← Quay lại trang sách

Chương 2 Carlos.

Ngày 21 tháng 2 năm 1973, Israel phái hai chiếc máy bay tiêm kích phản lực Phantom (Con Ma) đi đánh một chiếc máy bay Boing 727 của Hãng hàng không Lybie Arab Airlines, mà điểm hạ cánh của nó là Thủ đô Le Caire của Ai Cập, nhưng nó bị lạc đường. Họ đã bắn hạ chiếc Boing, giết chết 105 người trong số 111 hành khách đi trên máy bay. Thảm kịch đã xảy ra 12 giờ sau khi một đơn vị biệt kích của Israel đã tiến hành một hoạt động trả đũa quả cảm vào Thủ đô Beyrouth, phá huỷ nhiều cơ sở của PLO, chiếm được một khối lượng lớn hồ sơ, tài liệu đáng kể và thanh toán được nhiều nhà lãnh đạo của Palestine, đặc biệt có Abou Yousouf, người cầm đầu tổ chức Tháng Chín Đen, và người vợ của ông ta.

Việc phá huỷ một chiếc máy bay dân dụng là sai lầm. Vào thời kỳ này, người ta đã đe dọa Israel là sẽ phóng một máy bay mang đầy bom lao vào Tel Aviv. Chiếc Boing đi thẳng vào một trong những căn cứ quân sự chính của Sinai, và Bộ tư lệnh của không lực không thể dính líu vào, đây là do một viên đại uý đã quyết định bắn hạ chiếc máy bay đó.

Sáu năm đã trôi qua trước khi Mossad không thực hiện được việc trả thù đối với ông Hoàng Đỏ, nhưng sự trả thù cá nhân của Golda Meir chống lại tổ chức Tháng Chín Đen đã làm thay đổi về căn bản vai trò của Học viện. PLO đã trở thành một phần quan trọng nhất trong các hoạt động của Mossad, một việc có ảnh hưởng tai hại bởi vì người ta đã ít quan tâm đến những kẻ thù khác, như Syrie và Ai Cập, là những nước đang hô hào chiến tranh và trên thực tế, họ đang chuẩn bị chiến tranh. Anouar Al-Sadate đã thành lập các tổ chức gọi là “Các uỷ ban chiến tranh” trong khắp nơi của Ai Cập. Ngược lại, Mossad dành hầu hết thời gian và nguồn tài lực của mình vào việc săn đuổi những kẻ khủng bố của Tháng Chín Đen.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, một vài tháng sau thời kỳ các tên lửa Strella, tướng Eliahu Zeira, người cầm đầu các Cơ quan Tình báo của Quân đội Israel, đã chủ trì một cuộc họp báo ở Tel Aviv: “Sẽ không có chiến tranh”. Giữa lúc đang họp báo, một một sỹ quan đi thẳng vào phòng họp và chuyển một bức điện cho viên tướng. Zeira đọc bức điện và ngay lập tức rời khỏi phòng họp mà không nói một lời.

Ai cập và Syrie đã tấn công, cuộc chiến tranh Kippour đã bắt đầu, ngay từ ngày đầu tiên, đã làm phía Israel chết 500 và bị thương hơn 1.000 người. Vài ngày sau, Israel cầm cự được và bắt đầu đẩy lùi quân xâm lược, nhưng cuộc chiến tranh đã mãi mãi là nguồn khát vọng - đối với bản thân Israel cũng như đối với các nước khác - về hình tượng sức mạnh vô địch mà trước kia Israel đã có.

Bà Golda Meir vẫn luôn luôn sống, nhờ có Mossad, nhưng một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh này đã khiến bà phải từ chức Thủ tướng vào ngày 10 tháng 4 năm 1974.

Còn về phần Shai Kauly, ông ta biết rằng ông đã có 2 quả tên lửa Strella mà người ta không bao giờ tìm thấy được sau âm mưu ám hại bà Meir. Tuy nhiên, mối đe dọa đã lùi xa ngay lập tức. Kauly đã trở lại nhiệm sở ở Milan, và cuộc chiến tranh chẳng mấy chốc đã lấn át tất cả những vấn đề khác.

Sau tai họa ở sân bay, cảnh sát Italy đã rất bối rối, người ta đã định ám sát ngay trước mũi họ một nhà chính trị quan trọng và cảnh sát Italy đã chẳng làm được việc gì ngoài việc đến chậm và thu dọn những mảnh vỡ vụn do Mossad để lại ở phía sau. Các Cơ quan Tình báo Italy đã hoàn toàn không nghĩ gì tới sự tồn tại của một kế hoạch giết bà Meir. Trừ phi có một số nhân viên của các Cơ quan Tình báo thế giới biết, còn dư luận không hay biết gì về việc này cả. Và Cơ quan Tình báo của Italy đã yêu cầu người Israel không để các chi tiết của vụ này được truyền lan ra. Mossad đánh giá rằng trong khi giúp những nước khác “che giấu”, họ sẽ thu lại được một lợi thế. Vì thế, Mossad luôn luôn sẵn sàng để cho một người nào đó cứu lấy thể diện - chừng nào mà người này biết rằng, đối với Mossad, thậm chí nó là một thằng ngu đần chơi đẹp.

LAP, hay Lohamah Psichlogit, tổ chức chiến tranh tâm lý của Mossad, vì thế đã chịu trách nhiệm tu chỉnh lại lịch sử để kéo người Italy ra khỏi sự bối rối. Vào thời kỳ này, quan hệ giữa Israel và Ai Cập cực kỳ căng thẳng, nhưng Mossad thật sự bận rộn với việc tìm kiếm các thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen mà tổ chức này không có một dấu hiệu gì về việc chuẩn bị một cuộc chiến tranh cả. Với chỉ vẻn vẹn 35 hoặc 40 katsa hoạt động trên khắp thế giới trong bất kỳ thời điểm nào, việc tập trung vào các hoạt động của PLO - tổ chức có hàng nghìn người trong các phe phái khác nhau - có thể làm bận rộn cả cơ quan và gây ra những hậu quả trầm trọng trong công việc theo dõi các kẻ thù quan trọng khác của Israel.

Dù cho thế nào đi nữa, LAP cũng đã soạn thảo một chuyện hoang đường mà những người Italy đã có thể công bố, nhưng cùng lúc LAP đã thông báo cho các Cơ quan Tình báo của Anh, Pháp và Mỹ về những điều thực sự đã xảy ra. Trong thế giới tình báo, có một quy định gọi là “quy định của người thứ ba”, ví dụ, nếu Mossad truyền tin tức cho CIA bởi vì CIA thoả thuận với cơ quan có mối quan hệ tốt trong công việc, thì CIA không được thông tin cho bên thứ ba vì các thông tin ấy bắt nguồn từ một tổ chức tình báo khác. Tất nhiên, người ta có thể đổi thay quy định bằng cách giải thích những thông tin này trước khi nó được phát đi.

