← Quay lại trang sách

Chương 3 Tên Lửa Exocet (Cá Chuồn).

Vào một buổi sáng trời mưa, ngày 21 tháng 9 năm 1976, Orlando Lettelier, 44 tuổi, rời nơi ở trên đường Ambassy Row, trục đường có các dinh thự của Washington, và như thường lệ, ông ngồi bên tay lái của chiếc xe Chevelle màu xanh. Là cựu Bộ trưởng của Tổng thống Chilê Salvador Allende, Lettelier đi cùng với một người bạn Mỹ, đồng nghiệp, Ronni Moffit, 25 tuổi.

Nhưng thật không may, chẳng bao lâu sau đó, một quả bom được điều khiển từ xa nổ phá nát chiếc xe, giết chết ngay một cựu chính khách và nhà nghiên cứu trẻ.

Như thường lệ, trong các vụ việc như thế này, nhiều người đã lên án CIA. Người ta đã quy cho CIA một vai trò quan trọng hơn là vai trò CIA đã đóng trong vụ lật đổ Allende, năm 1973, và từ lâu đã là cơ quan phục vụ cộng đồng quốc tế bung xung này để giải thích mọi loại hành động bạo lực. Một số người khác đã chỉ đích danh DINA, cơ quan cảnh sát Mật vụ Chilê, tổ chức đã bị nhà lãnh đạo mới của đất nước, tướng Augusto Pinochet giải tán một năm sau đó, do áp lực rất mạnh của Mỹ (nhưng tổ chức này lại ra đời với một ban lãnh đạo khác).

Không một ai thẳng tay chỉ vào Mossad.

Tuy nhiên, nếu Cơ quan Tình báo của Israel không tham gia trực tiếp vào âm mưu do người lãnh đạo DINA của Chilê ra lệnh, thì Tình báo Israel đã đóng một vai trò gián tiếp quan trọng vào công việc của Hiệp định bí mật với Contreras để mua một tên lửa Exocet ở Chilê (Cá Chuồn ) do Pháp sản xuất.

Nhóm thi hành đã không sử dụng các nhân viên của Mossad để giết Lettelier, nhưng không còn nghi ngờ gì là việc hành quyết đã nhờ vào các kỹ thuật mà Mossad đã dạy cho họ trong khuôn khổ của một Hiệp định trước đây với Contreras để chuyển giao tên lửa.

Tháng 8 năm 1978, một hội thẩm lớn của liên bang Mỹ đã quy tội cho Contreras, người lãnh đạo các hoạt động của DINA Pedro Espinoza Bravo; Armando Fernadez, nhân viên của DINA và 4 người Cu Ba lưu vong, thành viên của một tổ chức cuồng nhiệt ở Hoa Kỳ, chống Phidel Castro, cả bảy người đều bị kết án tử hình.

Bằng chứng quyết định của hồ sơ kết tội gồm 12 trang do Michael Vernon Towley, sinh tại Mỹ đem theo. Ông này đã đi Chilê từ lúc 15 tuổi, cùng với cha, mẹ, và ở lại đó làm một thợ cơ khí ô tô, rồi được DINA tuyển mộ. Bị quy là kẻ đồng loã, không phải buộc tội, người này đã hợp tác với những kẻ bị kết tội, phải chuốc lấy 3 năm 4 tháng tù giam. Chế độ Pinochet đã giao những người Chilê này cho nhà chức trách Hoa Kỳ - những người Cu Ba lưu vong đã trốn thoát, tuy nhiên, một trong hai người đã bị bắt ngày 11 tháng 4 năm 1990 tại Floride - nhưng người này kiên quyết từ chối đã cung cấp cho Contreras, người đàn ông đã tổ chức ám sát Lettelier. Chưa bao giờ Contreras bị phán quyết về tội này, nhưng tháng 10 năm 1977, Pinochet đã buộc y phải từ chức để cố cải thiện hình ảnh đã bị giảm sút trên thế giới của Hội đồng quân nhân.

Mỗi năm một lần, tất cả các Cơ quan Tình báo quân sự của Israel lại gặp nhau để chuẩn bị một lịch trình cho các cuộc họp, mà cuộc họp theo lịch trình đó hàng năm của các Cơ quan Tình báo, gồm cả quân sự lẫn dân sự được gọi là Tsorech Yediot Hasuvot, hay viết tắt là Tsiach, tên này chỉ đơn giản có nghĩa là “những thông tin cần thiết”.

