi công việc giết Tall bằng cách ám sát của năm người Jordanie sinh sống ở Tây Đức và kết tội Tall làm gián điệp cho Israel. Tháng Chín Đen toan tính giết Đại sứ Jordanie ở London, đặt chất nổ trong một nhà máy của Hambourg, nơi sản xuất các cấu kiện điện tử bán cho Israel, cũng như tổ chức này đã khẳng định đặt chất nổ trong nhà máy lọc dầu Trieste, lọc dầu vì lợi ích của “các tập đoàn lợi nhuận Sioniste” ở Đức và Áo.
Ngày 8 tháng 5 năm 1972, tại Lod, sân bay quốc tế của Tel Aviv, hai người đàn ông và hai người đàn bà, đã chiếm một máy bay của Sabena có 90 hành khách và một tổ lái 10 người để cố giải thoát cho 117 người Fedayin đang bị tù ở Israel. Ngày hôm sau, hai người đàn ông bị quân biệt kích Israel giết chết, hai người phụ nữ bị bắt sống và bị kết tội tù chung thân. Ngày 30 tháng 5, ba người Nhật cực đoan, được võ trang bằng súng máy và do Fedayin thuê cũng nổ súng vào chính sân bay Lod, làm cho 26 người chết và 85 người bị thương. Họ là những người đi du lịch.
Ngày 5 tháng 9 năm 1972, tại Thế vận hội Olympique, ở Munich, một tên biệt kích của tổ chức khủng bố Tháng Chín Đen đã thâm nhập vào làng Olympique giết 11 vận động viên điền kinh và huấn luyện Israel. Cuộc xung đột với cảnh sát Đức được các hãng truyền hình trên toàn thế giới phát trực tiếp. Một số thành viên của nhóm này đã có mặt tại Đức, và một tuần trước lúc Thế vận hội khai mạc, hai trong số những thành viên này đã tách ra đi riêng tới Munich, mang theo một súng tấn công kiểu Kalachnikov, do Liên Xô chế tạo và một khẩu súng lục và lựu đạn.
Ba hôm sau, Israel đã phản ứng lại những tội ác tàn bạo, bằng việc cho 75 máy bay xuất kích - cuộc oanh kích quan trọng nhất kể từ cuộc chiến tranh năm 1967 - ném bom những nơi được họ liệt vào là các căn cứ của du kích ở Syrie và ở Lyban, làm 70 người chết và hàng chục người bị thương. Máy bay Israel đã bắn hạ ba máy bay của Syrie trên bầu trời cao nguyên Golan, trong khi đó, Syrie phá huỷ hai máy bay Israel. Israel đã đưa các đơn vị bộ binh sang Lyban chiến đấu chống quân khủng bố Palestine. Quân khủng bố này đã đánh mìn các cầu trên đường giao thông của Israel, và Syrie thì tập trung quân của mình trên biên giới với Lyban để đề phòng một cuộc chiến tranh tổng thể bất trắc xảy ra.
Bị bất ngờ vì những hoạt động tiến hành chống lại họ ở ngay bên trong, những người Israel hoàn toàn sững sờ khi ngày 7 tháng 12, Cơ quan Tình báo trong nước, Shin Bet, đã bắt 46 người vì nghi là họ làm tình báo cho Phòng Nhì của Syrie, hoặc biết sự tồn tại của một mạng lưới và không chịu tố cáo. Điều làm sợ hãi thực sự là bốn trong số những người này lại là người Do Thái, và hai trong số những người này, bao gồm cả người phụ trách, là những người của sabras - sinh ra tại Israel - lại làm tình báo cho một nước Ả Rập.
Ngay lập tức sau vụ Munich, Thủ tướng Golda Meir đã ra lệnh trả đũa. Là một người mẹ vĩ đại hơn 70 tuổi, Golda Meir đã phản ứng lại cuộc tàn sát ở Munich bằng việc hứa một cách công khai sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh báo thù, trong đó, Israel sẽ chiến đấu “một cách quả cảm và thông minh (trên một trận tuyến) căng thẳng, đầy nguy hiểm và sống còn” - Rõ hơn, điều đó có nghĩa là Mossad có nhiệm vụ ấy, hoặc như người ta nói: “Không một ai thoát khỏi cánh tay dài của công lý Israel” Meir đã ký đạo luật tử hình đối với khoảng 35 người khủng bố được biết dưới các tên Tháng Chín Đen, đặc biệt đối với người lãnh đạo của quân khủng bố, Mohammed Yousef Nadjar bí danh là Abou Yousouf, có trụ sở ở Beyrouth. Ông này là một cựu quan chức cao cấp của các tổ chức tình báo của Yasser Arafat. Nhóm có một người rất đẹp trai nhưng tàn bạo là Ali Hassan Salameh, Mossad gọi là “Ông Hoàng đỏ”. Ông Hoàng đỏ là người tổ chức cuộc giết chóc ở Munich và đã hoạt động từ khi còn ở Đông Đức. Cuối cùng ông này đã phải chết trong một vụ làm nổ xe ở Beyrouth năm 1979.
Bà Meir đã ra lệnh cho Mossad phải tìm cho ra và trừ khử những kẻ giết người của tổ chức Tháng Chín Đen. Chính bà Thủ tướng đã trở thành mục tiêu số một của quân khủng bố. Đối với Mossad, điều này có nghĩa là ngành hành quyết của Metsada, kidon được đưa vào hoạt động.
Cuộc viếng thăm đầu tiên mà kidon thực hiện, sau vụ Munich là Abdel Wa’il Zwaiter, 36 tuổi, người đại diện của PLO ở Rôm. Ngày 16 tháng 10, ông ta bị bắn 12 phát đạn gần, khi đang đứng chờ cầu thang lên phòng mình. Ngày 8 tháng 12, Mahmoud Hamchari, 34 tuổi, người đại diện chính của PLO ở Pháp, đã trả lời một cú điện thoại tại nhà riêng ở Paris:
— A lô?
— Có phải ngài Hamchari đấy không ạ?
— Vâng, tôi đây.
Bùm! Đội quân của Mossad đã đặt chất nổ vào trong máy điện thoại. Khi Hamchari đưa ống nghe lên tai và được xác định đúng, từ xa, người ta đã điều khiển cho nổ. Ông ta bị thương nặng, cụt một tay và một tháng sau thì người Palestine này chết.
Cuối tháng 1 năm 1973, - Husein al Bachir, 33 tuổi, giám đốc công ty Palmyra, có hộ chiếu Syrie, đã đi làm việc, đến ngủ ở một phòng trong tầng một của Khách sạn Olympic tại Nicosie. Một lúc sau, một tiếng nổ đã phá tan căn buồng và người đại diện của Fatah ở Chypre. Kẻ giết người đã theo dõi ông Bachir đến khi ông tắt đèn đi ngủ, sau đó, một quả mìn được gài dưới giường do điều khiển từ xa đã phát nổ.