Trong thời gian có sự cố ở sân bay, Mossad thường xuyên cung cấp cho CIA. danh sách các loại quân cụ Xô viết gửi cho Ai Cập và Syrie, bao gồm cả số hiệu của loạt vũ khí. Việc làm gồm hai mục tiêu: Tạo cho Mossad một bộ mặt tốt đẹp, có khả năng thu thập các thông tin như vậy và để cho thấy một kho vũ khí đã được tạo nên trong khu vực. Việc này giúp cho CIA thuyết phục Chính phủ Mỹ tăng viện trợ cho Israel. CIA đã không thể nêu lên trong Quốc hội là những thông tin đó từ đâu mà có, tuy nhiên họ khẳng định những tin tức đó do người Do Thái đưa ra.

Người Mỹ cho rằng Muammar AI Kadhali của Lybie là một người điên khùng nguy hiểm, và trong giữa những năm 1970, toàn thế giới đã bị rung chuyển do sự xuất hiện khắp nơi những nhóm cách mạng khủng bố: Tổ chức Hành động trực tiếp ở Pháp, băng Baader-Meinhof ở Đức, Hồng quân Nhật, những Đội xích vệ Italy (họ đã ám sát Chủ tịch Hội đồng Aldo Moro trong năm 1978), tổ chức ETA của xứ Baxcơ (người đã báo thù giết chết Carrero Blanco, Tổng thống của Chính phủ Tây Ban Nha, trong năm 1973), và nhiều tổ chức bí mật Palestine. Thậm chí ở ngay Hoa Kỳ, cũng có những tổ chức Weathermen và Quân đội Symbionese giải phóng - tổ chức đã bắt cóc người đàn bà thừa kế Patricia Hearst, năm 1974.

Trong lúc đó, một số lớn nhà thờ và các tu viện của người Do Thái ở châu Âu đã là mục tiêu đánh bom, và Mossad đã phán xử thời điểm được lựa chọn tốt để kết tội những người Ai Cập và người Lybie từ những sự kiện ở Italy, thậm chí, họ hoàn toàn chả làm gì ở đó cả.

Mossad đã thu được danh sách các tên lửa Strella mà Italy bắt được. Lúc nào cũng chỉ có 12 chiếc, nhưng Mossad chỉ lo lắng về 2 chiếc tên lửa không có về sau này. Những số hiệu của loạt tên lửa Strella được bổ xung cho danh sách vũ khí do người Nga giao cho Ai Cập, dù rằng trong lúc thẩm vấn, Mossad đã biết các tên lửa đặc biệt này được đưa từ Nam Tư tới.

Theo những câu chuyện được LAP bịa ra cho công chúng Italy, những kẻ khủng bố đã tiếp nhận những vũ khí từ Lybie và đã rời Beyrouth bằng xe vào cuối năm 1972 cùng với những tên lửa Strella, tới Italy bằng phà và được chuyển tới Rôm, sau đó, họ phải tới Viên để đánh chiếm một mục tiêu của người Do Thái. Lý do để người ta giải thích việc đánh lạc hướng này, chính là quá dễ dàng để từ một nước cộng sản, vượt biên giới một nước phương Tây này đến một nước phương Tây khác. Những kẻ khủng bố bị cảnh sát Italy bắt “một cách chính thức” ngày 26 tháng 1 năm 1973 vì mang theo chất nổ. Họ đã bị bắt tù một cách bí mật từ khi âm mưu của họ không thành ở sân bay, trong khi đó, LAP tu sửa lại kịch bản của họ. Không thể hiểu được vì sao Cảnh sát Italy đã thả những người tù. Trước hết họ thả hai người, sau đó thả ba người khác nữa.

Trong thời gian này, những nhà quân sự Mỹ đã đưa tất cả những thông tin do Mossad cung cấp vào trong các máy tính của họ. Ngày 26 tháng 1, khi người Italy thông báo rằng họ đã bắt được những kẻ khủng bố và thu được một số vũ khí. Bản thân người Italy cũng đã chuyển cho CIA các số hiệu của loạt tên lửa Strella và CIA đã chuyển thông tin đó cho Cơ quan Tình báo Quân đội. Khi những số hiệu của loạt tên lửa này được mang ra đối chiếu với những số hiệu do Mossad cung cấp lấy từ những vũ khí do Liên Xô chuyển cho Ai Cập và Lybie, thì máy tính cho biết đó cùng là một số hiệu. Từ đó, người Mỹ tin rằng người Nga đã cung cấp cho Ai Cập, và chính Ai Cập chuyển giao cho Kadhafi và Kadhafi đã vũ trang cho quân khủng bố - một chứng cứ phụ nữa là nhà lãnh đạo của Lybie lại đúng là người mà Mỹ đã nghĩ đến. Chỉ duy nhất có Mossad là biết sự thật.

Lý do chính để người Italy thả những kẻ khủng bố, đó là họ e rằng sự việc không tránh khỏi bị phán xét và sự thật rồi sẽ lộ ra: Các cơ quan của Italy đã phạm sai lầm khi thả những người khủng bố sát hại một nhà lãnh đạo có tầm cỡ của thế giới. Một vụ bê bối lớn.

Mossad luôn luôn lo lắng về hai chiếc tên lửa không có, nhưng người Italy thì thoả mãn, bởi vì họ đã giấu giếm điều lầm lẫn lớn của họ, và người Mỹ lại nghĩ rằng Kadhafi là người đứng đằng sau tất cả những sự việc.

Trong lúc những kẻ khủng bố còn đang trong tù, thì những nhân viên của Shaback đã thẩm vấn họ và đã phát hiện ra rằng Ali Hassan Salameh, ông Hoàng Đỏ, là người thực sự đã dính líu vào sự việc. Mossad, hơn bao giờ hết rất muốn bắt ông này.

Cảnh sát Italy đã cho phép Shaback thẩm vấn những người Palestine tại Rôm. Theo mọi khả năng có thể, một nhóm hai người của Shaback được đưa vào trong một buồng, nơi có người tù ngồi trên một chiếc ghế, hai tay bị trói quặt ra sau lưng bằng các chiếc khoá, hai chân cũng bị xích, với một sợi xích nối vào cổ tay. Công việc đầu tiên mà những nhân viên của Shaback làm là đề nghị những cảnh sát Italy ra ngoài. “Giờ đây, nó là phòng của người Israel, chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm với tên tù”. Chắc chắn là người tù Palestine kia bị làm cho sợ hãi khủng khiếp, người tù tới châu Âu để tránh bị kết liễu trong tay người Israel.

Sau khi cánh cửa được đóng lại, những sỹ quan của Shaback nói một vài điều gì đó bằng tiếng Ả Rập như: “Chúng tôi là những người bạn của Moukhabarat (thuật ngữ mà người Ả Rập dùng để chỉ Cơ quan Tình báo nói chung. Trên thực tế, một số lớn các Cơ quan Tình báo của Ả Rập mang tên này).