Tại cuộc họp này, những người nhận tin tức - chẳng hạn như AMAN, văn phòng của Thủ tướng, và những đơn vị quân sự - xem xét chất lượng của các thông tin nhận được trong quá trình một năm và nghiên cứu xem những tin tức nào là cần thiết cho những năm sau, xếp theo trình tự tính chất quan trọng của nó. Tài liệu được đưa ra từ cuộc họp này cũng có tên là Tsiach và tương xứng với một phiếu yêu cầu cho Mossad và những người cung cấp khác - thí dụ các Cơ quan Tình báo của quân đội - cho năm tiếp sau.

Chủ yếu có ba loại nguồn cung cấp: Humint, hay là tiếp nhận tin tức của các cá nhân, như các katsa của Mossad làm việc với các điệp viên khác nhau; Elint, hay là các túi hiệu, nhiệm vụ do đơn vị 8.200 của quân đội thực hiện; Signint, hay gọi là thu nhận các thông tin qua phương tiện thông tin đại chúng thông thường, công việc liên quan đến một số người trong một đơn vị quân sự đặc biệt khác.

Tại Tsiach, các “khách hàng” quyết định những điều không chỉ cần đối với họ về thông tin, mà còn ghi lại những điệp viên thực hiện những hoạt động của họ năm trước. Mỗi một điệp viên có hai tên mật mã, một tên được dùng trong những hoạt động của họ, một tên dùng trong các báo cáo liên quan đến những thông tin. Những tên mật mã thứ nhất do các katsa của Mossad thảo ra, không được thông báo cho “khách hàng”. Những người này không biết có những tên đó. Các loại tên mật mã thứ hai, được chia tách ra thành nhiều loại khác nhau, được gửi riêng rẽ.

Trên cơ sở các báo cáo này, những “người sử dụng” ghi tên các điệp viên từ A tới E. Trong thực tế, không một điệp viên nào có quyền ghi A, mặc dù các chiến sỹ có thể thu được nó. B: nguồn rất chắc chắn, C: phương tiện. D: dùng với việc để phòng (phòng ngừa). E: không làm việc với người đó. Mỗi một katsa đều ghi lại những tên của điệp viên và cố gắng cải tiến nó. Việc ghi lại này có giá trị trong một năm, và người điệp viên đang hoạt động, được trả tiền theo việc ghi chép của katsa. Ví dụ, khi chuyển từ C sang B, người ta có quyền được nâng lên cao hơn.

Khi các katsa viết những báo cáo này, họ phải điền đầy đủ vào một khung nhỏ ở phía trên của một mẫu in sẵn. Phía bên trái, lời ghi của điệp viên, với chữ số ở bên cạnh: 1 nếu như bản thân điệp viên đó đã nghe được hoặc nhìn thấy sự việc anh ta báo cáo; 2 nếu điệp viên nắm được sự việc của một nguồn chắc chắn; 3 nếu đó là thông tin của một bàn tay thứ ba, một dư luận. Vì thế, một báo cáo B 1 chứa đựng những thông tin của bàn tay thứ nhất do một điệp viên tốt cung cấp.

Nếu người lãnh đạo của Cơ quan Tình báo lục quân là một sỹ quan có cấp bậc cao nhất của tình báo quân đội, thì mỗi binh chủng có một đơn vị tình báo của mình. Vì thế, có một đơn vị tình báo của lục quân, một đơn vị tình báo của tăng-thiết giáp, một đơn vị tình báo của không quân, một đơn vị tình báo của hải quân. (Hai đơn vị đầu, nay đã gộp thành một đơn vị tình báo của lục quân). Người cầm đầu của quân đội, được gọi một cách chính thức là Lực lượng Quốc phòng của Israel (Force de defense israelienne), hay viết tắt là FDI, là một viên tướng của quân đoàn, trên vai mang một thanh kiếm cắt chéo một nhành ô liu, và hai chiếc lá đề (hay lá faiafel).

Khác với Quân đội Mỹ, được chia thành các lực lượng riêng rẽ, FDI chỉ là một quân đội, có các binh chủng khác nhau, như hải quân, không quân. Người cầm đầu các binh chủng này, là các tướng của sư đoàn. Họ cũng mang trên vai một thanh kiếm cắt chéo qua cành ô liu, nhưng chỉ có một lá đề thôi. Về cấp bậc bên dưới, người ta thấy có các tướng của binh đoàn, những người cầm đầu các tổ chức tình báo quân sự khác nhau. Bên dưới nữa là các cấp tá - đây là cấp tôi mang khi mới vào làm ở Mossad rồi tôi đã được thăng chức.