Trong lúc làm rùm beng đám tang của người bạn chiến đấu đã quá cố, Arafat đã thề, chính bản thân ông sẽ báo thù cho bạn, nhưng “không phải ở Chypre, không phải ở Israel, cũng không phải trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng”. Điều được nghe thấy rõ ràng là ông sẽ tung rà một cuộc leo thang quốc tế cho chiến dịch khủng bố Tổng số, Mossad đã giết chết 12 thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen trong cuộc chiến tranh báo thù của Thủ tướng Golda Meir.
Để làm hiểu rõ hơn, Mossad đã cho công bố trên báo chí địa phương của Ả Rập những cáo thị về người chết. Điều đó như thông báo về cái chết cho những ai được xem là những kẻ khủng bố còn sống sót. Những người khác đã nhận được những bức thư nặc danh để lộ ra sự hiểu biết sâu kín về những đời tư của họ, đặc biệt trong lĩnh vực luyến ái, và khuyên họ hãy rời khỏi thành phố mà họ đang sống. Mặt khác rất nhiều người Ả Rập bị thương ở châu Âu và ở Cận Đông, trong lúc mở rộng vùng đất bị Mossad cài bẫy săn đuổi. Mặc dù Mossad không muốn, nhưng rất nhiều những người vô tội cũng bị động chạm tới trong chiến dịch trả đũa này.
Bản thân PLO cũng gửi những bức thư cài bẫy cho các đại diện của Israel trên khắp thế giới. Các bì thư đều đóng dấu của bưu điện Amsterdam.
Ngày 19 tháng 9 năm 1972, Ami Chachori, 44 tuổi, tham tán về nông nghiệp của Đại sứ quán Israel ở London đã chết sau khi mở một trong những bức thư đó. Một số vụ mưu sát chống lại các nhân viên của Mossad mà báo chí thời đó đã đề cập tới nhiều, trên thực tế, được người ta gọi là “tiếng đồn vô tội”. Những thông tin giả do chính Mossad truyền đi để thêm vào sự lẫn lộn (lộn xộn) của dư luận. Ngày 26 tháng 1 năm 1973, người ta đã có một ví dụ cổ điển về việc này, khi một người làm ăn của Israel, ông Moshe Ischai, bị một tên khủng bố của tổ chức Tháng Chín Đen giết trên đường phố náo nhiệt Gran Via của Thủ đô Madrid, mà dường như ông này đã bị theo dõi (về sau này, ông ta được xác định là một katsa Baruch Cohen, 37 tuổi). Trên thực tế, ông này chẳng theo dõi ai cả; mà điều chính yếu là Mossad muốn làm cho người ta tin như vậy).
Một ví dụ khác, cái chết của một nhà báo Syrie, Khader Kanou, 36 tuổi, trong tháng 11 năm 1972, mạo xưng là một điệp viên hai mang, bị hạ sát ngay trước ngưỡng cửa nhà ông ta tại Paris bởi vì tổ chức Tháng Chín Đen nghĩ rằng ông đã cung cấp tin tình báo về các hoạt động của họ cho Mossad. Thực ra không có gì cả, nhưng báo chí đã đưa tin về cái chết. Thậm chí, người ta viết rất nhiều về những điệp viên hai mang, mà trên thực tế chỉ có ít. Những ai làm gián điệp hai mang phải ở trong những môi trường vững chắc của các văn phòng để hoàn thành những nhiệm vụ của họ.
Mùa Thu năm 1972, bà Golda Meir tìm cách đánh lạc hướng dư luận Israel về những sự ghê sợ của chủ nghĩa khủng bố quốc tế và về sự bị cô lập tăng lên của đất nước từ cuộc Chiến tranh Sáu ngày. Ít ra, trên bình diện chính trị, bà Thủ tướng cần có một sự đánh lạc mục tiêu. Từ lâu, Israel đã yêu cầu có một cuộc yết kiến với Giáo hoàng Paul VI, tại Rôm và trong tháng 11, Vatican đã đưa ra một sự đáp ứng thuận lợi. Meir đã yêu cầu các cộng sự của bà tiến hành những công việc chuẩn bị cần thiết.
Tuy nhiên, bà nói thêm: “Tôi không muốn đến Canossa” - Lời nói ám chỉ đến toà lâu đài Italy, nơi Henri VI, khi trị vì Đế chế Thần thánh La Mã thuộc nhóm ngôn ngữ Đức, đã tự hạ mình bằng cách xưng tội trước Giáo hoàng Grégoire VII, năm 1077.
Quyết định được đưa ra là Meir sẽ đến Paris để tham dự một cuộc họp của Quốc tế xã hội chủ nghĩa, trong các ngày 13 và 14 tháng 1 - Tổng thống Pháp, Pompidou đã nghiêm khắc phê phán Hội nghị này, và ngày 15 tới Vatican, rồi hai ngày sau đó, đi Côte d’Ivoire cùng với Tổng thống Houphouet-Bogny trước khi trở về Israel.
Một tuần sau lời thỉnh cầu của Meir, cuộc yết kiết Giáo hoàng chính thức được chấp nhận, nhưng không tuyên bố công khai.
Ba phần trăm dân chúng Israel - khoảng một trăm nghìn người là người Ả Rập theo đạo Thiên Chúa. PLO có mối quan hệ ngay trong Vatican, các nguồn tin được biết là đã có những cuộc thảo luận ở bên trong. Chính vì thế mà Abou Yousouf đã nhanh chóng được biết về dự án của Gold Meir. Ông này đã gửi ngay một bức điện cho Ali Hassan Salameh, đang ở Đông Đức: “Hãy hãy thủ tiêu con mụ đang reo rắc máu của chúng ta trên khắp châu Âu.” (Bức điện này và một phần lớn các sự kiện được nêu trong chương này, chỉ được người Israel biết đến, sau khi bắt được nhiều tài liệu của PLO trong cuộc chiến tranh Lyban năm 1982.)
Làm thế nào sẽ giết được Meir và giết ở đâu, đó là thuộc thẩm quyền của ông Hoàng Đỏ, nhưng quyết định đã được thông qua và ông cương quyết phải thực hiện. Ngoài Meir là kẻ thù hiển nhiên thấy rõ của tổ chức Tháng Chín Đen, Yousouf cũng nhìn thấy, trong vụ mưu sát này một dịp ngoạn mục để chứng tỏ cho thế giới biết tổ chức của ông ta đang tồn tại như một sức mạnh mà người ta phải chú ý tới nó.
Cuối tháng 11 năm 1972, chi nhánh London của Mossad, nhận được một cú điện thoại bất ngờ của một người có tên là Akbar, sinh viên Palestine muốn kiếm chác ít tiền qua việc bán tin tức cho người Israel, nhưng người ta đã không nghe nói về điều đó từ đã lâu.