Họ muốn tin chắc rằng viên tù nhân biết chính xác là hắn làm việc cho ai và tình cảnh của hắn ta như thế nào. Tiếp đó, không nghi ngờ gì nữa là họ tháo các dây trói bình thường và thay vào đó bằng một kiểu tàn bạo hơn rất nhiều mà họ thường dùng. Bằng chất liệu plastique, những dây trói giống như những ghim kẹp được dùng để gắn những tên, hiệu lên trên những chiếc va li, nhưng chắc chắn hơn nhiều và có những lưỡi dao lam nhỏ trên những khoá bấm. Khác với những dây trói bình thường, các dây khoá này để lỏng một chút cho cổ tay cử động được. Khoá thít rất mạnh, cắt đứt việc lưu thông của các mạch máu và gây ra đau đớn dữ dội.

Và còn một số cách tra tấn khác khiến người tù phải mở miệng. Trong trường hợp ấy, những nhân viên của Shaback khốn thay lại không biết rằng người tù sẽ nhanh chóng được trả tự do và vì thế họ đặt nhiều câu hỏi về Salameh với người tù. Chỉ cần một trong số đông người sau khi được thả ra, là ông Hoàng Đỏ sẽ nhanh chóng biết rằng ông là mục tiêu số một của Mossad.

Trong thời kỳ này, Tháng Chín Đen đã duy trì một áp lực rất mạnh, bị bom thư, các vụ đánh bom và đánh lựu đạn trong khắp châu Âu. Nếu Mossad muốn bằng mọi giá thanh toán Salameh, thì những người lãnh đạo của tổ chức ở Beyrouth sẽ làm tất cả để bảo vệ ông ta và sẽ yêu cầu ông ta về quê nghỉ một thời gian.

Abou Yousouf, người đứng đầu tổ chức Tháng Chín Đen - sau đó vài tuần lễ, đã bị một đơn vị biệt kích Israel giết trong cuộc tấn công vào Tổng hành Hinh của ông ở Beyrouth, ngày 20 tháng 2 năm 1973 - khi đó đã quyết định thay thế Salameh, chí ít cũng tạm thời, để lãnh đạo những công việc ở châu Âu. Sự lựa chọn rơi vào Mohammed Boudia, người gốc Algerie, rất nổi tiếng. Con người này đã tạo lập riêng cho mình một tổ chức, và đặt cho nó cái tên: “Chi bộ Boudia”.

Lý tưởng của Boudia là phối hợp tất cả các nhóm khủng bố hoạt động ở châu Âu thành một đội quân bí mật. Cho phép các thành viên của các nhóm khác nhau sang huấn luyện ở Lyban và hầu như ngay từ ngày hôm sau, thành lập một tổ chức khủng bố, một loại văn phòng trung ương đối với tất cả các phe phái, về lý thuyết, lý tưởng đó là tốt; vấn đề là ở chỗ những tổ chức của PLO theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, trong khi đa số những nhóm khác lại thuộc phái Marxist, và phái Marxist theo đạo Hồi, không thích hợp với nhau.

Boudia có riêng nhân viên liên lạc làm nhiệm vụ con thoi giữa Paris và Beyrouth, một người Palestine mệnh danh là Moukharbel. Khi có cuộc tập kích của Israel vào Tổng hành dinh của Tháng Chín Đen, hồ sơ của Moukharbel, kèm theo ảnh là một trong số nhiều tài liệu bị thu và đem về Tel Aviv.

Đi vào cảnh đạo diễn của Oren Riff, một katsa của Mossad, tình hình đã bùng nổ. Người ta không có thời gian tung ra những cú đòn với sự khôn ngoan, thận trọng thường lệ. Và Riff, một người nói tiếng Ả Rập, thực hiện trực tiếp một âm mưu tuyển mộ Moukharbel vào tháng 6 năm 1973, nghĩa là đề nghị với ông ta một cách dứt khoát về một giao kèo. (Kỹ thuật này cho thấy nhiều lợi thế: Âm mưu đó một đôi lần đã khai thông cho một việc tuyển mộ, nếu kỹ thuật đó thất bại, thì nó có thể đủ làm cho đối tượng khiếp sợ để họ từ chối làm việc cho bên kia - hoặc lúc đó dẫn đến hành quyết đơn thuần và đơn giản, như trường hợp đã xảy ra với nhà vật lý Ai Cập, Meshad (đã nêu trong Phần mở đầu).

Đặt chân tới một khách sạn lớn ở London, Moukharbel đã bị theo dõi trong một ngày rưỡi và khách sạn ông ta ở luôn bị giám sát. Riff phải có mặt ở cửa trước một lúc sau khi Moukharbel đi dạo trở về. Người ta đã lục soát căn phòng của ông ta, không có vũ khí cất giấu, không có điều gì khác đáng quan ngại. Trong cầu thang máy, một người đàn ông đã chạm vào người Palestine “do vô ý”, sờ một cách nhanh chóng để kiểm tra biết ông ta cũng không mang vũ khí bên mình. Moukharbel thuộc tổ chức PLO và là người có chức hiệu này thì cực kỳ nguy hiểm, khi đã dùng mọi biện pháp đề phòng cho mọi tình huống, Riff đợi cho Moukharbel đi vào trong phòng rồi tiến đến cửa.

Người Israel này đi vào và đọc rất nhanh nội dung hồ sơ về Moukharbel ở Tổng hành dinh tổ chức Tháng Chín Đen và nói thêm:

— Tôi là người của tổ chức Israel, chúng tôi sẵn sàng trả cho ông một khoản tiền lớn. Chúng tôi mong ông sẽ cộng tác làm việc cho chúng tôi.

Rift đứng bên chiếc tủ đựng quần áo sang trọng, ngài Moukharbel ngước nhìn thẳng vào trong đôi mắt của Riff, cười to rồi trả lời:

— Ngài đã chọn đúng thời gian.

Hai người đã có cuộc gặp gõ trong vài phút và thoả thuận cho một cuộc gặp chính thức hơn với những biện pháp an ninh thích đáng. Đó không phải vì một số tiền lớn làm cho Moukharbel quan tâm - mặc dầu ông cũng muốn có tiền - nhưng một “vỏ bọc” hai mang, để được an toàn cho dù đi với phe này hoặc phe kia. Vấn đề là chính mạng sống của ông ta và thêm nữa là làm cho hai bên thì được trả tiền hậu hơn.