Sự việc nhấn mạnh tới tầm quan trọng của Cơ quan Tình báo đối với những người Israel, là người chỉ huy của quân đoàn tình báo của quân đội có cùng một cấp bậc như những người chỉ huy của hải quân, không quân, lục quân, tăng-thiết giáp tức là tướng sư đoàn và cùng cấp với hệ thống tư pháp quân đội. Viên chỉ huy của hải quân có cấp bậc thấp hơn một chút.

Ông chủ của AMAN, hay của tình báo quân đội, có cấp bậc như những viên chỉ huy của các Cơ quan Tình báo khác, nhưng trên thực tế, hơn tất cả các viên sỹ quan khác của tình báo quân đội bởi vì ông ta chỉ có báo cáo trực tiếp lên Thủ tướng Chính phủ mà thôi. AMAN có thể tiếp nhận các thông tin, trong khi quân đoàn tình báo chịu trách nhiệm thu thập các tin tình báo mang tính chiến thuật trên thực địa.

Cuối năm 1975, Cơ quan Tình báo Hải quân thông báo về cuộc họp hàng năm của các đơn vị tình báo quân sự rằng họ cần một tên lửa Exocet. Loại tên lửa do cơ quan Hàng không vũ trụ chế tạo tại Pháp là một tên lửa bay sát mặt đất. Được phóng đi từ một tàu chiến, tên lửa bay lên và phát hiện ra mục tiêu nhờ có hệ thống tìm mục tiêu lắp ở đầu, lại hạ xuống sát mặt sóng, làm cho các ra-đa khó có thể phát hiện được. Duy nhất chỉ có một cách hiệu chỉnh việc phòng vệ chống lại một tên lửa như thế, đó là do kinh nghiệm.

Trước hết, Israel sợ rằng một số nước Ả Rập, đặc biệt là Ai Cập không mua các tên lửa Exocet và hải quân lại muốn sẵn sàng cho tình huống bất trắc này. Trên thực tế, không cần cho họ một tên lửa hoàn chỉnh - nhất là bộ phận đầu là nơi tập trung mọi hệ thống điện tử.

Người bán một tên lửa, không giao cho người mua tất cả các thông tin. Người ta cũng không tiến hành các vụ thử liên quan đến việc bảo vệ bờ biển. Và thậm chí nếu như anh đi đến chỗ có được tất cả những chi tiết kỹ thuật từ một công ty như công ty Hàng không vũ trụ, thì công ty đó cũng chỉ giới thiệu cho anh những tính năng tốt nhất của tên lửa. Họ cố bán cho được hàng, thế là xong!

Chính vì thế, Israel muốn có một tên lửa Exocet cho mình để tiến hành các cuộc thử nghiệm. Israel không có thể mua tên lửa đó của người Pháp, một nước đã có luật cấm vận bán vũ khí cho Israel. Nhiều nước còn duy trì lệnh cấm vận này, vì họ biết rằng một khi Israel có thứ vũ khí này trong tay, thì họ sẽ sao chép lại.

Việc có được một đầu của tên lửa Exocet đã được giao phó cho người cầm đầu của Mossad. Tới lượt mình, ông ta đã giao cho Tevel đáp ứng đề nghị của hải quân.

Mossad đã có một số lượng đáng kể thông tin về loại tên lửa này, một phần nhờ qua một sayan làm việc trong công ty Hàng không vũ trụ. Một nhóm cũng đã thâm nhập vào trong nhà máy cùng với một chuyên gia về tên lửa - người này được cử từ Israel tới trong nhất thời - người chuyên gia trình bày với nhóm những tài liệu cần phải chụp ảnh. Nhóm làm việc đã trải qua bốn tiếng rưỡi đồng hồ trong nhà máy trước khi đi ra mà không để lại dấu vết gì lại.

Mặc dù có những tấm ảnh, một tên lửa đích thực trong tình trạng hoạt động được sẽ rất cần thiết. Người Anh đã có những tên lửa Exocet, nhưng họ không sẵn sàng nhượng lại cho Israel một chiếc.

Đối với hoạt động này ở châu Âu coi như bế tắc, nhưng Mossad biết rằng nhiều nước ở Nam Mỹ có các tên lửa Exocet. Bình thường, những người Argentin đã có thể được xem là một nguồn tốt, nhưng trong giai đoạn này, người Argentin đã mua một số động cơ phản lực được sản xuất tại Israel và Mossad đã ngờ vực mỗi hoạt động có thể gây tổn hại tới thị trường có lợi của mình.