Dù cho đây là một “điệp viên được khám phá ra”, Akbar đã có những mối quan hệ với bên trong PLO và anh ta yêu cầu có một cuộc gặp gỡ. Vì từ đã rất lâu rồi, anh này không biểu lộ ý chí, không có một katsa đặc biệt nào chịu trách nhiệm về anh ta, và dù rằng cái tên mà anh ta giới thiệu cho phép có thể kiểm chứng, anh ta đã phải để lại số điện thoại để người ta có thể gọi lại khi cần. Thông điệp của anh ta kiểu như là điều: “Hãy nói với Robert rằng đó là Isăc gọi”, đi kèm với số điện thoại và tên thành phố, như đề cập đến một người hoạt động bình thường ở Paris, song lúc này lại gọi điện thoại từ London. Thông điệp sau đó được đưa vào máy tính, điều này cho phép biết được là thực sự Akbar đã đến Anh học tập - với hi vọng tránh khỏi Cơ quan Tình báo trên thế giới - Chính anh ta là một điệp viên da đen cũ (hay người Ả Rập). Hồ sơ của anh ta cho biết, ngày, tháng mối quan hệ cuối cùng của anh ta và có dán những tấm ảnh của anh ta: Một ảnh dán bên trên và ba ảnh dán phía dưới, cho biết các hình dạng ở tư thế khác nhau, và cùng với chủ thể hoặc không có râu.
Khi người ta có vấn đề với PLO, ngay cả khi vấn đề đó còn xa vời, người ta đã luôn luôn có sự đề phòng phụ, và thủ tục rất chặt chẽ của APAM phải được tuân thủ trước khi một katsa, trên thực tế không gặp Akbar.
Sau khi thoả mãn đầy đủ những công việc thẩm tra, Akbar đã tiết lộ rằng, mối quan hệ với PLO đã yêu cầu anh ta đi Paris để dự một cuộc họp. Anh ta đã nghi rằng anh ta phải hoạt động trong một chiến dịch rộng lớn để cho một nhân viên cấp thấp như anh ta được triệu hồi, nhưng cho tới lúc này, anh ta chưa có những thông tin chính xác.
Anh ta muốn có tiền. Anh ta bị căng thẳng, bị kích thích. Anh ta tuyệt đối không muốn xuất hiện trở lại nhưng không có sự lựa chọn nào khác, chính vì PLO đã biết anh ta ở đâu. katsa đã đưa tiền ngay lập tức cho anh ta và số điện thoại để gọi ở Paris.
Vì vấn đề khó khăn, nhất là khi người ta có ít thời gian để đưa những nhóm người từ các nước Ả Rập tới. Những kiều dân này không thông hiểu rõ phong tục của người phương Tây, do vậy nên PLO mượn trong số những sinh viên dự trữ của họ và những người lao động đã sống ở châu Âu và vì thế họ có thể đi du ngoạn mà không lo gợi nên sự ngờ vực, và họ cũng không cần có “vỏ bọc”. Vì cùng một lý do như vậy, PLO thường lui tới cầu viện những nhóm người cách mạng châu Âu, mặc dù PLO không có lòng tin với họ và cũng không tôn trọng họ.
Chính vì vậy mà bây giờ đến lượt Akbar.
Akbar đến Paris để gặp gỡ những điệp viên khác của PLO ở ga tàu điện ngầm Pyramides. Ăng ten của Mossad ở Paris, có lẽ đã theo sát người Palestine này tại điểm hẹn, nhưng sau đó do sự hiểu nhầm, những người Israel đã đến quá muộn. Akbar và các bạn của anh ta đã đi khỏi. Nếu như Mossad giám sát được cuộc gặp gỡ, chụp được ảnh, thì cái đó đã có thể giúp cho Mossad làm sáng tỏ tấm màn mánh khoé phức tạp mà tổ chức Tháng Chín Đen đã dệt lên bao xung quanh bà Golda Meir.
Vì những lý do an ninh nội bộ, khi những chỉ thị đã nhận được, những điệp viên của PLO đi du ngoạn với hai người một, nhưng trong khi người bạn vào trong nhà vệ sinh, Akbar đã đi tới gọi rất nhanh số điện thoại Paris. Anh ta đã thông báo rằng một cuộc họp khác đã được trù tính. “Mục tiêu là gì?” Người katsa hỏi. “Một người trong số các anh” Akbar trả lời - “Tôi không thể nói vào lúc này được”. Anh ta treo máy gọi lại.
Có sự sợ hãi. Tất cả các trạm của Israel ở trên thế giới được cảnh báo trước là PLO đang chuẩn bị tấn công vào một mục tiêu của Israel. Và tất cả đều bồn chồn hỏi để xác định mục tiêu này. Nhưng vì chuyến đi của bà Golda Meir đã chậm lại hai tháng, và chuyến đi không được thông báo công khai, nên không một ai chú ý đến bà ta.
Ngày hôm sau, Akbar gọi điện một lần nữa và nói rằng anh ta đi Rôm vào buổi chiều. Anh ta cần tiền, anh muốn gặp một người nào đó, nhưng anh ta không có nhiều thời gian, anh ta phải ra sân bay. Vì anh ta đang ở gần ga tàu điện ngầm Franklin-Roosevelt, người ta đã nói với anh ta đi chuyến tàu đầu tiên đến quảng trường Concorde, đi bộ theo một hướng nhất định, đồng thời dùng các biện pháp an ninh làm tin trước theo cách thức khác nhau.
Mossad có lẽ muốn có cuộc gặp trong một phòng của khách sạn và cần giữ phòng trước là cách đơn giản để tránh con mắt của tình báo thế giới. Để bắt đầu công việc, cần có hai phòng được nối với một máy quay phim ghi lại cảnh diễn cuộc gặp gỡ và có hai người được võ trang ở phòng bên cạnh, ngay sát cửa. Hai người này sẵn sàng nhảy ngay vào khi katsa bị người điệp viên kia tấn công. Mặt khác, katsa này phải nhận chìa khoá phòng trước để khỏi mất thời gian đón tiếp.
Vì Akbar phải đi tới Rôm bằng máy bay và anh ta không có nhiều thời gian, người ta đã huỷ ý định dùng đến phòng của một khách sạn. Người ta sẽ gặp anh ta trên phố, khi anh ta đi bộ. Lần này, anh ta nói rõ rằng công việc, cho dù nó là công việc gì đi nữa, vẫn là một hình thái kỹ thuật và cần thiết chuyển một cách bí mật vũ khí sang Italy. Thông tin bề ngoài dường như vô hại này về sau cho thấy là một yếu tố then chốt trong việc lắp ráp trò chơi ghép hình. Công việc thuộc Ăng ten Paris, người ta quyết định cử một katsa đến Rôm để dùng tiếp xúc với Akbar.
Tiếp đó, hai người chịu trách nhiệm đưa người Palestine ra sân bay. Do lỗi của các nhân viên Cơ quan An ninh, người ta dùng hai katsa. Một trong hai người đó là Itsik, sau này trở thành thầy giáo của chúng tôi tại Viện Hàn lâm. Nhưng, tư cách của ông ta hồi đó không phải là một mẫu để học tập. Ngược hẳn lại, Itsik -và người người đồng nghiệp của ông ta tự tin là “trong sạch”. Tuy nhiên, quy định đòi hỏi rằng một katsa không đưa dẫn ra một sân bay một người sợ bị phát hiện và có thể bị nhận diện sau này, trong một công việc khác, trong một sân bay khác hoặc ở nơi khác.
Cũng không bao giờ phải phá bỏ vỏ bọc của mình mà không làm “vô hiệu” trước khu vực.