Nhà chính khách Palestine đã giao cho Riff tất cả các địa chỉ của Boudia. Ông ta yêu quý phụ nữ, và có nhiều bà chủ ở Paris. Biết luôn bị nhòm ngó (theo dõi), ông ta đã sử dụng các ngôi nhà của những người phụ nữ này như những nơi ấn náu bí mật mỗi đêm ngủ trong một nơi khác nhau. Moukharbel phải tiếp xúc thường xuyên với ông ta, do vậy Moukharbel biết được các địa chỉ này. Một khi, Riff chuyển cho Metsada những thông tin này, người Israel bắt đầu theo dõi Boudia. Họ nhanh chóng biết được ông này chuyển tiền vào một tài khoản của một người Venezuesla có tên là Ilitch Ramirez Shanchez, xuất thân trong một gia đình giàu có, đã du học ở London và ở Moscou, sống ở Paris và thỉnh thoảng làm việc cho PLO.

Metsada nhanh chóng phát hiện ra Boudia là một con người thận trọng. Việc đầu tiên mà một Cơ quan Tình báo nghiên cứu trong trường hợp tương tự, đó là một một việc kiên nhẫn - một việc mà đối tượng thường làm. Trong nghề nghiệp này, người ta không hành động trên sự bốc đồng: “Ông ta đó, chúng ta hãy giết hắn”. Điều đó không xảy ra, cần phải lường trước để tránh những sự phức tạp. Tính chắc chắn, đối với Boudia, đó là một chiếc xe Renault 16, màu xanh. Với chiếc xe đó, ông ta đi lại khắp nơi. Ông ta cũng có một ngôi nhà trên đường Fossé-Saint-Bernard, là nơi ông ở thường xuyên hơn các địa chỉ khác.

Tuy vậy, không bao giờ Boudia lên xe mà không mở nắp xe, nhìn bên dưới gầm, trong cốp xe, kiểm tra các ông thoát hơi để tìm kiếm xem có chất nổ không. Metsada quyết định để một quả mìn chịu áp lực trong chỗ ngồi của chiếc xe Renault. Nhưng để người Pháp khỏi nghi ngờ Mossad, người ta cân nhắc kỹ đem tạo cho quả mìn dáng vẻ của một quả bom tự tạo (thủ công), được nhồi những chiếc đinh ốc và thanh sắt. Quả mìn được chế tạo có một đế dày bằng kim loại ở bên dưới, để khi có một áp lực đè lên, mìn nổ, hắt về phía bên trên mà không phải hắt về phía dưới.

Ngày 28 tháng 6 năm 1973, Boudia rời căn nhà ở, sau khi thực hiện công việc kiểm tra như thường lệ, mở cửa ngồi lên xe. Khi ông ta đóng cửa lại, trái mìn phát nổ và giết chết ông ngay tức khắc. Trái mìn nổ mạnh tới mức một số lớn đinh ốc bên trong đã xuyên qua cơ thể ông và phá hỏng cả mui xe.

Là người biết rõ những mối quan hệ của Boudia với các nhóm khủng bố, cảnh sát Pháp, tin là vụ tai nạn nổ do một quả bom ông ta mang theo người - kết luận thường được các cơ quan cảnh sát đưa ra, khi không có những giải thích nào khác.

Ngay cả khi chưa có những chứng cứ trực tiếp cụ thể, tổ chức Tháng Chín Đen cũng biết ngay chính Mossad đã giết Boudia. Họ quyết định hành quyết ngay một người Israel để trả đũa. Một sinh viên Palestine học ở UCLA, bang California, nhận được lệnh tìm kiếm một loại vũ khí và tới Đại sứ quán Israel ở Washington. Tháng Chín Đen lập luận rằng: Một con người hoàn toàn không ai biết đến, có thể có khả năng tấn công và lẩn trốn hơn một người nào đó đã có quan hệ với một nhóm khủng bố” và có thể đã bị cảnh sát Mỹ theo dõi.

Chính vì thế mà ngày 1 tháng 7 năm. 1973, một chàng thanh niên không ai biết đã đi sát gần đại tá Yosef Alon, phó tuỳ viên của Đại sứ quán, và hạ sát ông này ngay trên đường phố trước khi tẩu thoát. Không bao giờ tìm được kẻ giết người. Chỉ sau này, Mossad mới biết được mối quan hệ của sự việc với Boudia do bắt được tài liệu trong cuộc chiến tranh Kippour.

Sau khi Boudia bị ám sát, Moukharbel thông báo cho Riff biết là Tháng Chín Đen đã đã giao phó cho một người Venezuela có tên là Sanchez những hoạt động ở châu Âu. Mossad biết ít về con người này, nhưng đã nhanh chóng phát hiện ra rằng một trong số những người thích lấy bút danh là Carlos Ramirez - hoặc đơn giản hơn, sau này gọi là Carlos. Con người này đã nhanh chóng trở thành một trong những người nổi tiếng và sợ hãi nhất trên thế giới.

Ali Hassan Salameh, một con người cũng không phải là ngu đần, đã tích cực chăm lo việc tăng cường việc bảo vệ an ninh cho cá nhân. Ông ta muốn đồng thời tránh khỏi Mossad và giữ lấy hình ảnh của Israel. Vì vậy, ông đã yêu cầu những người tình nguyện làm như là những người được các Cơ quan Tình báo của Israel tuyển mộ đưa vào trong hai Đại sứ quán khác nhau. Nhiệm vụ của những người tình nguyện này là cung cấp cho Israel một loạt ngày, tháng và địa điểm giải thích về những sự di chuyển của Salameh. Tất nhiên không có một sự di chuyển thực sự nào, nhưng là những điều Salameh muốn để họ tin. Việc đầu độc này, cuối cùng đã dẫn Mossad đi vào một thành phố nhỏ của Na Uy, có tên là Lillehammer, cách Thủ đô Oslo 150 km về phía Bắc, là nơi có một người hầu nhà hàng ăn, giống với ông Hoàng Đỏ một cách lạ lùng - và định mệnh đã đến với ông ta.

Mike Harari, người phụ trách của Metsada, chịu trách nhiệm về việc thanh toán Salameh. Harari đã làm thế nào để một số người của ông ta nói chuyện với người hầu của nhà hàng - mà những người Israel làm công việc theo dõi không mà không để ông ta biết - và vì thế, đã khẳng định cái điều Mossad suy nghĩ. Ngày 21 tháng 7 năm 1973, Mossad đã giết hại một người hầu vô tội. Ba người đã bị bắt và bị tù. Một trong ba người đó là David Arbel (xem chương II và VII; phần 3) đã nói rất nhiều và “sự việc ở Lillehammer” có thể, đã trở thành một vụ bê bối lớn nhất trong lịch sử của Mossad.