Vì vậy, giải pháp tốt nhất hình như chỉ có Chilê. Mossad biết nước này vừa mới đề nghị Israel đào tạo cho các Cơ quan An ninh của họ - một lĩnh vực mà khả năng tinh thông của Israel được mọi người biết đến. Ngay cả như Mossad không công khai khoe khoang về khả năng ấy, thì Israel cũng đã huấn luyện cho các tổ chức khác nhau như tổ chức đáng gờm Savak của Iraq, các lực lượng an ninh của Colombie, của Argentina, của Tây Đức, của Nam Phi và của nhiều nước châu Phi khác, mà trong đó có cảnh sát mật của nhà cựu độc tài Ouganda, Idi Amin Data. Israel cũng đã đào tạo cảnh sát mật cho người hùng mới bị lật đổ là Manuel Noriega (xem chương V; phần 1). Bản thân người hùng này cũng theo một khoá thực tập tại Israel. Noriega khi đó luôn đeo một phù hiệu của lính dù Israel bên ngực phải của bộ đồng phục (thông thường, người ta đeo bên trái ). Và để chứng tỏ họ không phải là người phân biệt chủng tộc, Mossad đã huấn luyện cả hai phe trong cuộc chiến tranh đẫm máu đang diễn ra ở Sri Lanka: Những người Tamoul và những người Cinghalais - cũng như những người Indian được phái đến để thiết lập trật tự.

Do tiếng tăm xấu của DINA trên thế giới, Pinochet xem xét tới việc cải tổ lại tổ chức và giao cho viên tướng của mình là ngài Manuel Contreras lo liệu các công việc chi tiết.

Vì Contreras đề nghị Israel giúp đỡ, nên Nahum Admony, lúc đó là phụ trách của tổ chức Quan hệ, đã giao cho MALAT yêu cầu của hải quân. MALAT, bộ phận phụ trách vùng châu Mỹ La tinh, một vụ nhỏ, chỉ gồm có ba người và người phụ trách. Hai người trong số họ đã bỏ không ít thời gian đi tới Nam Mỹ để chủ yếu cố gắng thiết lập những mối quan hệ thương mại với Israel. Một người trong số họ tên là Amir ở Bolivie. Người này trông nom một nhà máy do một nhà công nghiệp Israel, Saul Eisenberg xây dựng (xem chương I; phần 2 ). Eisenberg, một con người có sức mạnh đến mức Chính phủ Israel đã phải chấp nhận một đạo luật đặc biệt miễn cho ông một số lớn thuế để ông ta chuyển trụ sở của mình sang Israel. Eisenberg đã chuyên môn hoá trong những hoạt động chìa khoá trao tay: Xây dựng một nhà máy và một khi dự án được thực hiện đầy đủ, trao chìa khoá cho chủ nhân của dự án.

Năm 1976, Eisenberg là trung tâm một vụ bê bối chính trị và trung tâm của một vụ điều tra của cảnh sát ở Canada sau khi báo cáo của viên kiểm tra các Tài khoản đã cáo giác, ít ra là có tới 25 triệu đô la đổ vào các tổ hợp công nghiệp trong việc bán lò phản ứng hạt nhân CANDU cho Argentina và Nam Triều Tiên, qua trung gian của họ là Công ty Năng lượng Nguyên tử hữu hạn của Canada (ACEL). Ông chủ tịch của công ty ACEL, L. Loriie Grey, thời kỳ đó đã thừa nhận rằng: “Không một người nào ở Canada biết tiền được chuyển vào đâu”.

Trước khi rời khỏi Bolivie, Amir đã nhận từ Đại sứ quán Israel các thông tin về những người mà ông ta đã gặp gỡ, những điểm mạnh và yếu của họ - theo trụ sở (tức là cơ quan ở Tel Aviv), thì bất kỳ người nào (trong số đó) đều có thể giúp được Amir. Tel Aviv đã lo liệu các vé máy bay, lo đặt phòng khách sạn và mọi chi tiết khác cho người ấy - kể cả một chai rượu vang Pháp được ưa thích của Contreras, đã được ghi trong hồ sơ của người này đang để ở Mossad.

Amir nhận được lệnh đợi một cuộc họp ở Santiago và nhận được lệnh không có bất kỳ một cam kết gì cả.