Trong khi ra sân bay Orly, một trong hai katsa đi uống cà phê, trong khi đó người kia tháp tùng Akbar ra cửa bán vé, ghi số hành lý và ngồi khá lâu với Akbar để bảo đảm rằng anh ta đã đi được. Họ nghĩ rằng chỉ có một mình Akbar đi Rôm, nhưng thực ra không phải vậy.
Chính vì thế, sau này, Mossad phải tìm ra trong đống tài liệu thu được từ cuộc chiến tranh với Lyban, một thành viên khác của PLO nhận ra Akbar cùng đi với một người lạ mặt, và theo sau người lạ mặt này còn có một người ở quầy cà phê. Việc không thể tưởng tượng được là hai người rời khỏi sân bay từ lâu, bắt đầu nói với nhau bằng tiếng Hébreu. Điệp viên của PLO, ngay lập tức gọi điện thoại để cảnh báo cho Rôm là Akbar không phải là con người “trong sạch”.
Akbar và Mossad đã phải trả giá đắt cho việc làm cẩu thả của Itsik và người đồng đội của anh ta.
Ali Hassan Salameh, ông Hoàng Đỏ, quen gọi với cái tên Abou Hassan hơn, là một nhân vật táo tợn, thích phiêu lưu, mạo hiểm mà vợ hai của ông ta là một người đẹp Lyban, bà Georgina Rizak, hoa hậu năm 1971. Sự thông minh cũng bằng sự khát máu, đó chính là cái đầu đã tổ chức cuộc hành sát ở Munich. Lần này ông ta quyết định dùng tên lửa Strella do Nga sản xuất - Người Xô viết gọi là SA- 7, và Tổ chức quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) đặt cho cái tên mật mã là “Grêle” - để phá nổ chiếc máy bay của bà Golda Meir khi chiếc máy bay này đỗ xuống sân bay Fiumicino.
Những tên lửa này hoạt động theo cùng một hệ thống như Redeye của Mỹ, được điều khiển bắn tới mục tiêu bằng một ống phóng nặng 10,6 kg, được cầm ở tay và tỳ vào vai. Bản thân quả tên lửa nặng 9,2 kg, được đẩy đi bằng một tên lửa ba tầng với hệ thống điều khiển bằng tia hồng ngoại và tầm bắn của nó là 3,5 km. Nếu so sánh nó với những loại tên lửa khác thì loại tên lửa này không có gì được cải tiến đặc biệt cả. Bắn lên những máy bay tiêm kích phản lực rất dễ điều khiển, thì phần lớn tên lửa này ít có hiệu quả do không có sự uyển chuyển. Nhưng đối với những mục tiêu lớn, di chuyển chậm như một chiếc máy bay bay theo đường thẳng, thì tên lửa này là loại nguy hiểm chết người.
Việc cung ứng các tên lửa Strella không thành vấn đề. PLO đã có sẵn trong các trại huấn luyện trên đất Nam Tư (tên cũ), cần tìm cách vận chuyển chúng một cách bí mật qua biển Adriatique nữa là đủ. Thời đó, PLO có một chiếc thuyền Yacht thả neo ở gần Bari, trên bờ biển Italy, đối diện với Dubronik.
Salameh thăm dò các quán rượu ám muội ở Hambourg tới khi ông ta tìm được một người Đức hiếu biết chút ít về hàng hải và sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có tiền. Sau đó, ông ta tuyển dụng hai người phụ nữ mà ông ta gặp ở trong một quán rượu khác và đối với người lái tàu qua Adriatique, Salameh đã làm cho hoa mắt vì tiền, ma tuý rồi gái là chủ yếu.
Ba người Đức đã đi máy bay tới Rôm, sau đó đi tới Bari và leo lên một chiếc tàu của PLO, vận tải ma tuý, rượu và đồ ăn uống. Chỉ có những lời dặn dò, chỉ dẫn: Tới một hòn đảo nhỏ ngoài khơi của Dubrovnik, chờ người ta đưa những kiện hàng lên tàu rồi quay lại Bari và mỗi người sẽ nhận được hàng nghìn đô la. Người ta cũng khuyên dặn họ là dùng thời gian tốt trong vòng ba hay bốn ngày, bảo đảm đem lại cho họ mọi thứ vui thích trên đất liền mà những người này muốn - khuyên rằng họ làm theo mà không có mảy may một sự hoài nghi tôn giáo nào.
Salameh đã lựa chọn những người Đức vì khi những người này bị bắt thì những nhà cầm quyền nghĩ đến Nhóm vũ trang đỏ (Fraction armée) hay nghĩ đến những nhóm cực đoan khác hơn là nghĩ tới PLO. Khốn thay, cho những người Đức này, Palestine không có thói quen đề phòng rủi ro đối với những người không chuyên nghiệp, một khi công việc đã được hoàn tất. Khi những người Đức trở về với những thùng hàng đựng tên lửa, các điệp viên của PLO đã chuyển giao hàng sang một chiếc tàu nhỏ, đưa những người Đức đi, cắt cổ họ và đánh chìm chiếc thuyền Yacht ở ngoài khơi, cách bờ chừng một hải lý rưỡi.
Những quả tên lửa Strella được chất lên các chiếc xe tải Fiat nhỏ, và từ Bari, đội vận chuyển của PLO tới Rôm, qua Avelino, Terracina, Anzio, Ostie, tránh những con đường lớn và chỉ chạy ban ngày để tránh sự nghi ngờ. Đội vận chuyển đã để những kiện hàng tên lửa trong căn nhà. Tại đây, những quả tên lửa được cất giữ cho tới khi nào người ta cần sử dụng.
Tại Beyrouth, người cầm đầu nhóm Tháng Chín Đen, Abou Yousouf, ngay lập tức được thông báo rằng Akbar là một con chuột chũi. Lẽ ra giết anh ta đi và vì có thể làm hại tới toàn bộ công việc, thì người cầm đầu tổ chức Tháng Chín Đen đã quyết định sử dụng điều mà ông ta muốn đánh lạc hướng đi của người Israel. Nếu như những người Israel biết PLO dùng những thứ đó cho mục tiêu, làm sao họ lại không biết Akbar chỉ là một sự hiểu biết rất hạn chế của công việc.
— Chúng ta phải làm một vài việc gì đó khích lệ người Israel phải thốt lên: “A! té ra là thế” - Yousouf nói với các viên chỉ huy phó của ông như vậy.
Đó là vì sao ngày 28 tháng 12 năm 1972, sớm hơn ba tuần trước chuyến viếng thăm Rôm của bà Golda Meir, được ấn định vào ngày 15 tháng 1, tổ chức Tháng Chín Đen đã tổ chức cuộc tấn công - lúc đó được xem như không thể áp dụng được - chống sứ quán Israel ở Băng Kok, Thái Lan. Rõ ràng là hoạt động tấn công đã được chuẩn bị không tốt: PLO đã chọn ngày mà Hoàng thân Vajiralongkorn được tiến cử là người thừa kế ngôi vua ở Quốc hội, và Đại sứ Israel và phần lớn các nhà ngoại giao khác đều tham dự buổi lễ đó.