Carlos đã lấy nơi dừng chân tại Paris. Những giới chức tình báo châu Âu không hay biết gì về ông ta cả. Carlos không nói tiếng Ả Rập; trên thực tế, ông ta cũng không thích gì người Ả Rập. (Chẳng hạn ông đã nói về người Palestine “Nếu những người này trở nên hùng mạnh, họ sẽ kiêu ngạo, tại sao người Israel còn phải quan tâm đến người Palestine?”). Thế nhưng Moukharbel, một con người mới được Orent Riff tuyển mộ, vẫn tiếp tục là nhân viên quan hệ của Carlos. Trong khuôn khổ tăng cường cho trung tâm Paris, Carlos đã kiểm tra các kho vũ khí của Tháng Chín Đen trên khắp châu Âu. Ông ta đã thừa kế những thứ vũ khí khác ngoài những tên lửa Strella “thiếu hụt” sau âm mưu ám hại Golda Meir.

Ngoài những hoạt động là một người phụ trách quan hệ cho Tháng Chín Đen, Moukharbel cũng còn giữ một vai trò đối với những nhóm Palestine khác: Mặt trận Nhân dân Giải phóng Palestine (FPLP) và Tổ chức thanh niên Palestine.

Khối lượng thông tin mà Mossad nhận được nhờ Moukharbel thật đáng ngạc nhiên và Mossad sau khi đã xử lý giữ lại cho mình một phần, đã cung cấp các thông tin này cho các Cơ quan Tình báo châu Âu và CIA, chừng nào những thông tin này chỉ là những thứ không cần đến. Điều này đã trở thành trò cười cho các Cơ quan Tình báo: “Chúng tôi đã nhận được cuốn sách của Mossad, ngày hôm nay phải không?” Mối quan hệ với CIA lúc đó chặt chẽ tới mức người ta đã gọi chi nhánh của Mossad ở Mỹ là “văn phòng của Mossad ở Langley” (trụ sở của CIA ở bang Virginie). Một loạt những thông tin có sẵn này trên thị trường, có thể đã không có ích cho ai, nhưng ít ra cũng đã cấm một người nào đó, sau này có đòi hỏi, yêu sách rằng họ đã không được thông báo cho biết. Đó là một hệ thống mà về sau này Mossad đã sử dụng thành công. Dĩ nhiên Carlos quan tâm đến hai chiếc tên lửa Strella còn ở Rôm. Về bề ngoài, lúc chia tay nhau, hai nhóm đã đơn giản để lại những chiếc tên lửa trong một nơi cất giấu bí mật mà Mossad không biết chỗ để. Nếu như người Israel không giết chết người khủng bố khi bị bắt lúc có âm mưu ám sát, thì có thể họ đã phát hiện ra, bởi vì người khủng bố đó là một thành viên của nhóm sử dụng ngôi nhà này.

Mặc dù Carlos còn chưa được dùng đối với các mục tiêu của Israel, Mossad đã bắt. đầu tính toán ông là một người nguy hiểm. Người Israel được Moukharbel báo cho biết các tên lửa, nhưng Moukharbel chưa có lý do nào để can thiệp vào đó. Vả lại người Israel không thể làm cái việc nhảy vào chỗ cất giấu bí mật mà lại “không thiêu cháy” Moukharbel, người mà cứ hai hoặc ba ngày lại gọi điện thoại cho họ để thông báo tin tức. Một thời họ đã có máy ghi chờ đợi những thông tin của Moukharbel 24/24 giờ.

Carlos muốn những tên lửa được dùng vào việc bắn máy bay của Israel, nhưng ông ta lại từ chối đích thân tham gia vào công việc. Đó là một quy định mà ông ta đặt ra - và một trong những lý do, vì nó, ông chưa bao giờ bị làm mục tiêu. Ông ta phác họa ra những kế hoạch của một chiến dịch, chăm lo việc tiến hành, nhưng không bao giờ tham gia vào đó.

Mossad có vấn đề với những chiếc tên lửa. Rõ ràng là Moukharbel quá quý giá cho người ta “giam giữ” ông đối với duy nhất chiến dịch này, nhưng nếu người ta để cho người Palestine tiến sát tới sân bay cùng với những tên lửa thì trong chừng mức nào đó, họ sẽ bắn hạ một máy bay của Israel.

Oren Riff, một katsa của Moukharbel, điều hành những hoạt động này. Đó là một kiểu trực tiếp, không bao gồm những sự lừa phỉnh. Cuối năm 1975, ông ta là 1 trong 11 katsa “bỉ ổi” (bị bêu riếu nhiều nhất) đã gửi cho ông chủ của Mossad một bức thư, tuyên bố rằng tổ chức đã lãng phí nguồn lực của mình và một quan niệm lạ lùng về nền dân chủ. Tài liệu này được biết đến trong nội bộ cơ quan như là “bức thư của 11 người” và Riff là người ký duy nhất. Tất cả những người khác đã chuyển hướng. Tuy nhiên, người ta đã hai lần phong toả việc nâng bậc của ông ta, và trong năm 1984, khi ông ta đòi hỏi được xem hồ sơ của mình để biết vì sao ông ta đã không có sự thăng tiến. Người ta đã trả lời ông rằng, người ta đã để thất lạc hồ sơ - sự giải thích xem ra ít có lý, bởi vì tổ chức chỉ có tổng số 1.200 người, kể cả thư ký và những người lái xe.

Tiện thể, bức thư này là gốc gác của một sự sửa đổi một quy chế của NAKA, quy định này là từ nay cấm không để một người ký tên của một bức thư nội bộ. Riff đã yêu cầu các điệp viên quan hệ ở Rôm gọi điện thoại cho một người bạn trong Cơ quan Tình báo của Italy, Amburgo Vivani, và thông báo cho ông này địa chỉ bí mật có những tên lửa. “Hãy nói với ông ta rằng các anh đã gọi cho ông ta vào lúc mà tất cả các con chim sẻ ở trong tổ, và ông ta cần phải thâm nhập vào trong căn nhà chỉ vào lúc đó, Riff yêu cầu vậy. Bằng cách này, ông ta sẽ có thể tóm được tất cả”.

Một tổ nam giới của neviot đã giám sát nơi ẩn giấu bí mật cho Mossad, và ngày 5 tháng 11 năm 1973, khi những người này kéo đến, tất cả những kẻ khủng bố đã đi vào, họ đã đề phòng người Italy. Những người Italy đã ở ngay sát cạnh - giống như các nhân viên của Mossad, họ đuổi người Italy đi, nhưng không canh gác, thế là họ vào nhà và bắt đi 5 người: Một người Lyban, một người Lybie, một người Algerie, một người Iraq và một người Syrie - họ lấy được hai quả tên lửa.

Theo một giải thích chính thức, 5 người này đã có ý định bắn hạ các máy bay dân sự từ mái nhà ở của họ trong lúc các máy bay này cất cánh khỏi sân bay Fiumicino. Một luận thuyết lố bịch bởi vì tất cả các máy bay không bay qua mái nhà của họ, không có một tầm quan trọng nào, vậy mà người ta lại tin.