Trụ sở ở Tel Aviv đã đáp ứng lời yêu cầu của Chilê về huấn luyện cảnh sát mật và nói rằng trụ sở đã cử Amir, một sỹ quan về hành chính tới thảo luận về dự án, nhưng không hề đưa ra một ý kiến nào khác. Cuộc họp ở Santiago đơn thuần chỉ là một cuộc gặp gỡ với mục đích là lần xem xét, đánh giá đầu tiên.

Amir được một người đại diện của Sứ quán Israel ra sân bay đón và đưa về khách sạn. Ngày hôm sau, ông ta gặp Contreras và nhiều quan chức trong tổ chức của ông ta. Viên chức của Chilê đã nêu lên là ông ta đã nhận được sự giúp đỡ của CIA. Ông cho rằng CIA sẽ có thể không giúp đỡ ông việc này trong một số lĩnh vực. Trên căn bản, Contreras muốn thành lập một đơn vị chịu trách nhiệm về chủ nghĩa khủng bố ở địa phương - loại bỏ vấn đề này và chịu trách nhiệm về những âm mưu đánh bom - cũng như chịu trách nhiệm bảo vệ các khách viếng thăm.

Sau cuộc gặp gỡ, Amir đi New York để gặp người phụ trách của MALAT trong một ngôi nhà mà Mossad có ở bên dưới đó. (Ngôi nhà, trên thực tế được cho MALAT mượn qua một vụ khác, “AI”. AI chỉ hoạt động ở Hoa Kỳ và có những nơi ở bí mật tại đó. Tổ chức một cuộc gặp gỡ trong một ngôi nhà như vậy, chắc chắn hơn là cử một người khác đi Chilê).

Sau khi nghe bản báo cáo của Amir, người chủ nói với ông ta:

— Chúng ta muốn có một cái gì đó của loại này. Trước hết chúng ta hãy tung mồi nhử họ. Người ta thả một cái gì đó ra rồi làm những bước đi phía sau và bày tỏ đề nghị của chúng ta. Chúng ta làm cho họ cắn câu trước khi kéo dây lại.

Quyết định được đưa ra là Amir sẽ gặp lại Contreras một lần nữa để tu chỉnh Hiệp định về huấn luyện cho một đơn vị cảnh sát. Thời kỳ đó, kiểu thực tập như vậy là duy nhất được tổ chức ở Israel. Tiếp sau đó, sẽ là vấn đề cử người huấn luyện ra nước ngoài, thí dụ như ở Nam Phi, và ở Sri Lanka. Nhưng trong những năm 1975-1976, vấn đề được điều chỉnh lại là đưa các thực tập sinh tới.

Việc huấn luyện lúc nào cũng xảy ra trong căn cứ không quân cũ của Anh ở phía Đông Tel Aviv và căn cứ đó có tên là Kfar Sirkin. Israel đã sử dụng căn cứ này một thời gian để đào tạo các sỹ quan rồi sau căn cứ trở thành một căn cứ của các tổ chức đặc biệt, dùng chủ yếu để huấn luyện cho các đồng nghiệp nước ngoài.

Việc thực tập nói chung là thường kéo dài từ sáu tuần đến ba tháng, tuỳ theo tầm quan trọng của việc huấn luyện. Việc huấn luyện này rất tốn kém. Khi đó, Israel đòi hỏi mỗi thực tập sinh phải trả cho người huấn luyện khoảng từ 50 đến 75 đô la một đêm tập và hơn 100 đô la cho buổi tập ban ngày (Dĩ nhiên, những giáo viên huấn luyện không được nhận tiền. Họ phải cam lòng với số tiền lương bình thường). Israel cũng đòi hỏi từ 30 đến 40 đô la tiền ăn uống một ngày cho một người, cộng thêm khoảng 50 đô la cho việc dùng quân trang, quân dụng và lệ phí khác. Một đơn vị thực tập sinh gồm 60 người, với khoảng 300 đô la một người, thì một ngày lên tối 18.000 đô la, nghĩa là 1.600.000 đô la cho một người trong thời gian 3 tháng.

Thêm vào đó là từ 5.000 đến 6.000 đô la thuê máy bay trực thăng trong 1 giờ, và việc thuê đó cần tới 15 giờ cho một bài tập. Còn phải tính đến giá tiền của các loại súng, đạn đặc biệt dùng trong huấn luyện; một quả đạn Bazôka giá 220 đô la, trong khi đó những súng cối hạng nặng được lập hoá đơn là 1.000 đô la một khẩu; những cỗ pháo phòng không mà một số loại có đến 8 nòng có thể bắn hàng nghìn viên trong vài giây đồng hồ - mỗi viên có giá từ 30 đến 40 đô la.