Tạp chí Time đã mô tả việc chiếm đánh Sứ quán ở đường Soi Lang Suan (một con đường nhỏ đằng sau vườn cây ăn quả) như sau: “Dưới ánh nắng nóng bỏng giữa trưa, hai người mặc áo vét da, leo qua bức tường của vườn hoa, trong khi đó hai người khác mặc quần áo màu thẫm băng qua hàng rào sắt với bước đi uể oải. Trước khi có thể phát tín hiệu báo động, người gác đã bị những họng súng máy khống chế. Nhóm người Ả Rập khủng bố Tháng Chín Đen, tác giả của vụ tàn sát Munich, một lần nữa đã bị trừng phạt”.
Thực tế như vậy, nhưng chỉ có một sự giải thích. Một lính biệt kích đã chiếm Sứ quán, treo lên trên một cửa số lá cờ xanh, trắng của Palestine. Người lính biệt kích này đã để cho người gác và toàn bộ nhân viên làm thuê người Thái ra khỏi Sứ quán, nhưng bắt những người Israel làm con tin, trong đó gồm cả ngài Shimon Avimor, Đại sứ tại Cambdge. Không bao lâu, khoảng 500 cảnh sát và binh lính Thái đã bao vây toà nhà. Qua cửa sổ, những tên khủng bố đã ném những thông điệp xuống đòi hỏi Israel phải giải phóng 36 người Palestine bị tù, và đe dọa sẽ cho nổ tung toà nhà Sứ quán và tất cả những gì có trong đó, kể cả chính bản thân họ.
Cuối cùng, Thứ trưởng Ngoại giao Thái Lan, Chartichai Choonhaven, nguyên soái Dwee Chullaspya, và Đại sứ Ai Cập tại Thái Lan, Moustapha el Essaway, được phép vào bên trong Đại sứ quán để mở cuộc thương lượng. Amir, Đại sứ Israel ở bên ngoài trong một văn phòng gần đó, ngay tức khắc một máy telex đã bảo đảm việc liên lạc với Thủ tướng Meir và Chính phủ của bà ở Jelusalem.
Sau một giờ thương lượng, những kẻ khủng bố chấp nhận khả năng để cho họ rời khỏi Thái Lan, nếu họ thả con tin. Sau đó, họ ăn gà cary với rượu whisky do Thái đãi và rạng sáng lên máy bay của Thái bay đi Thủ đô Le Caire cùng với Essaway, và hai nhà thương thuyết cấp cao của Thái Lan.
Trong một báo cáo về sự kiện này, tờ tạp chí Time đã nhấn mạnh như vậy là nhờ Đại sứ Essway “một tấm gương hiếm thấy của sự hợp tác giữa người Ả Rập với Israel… Nhưng, sự việc những kẻ khủng bố lắng nghe lẽ phải còn hiếm thấy hơn. Đó là lần đầu tiên tổ chức Tháng Chín Đen lùi bước”.
Đương nhiên, những nhà báo không có thể tiên đoán trước rằng sự việc này đã được biết trước ngay từ ban đầu. Những người Israel cũng không biết nốt, và ngoại trừ ra - Shai Kauly, khi đó chịu trách nhiệm về mạng ăng ten ở Milan (Italy) của Mossad - họ tin vào một hoạt động mà Akbar đã báo cho họ.
Để đảm bảo rằng việc nghi binh sẽ lung lạc được Mossad, trước cuộc tấn công Đại sứ quán ở Thái Lan, PLO đã nói với Akbar: Lúc này hãy ở lại Rôm, nơi mà hoạt động lại diễn ra tại một nước rất xa các chiến trường quen thuộc của những người khủng bố như: châu Âu, Trung Đông. Đương nhiên, người Palestine đã truyền thông tin cho Mossad, bằng cách là khi cuộc tấn công ở Băng Kok xảy ra, Tổng hành dinh ở Tel Aviv không chỉ tin rằng đó là hoạt động đã được nêu ở trên mà còn cảm thấy vui sướng vì đã không có một người Israel nào bị giết hoặc bị thương.
Được thuyết phục rằng, Băng Kok là mục tiêu đã được lựa chọn từ buổi đầu, Akbar đã có cuộc tiếp xúc với katsa của anh ta ở Rôm tổ chức một cuộc gặp khác. Các Cơ quan An ninh của Israel lại rất thận trọng, còn những người Palestine sẽ không bao giờ dùng đến sự nguy hiểm theo dõi Akbar tại một điểm hẹn khác, sợ rằng bị phát hiện và sẽ không bao giờ thông báo cho Mossad biết việc đó. Mục đích của họ là cung cấp cho Akbar những thông tin để anh ta chuyển cho người Israel.
Do tin rằng công việc đã kết thúc, Akbar đòi tiền. Vì Akbar sẽ trở lại London sớm, nên katsa của anh ta đã đề nghi đem theo tất cả những tài liệu về nơi ẩn náu bí mật của PLO, nếu có thể được. Cuộc gặp sẽ diễn ra ở một làng nhỏ phía Nam của Rôm, nhưng cuộc gặp ấy được bắt đầu với các cách thức như thường lệ - cử Akbar tới một quán ăn bình dân của Thủ đô - tiếp đó là những thủ tục thông thường của APAM.
Điều không bình thường, chính là kết quả của cuộc gặp.
Khi Akbar bị đẩy vào trong xe của katsa và chiếc cặp da của anh ta bị quăng vào trong chiếc ghế dài phía trước, như bình thường, một nhân viên của các Cơ quan An ninh đã mở chiếc cặp đó ra. Chiếc xe đã nổ tung, giết chết Akbar, người katsa và hai nhân viên của Cơ quan An ninh. Người lái xe sống sót nhưng bị trọng thương đến nỗi hiện nay tình trạng sức khỏe của anh này còn rất kém.
Ba nhân viên khác của Mossad đi chiếc xe theo sau và sau này, một trong số họ nhất quyết rằng anh ta đã nghe, trong máy điện đài sách tay (Walkie-talkie) Akbar kêu lên, một cách hoảng sợ: “Không được mở cặp”. Vì anh ta biết rằng chiếc cặp có chứa thuốc nổ. Tuy nhiên, Mossad không bao giờ có thể xác định được người Palestine biết hay không biết trong chiếc cặp của anh ta đã được gài mìn.
Cho dù việc đó là gì đi nữa, những người trong chiếc xe thứ hai đã phải gọi một đội sayanim địa phương - cùng với xe cứu thương, y tá, bác sỹ tới. Những thi thể còn lại của ba người đồng nghiệp và người tài xế bị thương nặng được chuyển đi nhanh chóng, rồi sau đó được đưa về Israel. Thi hài bị thiêu cháy của Akbar được để lại bên vệ đường để cho cảnh sát Italy tìm thấy.
Người ta xác nhận rằng PLO đã phạm sai lầm giết Akbar trước công việc của Meir, khi bà có thể đón chờ chuyến đi rất tốt tới London.
Chắc chắn, Mossad có thể đã biết ai đã giết Akbar, nhưng điều đó không còn quan trọng đối với họ lúc này nữa.