Thời kỳ này, người phụ trách tình báo của Italy rất gần gũi với Mossad. Mang vác những chiếc máy móc nhỏ, những người Italy đi tới các nước Ả Rập và chụp ảnh, quay phim các căn cứ quân sự cho Mossad. Mặc dù những người bị bắt có những tên lửa, người Italy đã thả ngay tức khắc hai người trong số họ dưới sự bảo lãnh. Dĩ nhiên họ phải rời khỏi Rôm. Ba người còn lại được giao cho Lybie, nhưng ngày 1 tháng 3 năm 1974, chiếc máy bay vận tải Dakota, chở họ tới Libie, đã bị nổ tung trên đường quay trở về Rôm, làm thiệt mạng viên phi công và phi hành đoàn. Cuộc điều tra được tổ chức công khai.

Người Italy khẳng định vụ nổ là âm mưu của Mossad nhưng họ không hé ra một lời. Có lẽ đúng hơn, PLO đánh giá viên phi công và phi hành đoàn đã gặp những người khủng bố và họ có khả năng nhận biết những kẻ khủng bố sau này. Nếu Mossad đã đánh nổ chiếc máy bay, thì họ có thể sẽ không đợi những kẻ khủng bố hạ cánh xuống đất.

Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Carlos đến Paris. Ông ta có một nơi ở bí mật trong vùng ngoại ô, nơi mà PLO cất giấu những trang thiết bị. Mossad tìm kiếm một cơ hội để thông báo địa chỉ cho người Pháp mà không “thiêu cháy” người thông tin quý giá, ông Moukharbel.

Sáng ngày hôm đó, Carlos đã tiến hành một hành động của chủ nghĩa khủng bố như ông đã yêu quý nó: “Pằng-Pằng, và người ta đã theo dõi”. Ông ta rời căn nhà cùng với một trái lựu đạn, ngồi lên xe, rồi xuống phố, ném trái lựu đạn vào một quán sách của người Israel, làm 1 người chết và 6 người bị thương. Đó là một lý do đủ để Mossad chuyển địa chỉ của khu trang thiết bị. Tuy nhiên, khi Cảnh sát Pháp tới nơi, họ tìm thấy những vũ khí, những trái lựu đạn, những chiếc ba toong chứa thuốc nổ TNT, những tài liệu tuyên truyền và khoảng 12 người - nhưng không có Carlos. Ông này đã rời nước Pháp cùng ngày.

Ngày hôm sau, Carlos gọi từ London cho Moukharbel, ông ta muốn gặp Moukharbel ở đó.

Người Palestine này trả lời rằng không thể được vì Cảnh sát Anh đang lùng kiếm ông ta. Mossad cố thuyết phục Moukharbel nên đi London, nhưng ông ta từ chối, và trong chốc lát, những người Israel đã mất dấu vết của Carlos.

Ngày 22 tháng 1 năm 1974, người cầm đầu của những kẻ khủng bố lại tiếp xúc với Moukharbel. “Hitch đây - Ông ta nói - Tôi đến Paris. Đúng ngày mai hoặc ngày kia tôi phải ký một một Hiệp định”.

Tất cả những ăng ten của Israel ở Anh, ngay lập tức được đặt trong tình trạng báo động - nhưng với cách thức không thấy được, trong trường hợp mà lời gọi của Carlos chỉ là một việc để kiểm tra lòng trung thực của Moukharbel. Mossad biết rằng Carlos luôn có một bước đi trước trên khắp thế giới.

Hai ngày sau, ngày 24 tháng 1, một chiếc xe chạy qua cửa một ngân hàng của Israel ở London và người lái xe đã ném một trái lựu đạn về hướng toà nhà, làm bị thương một phụ nữ.

Ngày hôm sau, Carlos gặp Moukarbel ở Paris. Moukharbel nói với Carlos rằng lúc này, ông ta phải từ bỏ các mục tiêu Israel bởi vì tình hình hiện nay quá nguy hiểm và ông ta đang có những khoản nợ phải trả cho những nhóm Nhật Bản và Đức trước khi có thể làm bất cứ cái gì cho PLO.

Điều này gây căng thẳng một chút cho Mossad, nhưng với Carlos, người ta không có thể giữ được căng thẳng lâu. Ngày 3 tháng 8, ba quả bom đã được đặt ở Paris, hai quả được đặt trước các trụ sở báo chí, và một quả (được phát hiện trước khi nổ) đặt trước đài phát thanh, cảnh sát Pháp tin là một chiến dịch của tổ chức Hành động trực tiếp. Đúng là như vậy, nhưng Carlos đã giúp đỡ họ chế tạo và cài đặt bom. Rồi sau đó ông ta tới một nơi khác của Paris để tránh xa nơi đã diễn ra sự việc.

Sau đó, Mossad biết rằng Carlos đã tiếp nhận một loạt súng bắn rốc két RPG-7 chống chiến xa do Nga sản xuất. RPG-7 là một loại vũ khí gọn nhẹ, dễ mang, chỉ nặng 9 kg có tầm bắn tối đa là 500 mét vào một mục tiêu cố định và tầm bắn 300 mét vào mục tiêu di động. Các tên lửa này có thể xuyên thủng các chiến xa có vỏ bọc dày 25 cm.

Ngày 15 tháng 1 năm 1975, Carlos và một người bạn đồng nghiệp, đã đi dọc sân bay Orly để tìm kiếm một mục tiêu.(Bose, thành viên của tổ chức Bande Beader-Meinhof, bị giết ngày 27 tháng 6 năm 1976 trong một cuộc tập kích nổi tiếng do Israel tiến hành để giải phóng con tin ở Entebbe, Ouganda). Hai người phát hiện ra chiếc đuôi một máy bay của Israel trên đường băng.

Carlos lướt xe qua một lần nữa, rồi dừng chiếc xe 2 ngựa (2 CV) và đổ một chai sữa nhỏ ra đường để đánh dấu địa điểm mà từ đó người ta có thể thấy rõ chiếc máy bay. Trong lúc Carlos ngồi xổm sau chiếc xe, ông ta bỏ mui xe ra, Bose bước ra phía sau rồi đi lại phía trước một cách chậm chạp, độ 15 phút giờ hẹn. Khi Bose đi đến chỗ có dấu sữa, Carlos đứng dậy và bắn trượt chiếc máy bay của Israel nhưng lại làm hỏng chiếc máy bay của Nam Tư và một ngôi nhà của sân bay. Hai người cho xe chạy vài mét rồi dừng lại. Carlos đóng nhanh nắp ca pô của xe và nhảy lên ngồi vào chỗ của khách, còn Bose nổ máy chạy.

Khi trở về nhà, Carlos, người cầm đầu những kẻ khủng bố, thông báo cho Moukharbel về các hoạt động của ông, nhưng người Palestine này trả lời rằng ông ta đã biết việc đó qua đài phát thanh và nói rằng đã không bắn trúng máy bay của Israel.

— Chúng tôi bắn không trúng lần này, nhưng chúng tôi sẽ trở lại đó vào ngày 19 để bắt đầu lại.