Đấy là một báo cáo rất tốt. Người Israel thu được rất nhiều tiền với những loại thực tập này, thậm chí trước khi bán vũ khí. Tiếp theo, các thực tập sinh được huấn luyện sử dụng vũ khí của Israel, đương nhiên mong muốn tiếp tục sử dụng các vũ khí này khi trở về đất nước họ, vì vậy họ mua vũ khí và đạn dược kèm theo.

Amir đề nghị Contreras chọn 60 người tốt nhất của ông ta để thực tập. Chương trình sẽ được chia thành 3 cấp: Chiến sỹ, hạ sỹ quan và cấp chỉ huy, cùng với các phương pháp huấn luyện đặc thù riêng cho từng cấp. Ba nhóm, mỗi nhóm 20 người sẽ bắt đầu luyện tập cơ bản, sau đó 20 người giỏi nhất sẽ theo học chỉ huy. Nhóm này sẽ cung cấp ra các hạ sỹ quan và các sỹ quan.

Khi Amir đã trình bày đề xuất với Contreras, viên chỉ huy người Chilê đã không ngần ngại trả lời ngay:

— Chúng tôi là những người mua.

Ông ta muốn mua tất cả trang thiết bị, cùng với nó là những người của ông được đào tạo và ông đề nghị hoặc là lắp đặt một nhà máy nhỏ, hoặc một kho chứa đạn và các bộ phận thay thế dùng cho thời gian 6 năm.

Khi đã chấp nhận việc dạm bán tổng thể rồi, Contreras mặc cả một chút về giá cả, thậm chí đề nghị cho Amir một khoản tiền trà nước hàng nghìn đô la để ông này hạ giá xuống. Amir đã từ chối, viên chỉ huy người Chilê cuối cùng đã chấp nhận giá được đề nghị.

Đúng trước khi kết thúc việc huấn luyện cơ bản, Amir quay lại Santiago để gặp Contreras.

— Công việc huấn luyện diễn ra tốt đẹp - Amir nói - Chúng tôi sẽ lựa chọn những người để huấn luyện hạ sỹ quan. Họ là những người rất cừ. Chúng tôi chỉ phải gửi trả về có hai người thôi.

Viên chỉ huy Chilê, chính là người tự lựa chọn những người đi học tỏ ra phấn khởi. Sau khi đã nói một hồi về chương trình, Amir đã thuyết phục:

— Chúng tôi muốn đề nghị với ngài một vấn đề. - Vấn đề gì vậy? - Một đầu tên lửa Exocet.

— Điều ấy không thành vấn đề - Contreras trả lời - Hãy ở lại một hoặc hai ngày trong khi tôi xem lại tình hình. Tôi sẽ gọi lại cho ngài.

Hai hôm sau, Contreras yêu cầu gặp lại Amir.

Họ khước từ - Ông ta thông báo - Tôi đã đề nghị, nhưng họ không đồng ý.

— Chúng tôi đang cần nó- Amir trình bày- Chúng tôi sẽ có một ưu đãi cho ngài đối với việc thực tập huấn luyện. Chúng tôi hi vọng rằng ngài có thể giúp được cho chúng tôi.

— Thế này nhé, tôi sẽ lấy một chiếc đầu tên lửa cho ngài với tư cách cá nhân - Contreras tuyên bố - Không qua những con đường chính thức. Một triệu đô la Mỹ, bằng tiền mặt, và các ngài có tên lửa của các ngài.

— Cần bật đèn xanh cho tôi - Contreras nói.

— Đồng ý. Ngài biết tôi ở đâu rồi đó Amir tới New York gặp ông chủ, thông báo về lời đề nghị của Contreras. Họ biết, trong chừng mức nào đó, viên chỉ huy Chilê sẽ thoả mãn yêu cầu đó, nhưng người chỉ huy của Vụ có thể không muốn bắt ông ta phải chấp nhận nữa. Vì thế, người chủ của Amir gọi điện thoại cho Amony ở Tel Aviv, và tới lượt mình, Mossad đã đề nghị Cơ quan Tình báo hải quân xem liệu Hải quân có sẵn sàng chi ra một triệu đô la cho chiếc tên lửa không. Hải quân đồng ý.

— Đồng ý - Amir nói với Contreras.