Trong lúc ấy, bà Golda Meir đã tới Pháp để thực hiện bước thứ nhất trong chuyến đi tới Rôm. Những nhân vật quan trọng của Mossad vui sướng là Meir đã không đem theo Israel Gali, viên Bộ trưởng Không bộ, một con người mà bà có quan hệ từ lâu ngày cùng đi. Hai người thanh niên trẻ thường gặp lại tại Viện Hàn lâm, vì những cuộc hẹn của họ và những tình cảm nồng thắm khi họ đến trường học.
Mark Hessener (xem chương IV; phần 1), người phụ trách mạng lưới ở Rôm, đã hoàn toàn bị lừa dối bởi sự mưu mẹo xảy ra ở Băng Kok. Nhưng, tại Milan, Shai Kauly vẫn tin rằng cái gì đó khập khiễng trong kịch bản. Đó là một người đàn ông kiên nghị, có nhận thức, với sự nổi danh có công về sự ám ảnh của các chi tiết. Điều đó, đôi khi cho thấy những nguy hiểm, ông ta đã chậm chuyển một ngày bức điện khẩn để người ta có thế sửa chỗ sai ngữ pháp. Nhưng thông thường nhất, tính tỉ mỉ của ông là một phương tiện để thành công. Trong trường hợp ấy, tính tỉ mỉ đã cứu mạng sống của Golda Meir.
Kauly không ngừng đọc các báo cáo liên quan đến cái chết của Akbar và các hoạt động của PLO gắn liền với người Palestine. Cái đó đối với ông ta hình như đã đánh lạc hướng, rằng cuộc tấn công ở Băng Kok là việc Akbar đã nói đến: Tại sao công việc đó lại cần thiết phải chuyển vũ khí qua Italy? Sau vụ người Palestine bị giết hại, thì những nghi ngờ của Kauly càng tăng lên. Tại sao PLO lại giết anh ta, nếu điều đó không phải là PLO đã biết anh ta chính là một điệp viên của Israel? Và, nếu như PLO biết điều đó, thì sự việc ở Băng Kok là một mẹo lừa, Kauly suy luận như vậy.
Tuy vậy, chả có gì chắc chắn để tiếp tục cả. Mossad phái katsa tới London, chịu trách nhiệm về một âm mưu sát hại, lập luận rằng khi Mossad đề nghị Akbar đem theo tất cả những tài liệu, Mossad đã không giải thích cho anh ta là làm thế nào để tiến hành mà không để bị bắt.
Về phần Hessner, dã tâm của ông đối với Kauly tạo nên một nguyên nhân nghiêm trọng của sự rắc rối trong diễn biến các sự kiện. Lúc Hessner là học viên của Hàn lâm viện, ông ta đã nhiều lần bị lừa dối về những gì ông ta làm - đặc biệt do Kauly, thời đó là giáo viên của ông ta - vì thế, ông ta bị theo dõi mà ông ta không biết. Đáng lẽ phải hoàn thành nhiệm vụ, Hessner lại quay thẳng trở về nhà và đưa cho Kauly một báo cáo đầy đủ khác với những gì đã xảy ra trong thực tế. Ông ta đã không bị thải hồi, nghĩa là ông ta đã là một con “ngựa” có ảnh hưởng trong nhà, nhưng ông ta không bao giờ tha thứ cho Kauly về những sai lầm khi sử dụng ông ta, và Kauly không bao giờ xem ông ta như một người chuyên nghiệp.
Giống như những việc thường xuyên xảy ra trong tình huống loại này, một yếu tố bất ngờ ngoài sự mong đợi, đã thúc đẩy Kauly tới cách làm quyết định. Một phụ nữ ở Brucxelle nói được nhiều thứ tiếng và có nhiều tài năng, đang coi trông một căn nhà cho các chiến sỹ của PLO dùng làm chỗ nương thân tạm thời trong cuộc chiến tranh không bao giờ kết thúc chống lại người Israel. Một người phụ nữ chuyên vay mượn sự quyền quý, đó là một người bạn đầy ấn tượng của các thành viên PLO. Mossad đã đặt các máy nghe trộm trong căn nhà của cô ta, ghi lại các cuộc tranh luận của người phụ nữ trẻ và các bạn của mình ở các giai đoạn khác nhau của sự si tình ngây ngất - mà nó đã trở thành thú tiêu khiển thích thú của những người phụ trách các Cơ quan Mật vụ Israel trên thế giới. Người ta nói rằng người phụ nữ trẻ này có khả năng nói được ít ra là sáu thứ tiếng.
Vài ngày trước chuyến viếng thăm của bà Golda Meir tới Rôm, một ai đó - Kauly nghĩ rằng đó là Salameh, nhưng không bao giờ ông ta dám khẳng định điều đó - trong ngôi nhà ở Bruxcelle đã nói với người phụ nữ trẻ rằng ông ta phải điện thoại về Rôm. Rồi người đó đã lệnh cho một người bắt liên lạc “bỏ lại căn nhà và mang theo đi 14 chiếc bánh ngọt”. Bình thường, một cuộc gọi điện thoại đi Rôm không có gì đặc biệt để gây sự chú ý, nhưng với chuyên viếng thăm sắp tới của bà Golda Meir, và những nghi vấn mà Kauly đã nung nấu, ông ta đã không cần gợi lên một sự phản ứng nữa.
Sinh ra ở Đức, Kauly chỉ cao một mét sáu mươi lăm. Ông ta có bộ mặt xương xương, bộ tóc đen nhánh, nước da sáng. Nhân cách bị xoá bỏ, ông không cố gây ấn tượng với cấp trên của mình, và vì lý do này mà ông ta ở Milan, một ăng ten không mấy quan trọng, trong khi Hessner đang điều hành ăng ten này ở Rôm.
Khi Kauly nghe cuốn băng ghi ở Bruxcelle, ngay lập tức ông ta điện thoại cho một người bạn điệp viên quan hệ, chính người này lại gọi cho một người bạn trong Cơ quan Tình báo của Italy, Vito Michele, và nói rằng anh ta cần gấp một địa chỉ để trả lời cho một số điện thoại. (Kauly thuộc Tsomet - cơ quan tuyển mộ! Ông này đã đăng ký như một tuỳ viên và vì vậy, không muốn để lộ ra tư cách của một katsa cho các cơ quan địa phương biết. Không có vấn đề điện thoại trực tiếp cho Michele.)
Michele trả lời rằng anh ta không thể thoả mãn được yêu cầu nếu không có sự cho phép của ông chủ, Amburgo Vivani, và người điệp viên quan hệ nói rằng ông bạn gọi thẳng cho Vivani - điều mà ông ta đã làm. Qua một số mạng lưới của Cơ quan Tình báo Italy, mà người ta đã nhờ để có thông tin, thì việc này không làm cho Kauly vui thích. Ông ta chỉ biết được rằng, người đàn ông của căn nhà ở Rôm đã nhận được lệnh ra đi vào ngày hôm sau.
Điều này đã khiến cho họ có rất ít thời gian để tìm lại địa chỉ và xác định xem người phụ nữ kia có biết gì trong buổi chiều hôm đó đối với một hoạt động của PLO không.