Dĩ nhiên, Moukharbel đã thông báo tin này cho Oren Riff. Còn lần này, Riff cũng không muốn “nướng cháy” một tên điệp viên cũng vô cùng quý giá. Ông ta ra lệnh tăng cường an ninh và di chuyển các máy bay về phía Bắc của phi trường để chỉ còn một cách phải tiến sát vào sân bay, nếu Carlos thực hiện sự đe dọa của ông ta.

Ngày 19 tháng 1, sau khi người Pháp đã được cảnh báo về một cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra, Carlos đã đi trên một chiếc xe cùng với hai người nữa. Ba kẻ khủng bố đã ném lựu đạn vào trong phòng đợi của sân bay, bắn vào đám đông, làm cho khoảng 20 người bị thương. Trong lúc rối loạn chung, giữa lúc những tiếng còi của xe cảnh sát vang lên, bọn khủng bố đã chạy thoát, bắt hai con tin và ẩn náu vào trong nhà vệ sinh. Tình hình bị phong toả trong nửa giờ đồng hồ. Rồi sau đó, người ta thương lượng.

Cuối cùng, những kẻ khủng bố có được một chiếc máy bay Boeing 707 của hàng không Pháp. Hình như trong lúc đó, Carlos đã biến mất. Một cuộc chìm nổi ghê sợ trên không trong 24 giờ lại tiếp theo sau đó. Rôm, Naples, Tunis, Athene, Damas, lần lượt, sân bay này rồi lại sân bay kia, các đài kiểm tra sân bay đã từ chối nhận cho hạ cánh. Cuối cùng, máy bay đã hạ xuống Bagdad.

Trong năm tháng, mọi sự đều bình yên. Moukharbel tiếp tục cung cấp các nguồn đáng quan tâm, nhưng không nghe được gì liên quan tới Carlos. Trong giai đoạn này, Moukharbel bắt đầu lo lắng, một vài người bạn báo cho ông ta biết rằng một số lãnh đạo ở Beyrouth đã có nghi ngờ và muốn nói với ông ta. Mossad, khi đó kiên quyết loại bỏ Carlos nhưng tất cả những gì Moukharbel muốn, đó là một tấm căn cước mới để thoát khỏi cuộc chơi này càng nhanh càng tốt. Ông ta sợ rằng Carlos không đi trên đường mòn của ông.

Cơ quan không muốn bản thân Riff chịu trách nhiệm về Carlos và cũng không muốn Metsada thanh toán ông này nữa. Vì thế, người ta quyết định để công việc này lại cho người Pháp, đồng thời giúp đỡ và thông báo tin tức cho họ.

Ngày 10 tháng 6 năm 1975, Carlos điện thoại cho Moukharbel, đang hoảng sợ, nói với Moukharbel rằng ông phải rời khỏi Paris. Nhưng người Venezuela này đã yêu cầu Moukharbel tới gặp trong một căn nhà mà ông ta ở đường Toullier, trong quận V. Trên thực tế, đó là một căn nhà ở đằng sau một toà nhà khác, và ở đó, người ta có thể vào hoặc qua ngôi nhà thứ nhất và cái sân, hoặc trèo qua một cầu thang và đi theo một chiếc cầu nhỏ. Vì nó chỉ có một lối vào và do vậy, chỉ có một lối ra, đó là một nơi lý thú đối với Carlos.

Thông qua trung gian của một sayan, Riff đã dành được việc thuê một buồng của căn nhà trước một tuần hoặc một ngày mà người ta thuê cho những kẻ khủng bố. Căn buồng hướng ra phía sân và có tầm nhìn xa về căn hộ của Carlos, cảnh sát Pháp được thông báo rằng có một người liên quan đến một người buôn lậu vũ khí quen biết trong căn hộ và và một người khác (Moukarbel) đang muốn rút ra khỏi tình hình tế nhị này và sẵn sàng kể ra. Người Pháp không được báo trước người đó là Carlos, cũng không cho biết Moukharbel là điệp viên hai mang.

Moukharbel, Riff đã kể lại rằng ông ta đã đề nghị Cảnh sát Pháp kết hợp. “Anh hãy nói với họ rằng anh muốn bỏ tất cả, rút lui sang Tunis. Chúng tôi sẽ sắp xếp để họ không chống lại anh. Anh biết rằng anh không có an ninh chừng nào Carlos lôi cuốn theo. Họ sẽ đưa cho anh một tấm ảnh của Carlos và của anh, rồi họ sẽ hỏi anh, người kia là ai”.

“Hãy cố tự lột tả mình ra, hãy trả lời rằng đó là số 0 (không). Họ sẽ dằn giọng, anh hãy dẫn họ tới Carlos. Họ sẽ bắt ông ta để thẩm vấn và chúng tôi sẽ làm sao đó để họ biết được tên thật của ông ta và họ sẽ nhốt ông ta suốt đời, trong lúc đó anh sẽ yên bình ở Tunis.”

Kế hoạch này cho thấy những điểm yếu rất lớn, nhưng chừng nào nó làm cho bắt được Carlos, thì Mossad cũng chả cần gì cả.

Riff đề nghị Tel Aviv cho phép chuyển cho người Pháp số lớn hồ sơ của Carlos, để người Pháp biết được những việc đối với con người đó. Lập luận của Riff là Mossad chuyển giao cho họ một điệp viên, Moukharbel, và vì rằng người Pháp không biết ai là Carlos, tên điệp viên này rất nguy hiểm. Mặt khác, Riff cũng sợ rằng cảnh sát Pháp cũng trong tình huống nguy hiểm nếu như họ không có sự chuẩn bị để đương đầu với một người như Carlos. Sau hết, họ chỉ biết qua loa về con người này mà thôi.

Tel Aviv trả lời cho Riff là khi nào cần thiết, khi Carloss bị bắt, cơ quan Quan hệ sẽ chịu trách nhiệm chuyển những thông tin này, và tuỳ thuộc vào những điều người ta có thể thương lượng với người Pháp. Nói một cách khác đi, nếu người Pháp muốn có những thông tin này, thì họ phải trả tiền.

Lý do mà người Pháp không được thông tin về danh chính của Carlos, chính là một vấn đề đơn giản của sự kình địch và đầy tham vọng giữa hai Vụ trong Mossad; Tsomet, hay sau này là Meluckah, người điều hành 35 katsa của cơ quan và là người chịu trách nhiệm chính tuyển mộ điệp viên của địch; với Tvel, hay Kaisarut, chịu trách nhiệm về công việc Quan hệ.