— Rất tốt. Hãy cử một người nào đó am hiếu vấn đề các ngài cần đến, chúng tôi sẽ đưa họ tới một căn cứ hải quân. Người đó sẽ chỉ cho tôi chính xác, cái mà các ngài muốn, rồi tôi sẽ lấy.

Một chuyên gia của Bamtam, nhà máy của Israel chế tạo tên lửa, ở Atlit, một thành phố nhỏ nằm về phía Nam Haifa, nơi đã tu chỉnh lại tên lửa Gabriel, lên máy bay đi Chilê. Vì những người Israel muốn có một tên lửa Exocet đang trong tình trạng vận hành, nên viên chuyên gia đã nhấn mạnh tới việc người ta chuyển cho họ một chiếc đầu tên lửa chứa đựng đầy đủ. Vậy nên người Israel sẽ tin chắc là người ta không đánh lừa họ bằng việc giao một đầu đạn giả, hay một đầu đạn bị hỏng, không vận hành được.

Theo lệnh của Contreras, tên lửa được dỡ khỏi tàu và xếp lên một chiếc rê móc. Người Israel đã trả trước một triệu đô la.

— Có phải đó là cái các ngài muốn phải không?

Contreras hỏi.

Sau khi kiểm tra chiếc tên lửa, Amir đã đồng ý- Tốt rồi - Viên chỉ huy Chilê nhắc lại- vậy thì, chúng tôi sẽ xếp đầu tên lửa vào trong một thùng, dùng dây thép đóng chặt lại và đưa vào kho ở Santiago. Các ngài có thể nhờ bảo vệ nếu các ngài muốn, điều đó không có vấn đề gì với tôi. Nhưng trước khi các ngài đem nó đi, tôi muốn có vài việc.

— Có việc gì? - Amir hơi lo lắng - Chúng tôi đã đồng ý rồi. Chúng tôi đã hoàn tất phần của mình trong giao kèo.

— Và tôi sẽ hoàn thành phần của mình- Contreras hứa - Nhưng, trước hết, hãy gọi cho ông chủ của ngài, nói với ông ta là tôi muốn nói chuyện với ông ấy.

— Bản thân tôi có thể làm được việc đó, Amir đáp lại.

— Không, hãy nói với ông ấy rằng tôi muốn ông ta tới đây. Tôi muốn nói chuyện với ông ta một cách thành thực với nhau.

Amir không còn sự lựa chọn nào nữa. Một cách biểu lộ như vậy, Contreras đã thấy rằng người Israel này đã không phải là một người có cấp bậc rất cao và làm như thế để thu được mọi lợi ích có thể có. Từ phòng ở của mình ở khách sạn, Amir gọi điện thoại cho ông chủ ở New York, chính ông chủ đã gọi điện cho Admony ở Tel Aviv để giải thích tình hình. Cùng ngày, Admony đáp máy bay đi Santiago ngay để gặp viên tướng Chilê kia.

— Tôi muốn các ngài giúp tôi thành lập một đơn vị an ninh - Contreras đề nghị Admony.

— Chúng tôi đã, đang làm việc đó- Admony đáp lại- Và những người của ngài xoay xở rất tốt.

— Không, không, ngài chưa hiểu. Tôi muốn có một đơn vị giúp tôi thanh trừ các kẻ thù của mình, dù họ ở đâu. Như các ngài đã làm đối với PLO. Kẻ thù của chúng tôi không phải tất cả đều ở Chilê. Chúng tôi muốn tấn công những kẻ đang tạo thành một mối đe dọa trực tiếp đối với chúng tôi. Có những nhóm khủng bố ở nước ngoài hiện đang đe dọa chúng tôi. Chúng tôi mong muốn có thể thanh toán được họ. - Các ngài có hai cách giúp đỡ chúng tôi. Các ngài có thể chấp nhận rằng, người của các ngài chịu trách nhiệm làm việc trong trường hợp có vấn đề. Chúng tôi biết rằng Đài Loan đã đề nghị các ngài loại dịch vụ này và các ngài đã từ chối.

Chúng tôi muốn dùng những con người của chính mình hơn, một nhóm mà các ngài sẽ có thể đào tạo để đáp ứng với những đe dọa của quân khủng bố ở ngoài nước. Các ngài hãy làm việc này, và tên lửa là của các ngài.

Việc phát sinh mới này đã làm cho Admony và Amir sững sờ. Được cho biết về tính chất của lời yêu cầu, người chỉ huy của Cơ quan Quan hệ đã trả lời viên tướng Chilê rằng ông ta phải hỏi ý kiến của cấp trên của mình trước khi cam kết.