Vivani đã đạt được việc có địa chỉ, nhưng một việc không thể tưởng tượng nổi, là viên sỹ quan quan hệ, lẽ ra phải phát thông tin này cho Kauly, thì anh ta lại phát cho ăng ten ở Rôm, mà bộ phận này chả hiểu gì về tầm quan trọng của vấn đề - và từ xung đột Kauly - Hessner - ăng ten ở Rôm đã giữ thông tin này lại trong ngăn kéo tới hôm sau. Cuối cùng thì bản thân Kauly đã tìm được địa chỉ và điện thoại cho ăng ten ở Rôm, đề nghị trực tiếp tới căn nhà bởi vì việc này có quan hệ trực tiếp tới chuyến thăm của bà Meir. Tại thời kỳ này, Kauly không còn một sự tin tưởng chắc chắn nào cả, nhưng ông ta tin rằng sẽ xảy ra một sự kiện lớn.
Khi Mossad tìm tới căn nhà, thì căn nhà trống không, nhưng một cuộc tìm kiếm cho phép họ nắm được một bằng chứng quan trọng: Một mẩu giấy bị xé nát, mặt sau cho thấy chiếc tên lửa Strella và nhiều chữ Nga giải thích về cơ chế vận hành.
Lúc này Kauly đã bay đi. Chưa đầy hai ngày trước khi bà Thủ tướng đến, ông ta biết rằng Rôm đã đầy rẫy các điệp viên của PLO, một hoạt động đang được tiến hành và người Palestine có các tên lửa không bao lâu bà Meir sẽ tới. Nhưng chỉ với những điểm nói trên, thì hoàn toàn chưa chắc chắn.
Kết cục, người ta đã báo trước cho bà Golda Meir về rủi ro có thể xảy ra, nhưng bà Meir trả lời “Tôi sẽ gặp Đức Giáo hoàng. Các ngài và người của các ngài hãy làm mọi cách để tôi hạ cánh mà không có vấn đề gì”.
Kauly lúc đó đi tìm gặp Hessner để biết liệu họ có phải để cho các Cơ quan Mật vụ của Italy biết hay không. Hessner cảm ơn sự giúp đỡ của Kauly và nói thêm: “Ăng ten của anh, chính là Milan. Còn đây là Rôm”. Và thế là ông ta ra lệnh cho Kauly đi khỏi. Với tư cách là người phụ trách ăng ten ở Rôm, Hessner mặc nhiên chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động. Nếu một quan chức cao cấp nào ở Israel muốn nắm việc điều hành của anh ta, người đó phải tới ăng ten ở Rôm. Đó chưa phải là việc vừa diễn ra ở đây. Rất có thể hôm nay, điều đó sẽ đến.
Nhưng Kauly lại lo lắng về an ninh cho Thủ tướng hơn là một sự khác nhau về việc phán quyết. Kauly đáp lại Hessner là sẽ thấy “tôi ở lại đây’, ông ta nói một cách cương quyết. Giận dữ phát khùng lên, Hessner đã phàn nàn tại trụ sở làm việc rằng Kauly đã gieo rắc sự lẫn lộn trong hệ thống chỉ huy. Khi đó, Tel Aviv đã lệnh cho Kauly bỏ công việc và trở về Illico ở Milan ngay. Kauly đã không rời khỏi Rôm. Ông ta mang theo hai trong số những katsa của mình ở Milan theo - việc đó đã làm cho ăng ten của ông ta bỏ trống - và ông ta hứa với Hessner là họ sẽ bằng lòng làm việc săn lùng, nhưng không làm ảnh hưởng tới bất kỳ ai. Hessner quá không hài lòng về điều này nữa, nhưng vì đã khẳng định đối với chức trách của mình ông ta đã lệnh cho tất cả mọi người của mình hãy ra sân bay và tạo nên một mạng lưới trong vùng xung quanh, mưu tính tìm ra con đường của bọn khủng bố. Nhưng, giả sử như Mossad có thể đã biết nhiều về những nơi ẩn náu của những kẻ khủng bố hơn, thì trên thực tế, người Palestine đã có sự dự phòng thêm chỗ trú đóng trong đêm ở khu vực bãi biển, cắm trại trong những chiếc xe của họ. Chuyến viếng thăm, trước hôm bà Thủ tướng Meir đến, tất cả các khách sạn, các nhà nghỉ của Lido di Ostia và của vùng xung quanh, cũng như những nơi các thành viên của PLO thường lui tới đều không tỏ ra có điều gì cả.
Biết rõ tầm bắn của các tên lửa, Mossad chí ít cũng biết khu vực nào cần phải lùng sục trước khi máy bay hạ cánh. Tuy nhiên, khu vực như thế rất mênh mông - dài 20 km và rộng 8 km - quyết định ngớ ngẩn của Hessner không báo trước cho cảnh sát địa phương một vấn đề có tầm cỡ như vậy và đã không thu xếp được việc gì. Các tên lửa Strella có thể được bắn từ xa. Khi mục tiêu nằm trong bán kính hoạt động của các tên lửa, một sự phát ra bằng điện sẽ làm cho máy phát tín hiệu hoạt động; một khi được phóng đi, tên lửa tự động đi tìm mục tiêu. Những kẻ khủng bố có thể được báo cho biết thời gian biểu về máy bay của bà Meir, bởi vì họ sẽ được thông báo chính xác giờ máy bay cất cánh từ Paris qua các điệp viên của họ cung cấp, và họ có thể dự tính được thời gian hạ cánh của máy bay. Mặt khác, đó là một chiếc máy bay E1 AI - chuyến bay chờ đợi duy nhất trong ngày.
Vào thời kỳ này, bản thân những người lãnh đạo của hãng Alitalia có nói rằng phi trường Leonardo da Fiumicino là một trong những phi trường “tồi tệ nhất trên thế giới” - Do có nhiều máy bay, nên các chuyến bay hàng ngày luôn luôn bị trễ., đôi khi chậm tới ba tiếng đồng hồ, bởi vì sân bay chỉ có hai đường băng tiếp nhận hạ cánh mà lại có 500 máy bay trong một ngày vào thời kỳ cao điểm.
Dĩ nhiên, chiếc máy bay của Thủ tướng sẽ được ưu tiên, nhưng sự lộn xộn ở sân bay không giúp gì cho các nhân viên của Mossad theo đuôi tới chỗ này hay chỗ kia, để tìm những nhóm khủng bố và các tên lửa. Những người Palestine có thể có mặt ở bất cứ đâu, thậm chí trong sân bay, trong các nhà để máy bay gần đó, hoặc trong khu vực xung quanh.
Trong khi lùng sục phía của mình ở sân bay, Kauly đã rơi vào tay của một katsa.thuộc ăng ten ở Rôm và hỏi người này là những điệp viên làm công việc Quan hệ ở đâu. (Chính họ chứ không phải các katsa, là những người sẽ báo cho các Cảnh sát Italy trong trường hợp cần thiết).
— Những điệp viên quan hệ nào? - Người katsa vặn hỏi.
— Anh muốn nói là không có người nào ư? - Kauly kêu lên, tỏ ra sững sờ.
— Không có.
Kauly lập tức gọi viên sỹ quan về quan hệ ở Rôm, yêu cầu anh ta điện thoại cho Vivani giải thích với ông ta về những việc vừa xảy ra.