Tevel luôn luôn cãi nhau với Tsomet để có quyền chuyển cho các Cơ quan Tình báo khác những tin tức. Tại Vụ Quan hệ, người ta lập luận: Chúng ta càng cung cấp tin tức cho các Cơ quan Tình báo khác, thì họ càng trở nên thân thiện hơn và cung cấp trở lại cho chúng ta nhiều thông tin hơn. Nhưng, Tsomet thì luôn nhắc lại rằng làm cho các thông tin có giá trị, không phải cung cấp những thông tin quá đơn giản, mà cần phải thu được một cái gì đó ngay tức khắc sau mỗi lần trao đổi tư liệu. Trong trường hợp, khi những người lãnh đạo của hai Vụ họp lại để thảo luận yêu cầu của Oren Riff (khi đó thuộc Tsomet) chuyển giao cho người Pháp vấn để chủ yếu về hồ sơ của Carlos thì tình hình đã đảo lộn. Tsomet đồng ý cung cấp những chi tiết; Tevel thì chống lại. Nắm lấy cơ hội này, người phụ trách Quan hệ lưu ý:

— Việc gì xảy ra? Các anh muốn chuyển giao tin tức cho người Pháp ư? Khi chúng tôi muốn làm việc đó, các anh không đồng ý. Lần này, chúng tôi phản đối việc làm này.

Các thành viên của Tevel có thể được phép có thái độ này, bởi vì họ không phải thanh minh với bất cứ ai. Họ làm việc theo những quy định riêng của chính họ.

Vào ngày đã thoả thuận, Riff nhìn thấy Carlos đi vào trong ngôi nhà. Các sỹ quan Quan hệ đã chỉ cho người Pháp đi bắt Moukharbel ở đâu - việc họ đã làm. Trong căn nhà của Carlos có một nhóm người Nam Mỹ, khách mời tới dự tiệc.

Moukharbel đi đến trong chiếc xe bình thường cùng với ba cảnh sát Pháp. Hai cảnh sát ở lại với Moukharbel ở gần cầu thang, trong khi người thứ ba gõ cửa. Carlos ra mở cửa, viên cảnh sát mặc thường phục tự giới thiệu. Người Venezuela mời viên cảnh sát vào. Hai người nói chuyện trong khoảng 20 phút. Carlos dường như thấy có thiện cảm, không có vấn đề gì. Những người cảnh sát chưa bao giờ biết ông ta, cũng chưa bao giờ nghe nói tới ông ta. Họ can dự vào công việc dựa trên một tin tức cung cấp đơn giản. Từ những tin tức vụn vặt.

Về sau, Riff kể lại rằng ông ta đã bực bội trong khi quan sát cảnh mà ông ta đã muốn rũ bỏ quy định đi, nhảy xổ tới nơi đó và báo cho những người cảnh sát nhưng đã không làm việc đó.

Cuối cùng, viên cảnh sát phải nói với Carlos rằng cùng đi với anh ta có một người, có thể Carlos quen.

— Tôi có ý muốn là ông nói chuyện với người đó. Ông có muốn cùng đi với tôi không?

Viên cảnh sát ra hiệu cho hai đồng nghiệp đẩy Moukharbel ra phía trước. Nhìn thấy Moukharbel, Carlos tưởng rằng hắn ta bị giam giữ.

— Được, tôi đi theo ông-Carlos nói.

Carlos cầm trong tay chiếc đàn guitare mà ông ta đang chơi khi viên cảnh sát tới gõ cửa. Những người khách mời Nam Mỹ khác không nghi ngờ việc gì xảy ra nên bữa liên hoan vẫn tiếp tục. Carlos đề nghị nếu có thể được, thì ông ta trả lại chiếc đàn và lấy chiếc áo veston, và viên cảnh sát không thấy có bất cứ lý do nào để từ chối. Trong khi đó cả ba người kia cũng tiến sát tới cửa.

Carlos qua phòng bên cạnh lấy trong bao đàn guitare ra một khẩu súng máy cỡ 38. Ông ta quay lại phía cửa, bắn ngay lập tức, làm viên cảnh sát thứ nhất bị thương nặng bằng một viên đạn vào cổ.

Sau đó, Carlos bắn chết hai cảnh sát kia, bắn chết Moukharbel - bằng ba viên đạn vào ngực, một viên vào đầu ở tầm bắn gần để chắc chắn rằng hắn đã chết.

Từ căn phòng của mình, Riff không có vũ khí, bất lực nhìn Carlos thanh toán Moukharbel và lặng lẽ rời khỏi nơi ở.

Người Israel nghĩ tới một việc: Người Pháp biết ông ta là ai, chính Carlos. Họ biết Carlos có những móc nối với những người trong vụ việc có vẻ như một chiếc bẫy này. Hai giờ rưỡi sau, Riff, trong bộ áo quần đồng phục của người quản lý (steward), lên một chiếc máy bay E1 AI về Israel (xem chương Trường học).

Viên cảnh sát bị thương đã được các vị khách mời gọi xe cấp cứu. Họ không mảy may có ý gì giống với người chủ mời của họ. Viên cảnh sát được cứu chữa, sau này nhớ lại rằng tên khủng bố, đã không ngớt thét lên, trong khi bắn: “Tao là Carlos đây! Tao là Carlos đây”.

Từ ngày đó, Carlos trở nên nổi tiếng.

Ngày 21 tháng 12 năm 1975, người ta nghi rằng Carlos đã tham gia vào một chiến dịch tại trụ sở của OPEP ở Viên, nơi một đơn vị biệt kích gồm 6 người thân Palestine đã thâm nhập vào bên trong phòng họp một Hội nghị, giết chết 3 người, làm bị thương 7 người khác và bắt làm con tin 81 người. Trong những năm tiếp sau, người ta đã gán hàng chục vụ mưu đánh bom và các hoạt động khủng bố khác cho Carlos. Riêng chỉ trong thời gian 1979- 1980 - sau dịp mà Mossad nghe người ta nói về con người này - 16 hoạt động gán cho tổ chức Hành động trực tiếp, đã tức khắc được “gán cho Carlos”.

Một Cơ quan Tình báo không có cơ chế kiểm soát ông ta, đó như một họng súng bừa bãi quá độ - ngoài trừ một sự khác biệt ấy. Chính một họng súng bừa bãi quá độ đã có mưu tính.

Cái chết của những cảnh sát Pháp không có sự chứng minh nào hơn cái chết của những nạn nhân khác của Carlos. Không báo cáo lại cho bất kỳ ai, Mossad không chỉ làm hại cho Học viện mà còn cho cả Israel.

Người ta không thể thiết lập việc hợp tác trên sự đổi chác. Về lâu dài, những ngành Quan hệ của các Cơ quan Tình báo khác sẽ chấm dứt tin vào Mossad, là người khi đó sẽ mở đầu làm mất đi tính đáng tin cậy ngay trong cộng đồng tình báo. Đó là điều đang diễn ra. Israel có thể sẽ là một nước ghê gớm nhất của thế giới, nhưng Mossad đã thiêu trụi tất cả bằng những mưu đồ của quyền lực, song những cái đó không phải vì quyền lợi của đất nước mà vì lợi ích của riêng bản thân Mossad.