Vì mục đích này, Admony quay về Tel Aviv để tham dự một cuộc họp thượng đỉnh tại trụ sở Mossad. Admony khùng lên là Contreras đã thêm một điều khoản không mong đợi trong bản giao kèo. Điều khoản đã quyết định vấn đề có tính chất chính trị và điều khoản đó thuộc Chính phủ quyết định nếu muốn thoả mãn Contreras hoặc để cho việc đổ bể.

Về phần ông ta, đã không làm gì để bị dính líu vào bản thoả thuận loại này, và quyết định ông ta đưa ra thuộc loại các quyết định mang ý nghĩa là: “Chúng tôi dường như không được biết”.

Vậy là cần phải nhờ cậy một người bên ngoài để kết thúc công việc này. Việc lựa chọn nhắm vào ông chủ của một công ty bảo hiểm kếch xù của Israel, Mike Harari, một người lãnh đạo Mossad mới về hưu. Ông này đã chịu trách nhiệm về vết sờn của Lillehammer. Ông ta cũng đã từng là một trong những cố vấn có ảnh hưởng nhất của nhà độc tài Manuel Noriega, và đã đem sự giúp đỡ của ông ra đào tạo K - 7, một đơn vị đặc biệt chống khủng bố của Panama.

Ngoài sứ mệnh liên quan đến một Hiệp định với viên tướng Chilê, Harari đã trực tiếp gắn bó với một công ty hải quân quan trọng, phương tiện lý tưởng để chuyển đầu đạn về Israel một cách bí mật và tuyệt đối an toàn.

Tại Mossad, Harari đã từng lãnh đạo Metsada, một ngành chịu trách nhiệm về người chiến đấu, và lãnh đạo kidon, một bộ phận của Mossad. Người ta đã giao phó cho ông tuyên bố với Contreras rằng, ông sẽ dạy cho một đơn vị đặc biệt chống khủng bố tất cả những gì ông biết. Nếu đó không phải là “tất cả” - Harari cần có sự đồng ý của Mossad đối với những cái ông ta dạy, và Văn phòng muốn giữ lại cho ông ta một số kỹ thuật hơn - Văn phòng đã cho ông biết một số điều khá đủ để thực hiện ở nước ngoài của kẻ thù có thực hoặc giả định. Quy định của việc huấn luyện này được cất trong một chiếc két đen do DINA quản lý và được trực tiếp gửi tới cho Harari.

Những chiến sỹ của đơn vị đặc biệt, trên thực tế là người của Contreras. Họ không có những quy chế chính thức. Ông ta tuyển chọn và ông ta trả lương cho họ. Họ làm những công việc ông giao cho họ. Nhưng phương pháp hỏi cung, ghi biên bản của họ có thể vượt ra ngoài những điều họ đã học, nhưng sự việc tồn tại là viên tướng đã đạt được việc nhờ huấn luyện cho một đơn vị đặc biệt, và rằng Israel đã có cho mình tên lửa Exocet. Harari dạy cho họ những kỹ thuật tra tấn như phóng điện, và chỉ cho họ những điểm làm đau đớn. Mục đích chính của việc hỏi cung là nhằm thu được những tin tức. Nhưng những người Chilê bổ sung thêm vào một vài thứ do chính họ nghĩ ra. Họ thích phỏng vấn để phỏng vấn thôi và thường không tìm kiếm được tin tức. Đúng ra là họ thích làm cho bị đói khổ.

Vào một ngày ẩm ướt của tháng 9 năm 1976 tại Washington, khi Letelier đi ra ngoài dạo chơi lần cuối trong đời của mình, không một ai nghi ngờ được rằng tên giết người đã do chính Mossad đào tạo. Và cũng không ai biết rằng Israel đã có trong tay một tên lửa Exocet nữa.

Người Israel đã tiến hành những công việc thử nghiệm bằng cách gắn chiếc đầu tên lửa ở bên dưới bụng một chiếc máy bay tiêm kích phản lực Phantom (Con Ma), cùng nối tất cả những miệng lỗ của ống phát xạ vào một loạt máy thu có thể được đọc trong các điều kiện khác nhau, và đồng thời cho giả các chuyến bay của tên lửa. Công việc thử nghiệm kéo dài ba tháng và được thực hiện với chiếc máy bay phản lực chở hành khách (Jet), cất cánh từ căn cứ không quân Hatsrim, gần Beersheba.