— Cần phải rút tất cả các mạng lưới nhân viên. Nhất thiết phải có lực lượng tăng cường cho chúng tôi ở đây.
Những kẻ khủng bố có thể đã trú đóng bên ngoài chu vi của sân bay - tương đối gần để máy bay của Thủ tướng Meir nằm trong tầm bắn của tên lửa - vì có rất ít nơi thuận lợi để ẩn náu ngay trong sân bay. Người Israel, trong khi đó đã lùng sục khắp nơi, và không bao lâu đã có sự giúp đỡ của Adaglio Malti, của Cơ quan Phản gián Italy.
Malti hoàn toàn không biết Mossad đã trải nhân viên đông như kiến ra mà chỉ biết qua “tuy ô” của viên sỹ quan quan hệ ở Rôm thông báo về nguồn tin chắc chắn, rằng PLO đã có dự tính tấn công chiếc máy bay của Thủ tướng Meir ở sân bay bằng tên lửa do Liên Xô chế tạo - điều này đã không đặt người Italy vào hoàn cảnh khó xử.
(Trước hết cần phải có sự phê duyệt của cơ quan phụ trách Quan hệ ở Tel Aviv với thông điệp trước khi được chuyển cho người Italy.)
Vào giai đoạn này, những kẻ khủng bố đã được chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất có 4 tên lửa, đặt ở phía Nam sân bay; nhóm thứ hai có 8 tên lửa Strella khác, bố trí ở phía Bắc sân bay. Sự việc mà người ta không thể cắt nghĩa được sau hoạt động, là sự biến mất của hai trong số 14 “chiếc bánh gatô” phải được xác định tiếp sau đó. Nhưng, lúc ấy, nhóm khủng bố ở phía Bắc đã đặt hai tên lửa trong vùng phụ cận, bên cạnh chiếc xe tải nhỏ hiệu Fiat.
Một thành viên của Cơ quan An ninh Mossad làm nhiệm vụ thanh sát khu vực đã nhanh chóng phát hiện ra những tên lửa này. Ông ta kêu lên. Những người Palestine khai hoả. Cảnh sát Italy chạy đến và người của Mossad - là người không mong đợi họ, bởi vì đó chính là Kauly đã báo trước cho họ - đã tẩu thoát đi. Trong lúc hỗn loạn, một trong số những kẻ khủng bố cố chạy thoát, nhưng các sỹ quan của Mossad đã quan sát thấy và kẻ khủng bố liền bị bắt, trói chặt lại, ném lên xe dẫn trở vào trong một nhà hăng ga (nhà để máy bay).
Bị đánh nhừ tử, người Palestine kia đã thú nhận là tổ chức của hắn ta có ý định giết bà Golda Meir và văng ra lời thách thức:
— Các ông không thể làm gì được cả!
— Người ta không thể làm được gì ư? - Một người Israel hỏi vặn lại - Nhưng người ta đã tóm được mày đấy thôi!
Và thế là lại một trận nhừ tử. Thỉnh thoảng, Kauly lại nghe được qua máy phát tin cầm tay là người ta đã bắt được một tù binh. Tin cho biết là tên tù đang ở trong hăng ga. Các đồng sự của Kauly đã cho ông thấy tên khủng bố mà họ đã bắt sống và nói rõ rằng những người Italy đã bắt được một số tên khác và 9 hoặc 10 tên lửa.
Kauly nhớ lại cú điện thoại từ Bruxcelles về vấn đề “14 chiếc bánh gatô”. Không chỉ luôn có vấn đề với Mossad, nhưng vấn đề chỉ tồn tại trong khoảng nửa giờ trước khi máy bay tới. Hẳn phải có những tên lửa khác nữa, thế nhưng chúng ở đâu?
Kauly giội nước lên người tên tù bất tỉnh.
Thế là hết đời - Kauly nói với người tù - Lần này, các anh đã dùng roi vọt làm hỏng cả. Bốn phút nữa, máy bay của bà Meir sẽ hạ cánh xuống. Các anh không có thể làm gì nữa.
Thủ tướng của các ông, nó phải chết!- Tên khủng bố thét lên với những người Israel.
Những vẻ sợ hãi tồi tệ nhất của Kauly đã được xác nhận: trên một vài bộ phận của chiếc tên lửa do Liên Xô chế tạo có ghi tên của bà Golda Meir.
Một người của Cơ quan An ninh lúc đó đã đánh chết một người Palestine khác. Khi người ta bắt được tên này. trên mình hắn có mang theo thuốc nổ mà những kẻ khủng bố thường sử dụng có tên là “Betty la sauteuse” (Betty con mụ lẳng lơ). Người ta thường găm chất nổ trong đất như một quả mìn, nhưng nó được nối với một cái cọc nhỏ bằng một sợi dây gắn vào một cái chốt. Những người Israel đã để chất nổ đó bên cạnh tên tù nối một sợi dây dài hơn từ hăng ga ra và kéo sợi dây cho chất nổ làm cho người tù tung ra từng mảnh nhỏ.
Sự căng thẳng thật khủng khiếp. Kauly gọi Hessner bằng máy điện đài xách tay và đề nghị Hessner ra lệnh qua vô tuyến điện cho phi hành đoàn của bà Meir hãy hạ cánh chậm lại. Người ta không biết liệu Hessner có ra lệnh hay không. Điều mà người ta biết, đó là một nhân viên của Mossad tuần tiễu bằng xe suốt dọc một con đường, đã lưu ý tới một việc gì đó kỳ cục. Ba lần qua lại trước một căn nhà tồi tàn được sửa chữa, ba ông tuy ô nổi lên trên mái nhà, nhưng chỉ có một ống có khói. Những kẻ khủng bố đã tống khứ (khử) một nhà buôn, chọc thủng hai lỗ để qua đó họ có thể đặt tên lửa Strella. Kế hoạch được tính toán như sau: Khi chiếc máy bay của bà Meir đã đến tương đối gần, rồi tên lửa sẽ bắt đầu phát ra tín hiệu âm thanh, đủ để những kẻ khủng bố tỳ vào cò tên lửa, và 15 giây sau, chiếc máy bay sẽ bị phá huỷ.
Không bỏ lỡ một giây, người của Mossad đã đánh một nửa vòng, lao thẳng chiếc xe của họ vào ngôi nhà tồi tàn kia, làm đổ nhào ngôi nhà, hai tên khủng bố bị kẹt ở bên dưới. Người của Mossad xuống kiểm tra thấy có hai tên lửa - và những người Palestin đã bị mắc bẫy. Nhìn thấy những chiếc xe của cảnh sát đang lao về phía mình, người của Mossad leo lên xe rồi phóng theo hướng đi Rôm. Ngay khi được báo có các đồng nghiệp của Mossad tới, thì tất cả đã biến khỏi khu vực làm như chưa bao giờ họ đặt chân tới đây.
Cảnh sát Italy đã bắt 5 thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen. Nhưng sự việc khác thường là những kẻ khủng bố đã bị bắt quả tang khi họ tính giết bà Meir, thì mấy tháng sau, những người này đã được thả và đưa lên một máy bay để trục xuất sang Lybie.