Chương 4 Cờ Và Nước Bí.
Được nuôi dạy ở Syrie, trong thời niên thiếu của mình, Magid đã mơ, một ngày nào đó, chơi cờ ở trình độ quốc tế. Ông ta có lòng say mê với trò chơi này, nghiên cứu lịch sử của nó, ghi nhớ lại những nước đi của những bậc thầy vĩ đại.
Là một tín đồ Hồi giáo chính thống, Magid đã sống ở Ai Cập từ thời làm cho người ta say sưa cuối những năm 1950, lúc mà Gamal Abdel Nasser đã biến sự thống nhất của Ai Cập và Syrie thành Cộng hoà Ả Rập Thống nhất.
Đó là mùa hè năm 1985, Magid đặt chân tới Copenhague, với hi vọng vào làm ăn để mở được một ngân hàng đầu tư tư nhân. Ngay ngày ông ta tới, ông ta đã chú ý ở trong phòng đợi của khách sạn có một người lịch sự đang nghiên cứu một cuốn sách, ngả người xuống phía trên một chiếc bàn cờ. Do chậm cho một cuộc hẹn, Magid không có thời gian để dừng lại. Ngày hôm sau, người đó lại xuất hiện ở đó. Bị cuốn hút bởi chiếc bàn cờ như bị nam châm hút, Magid sáp lại gần con người chưa quen biết, vỗ vào vai ông ta và mở đầu với giọng tiếng Anh rất chuẩn:
— Xin lỗi…
— Không phải lúc! - Người kia đáp lại.
Magid lùi ra, lặng lẽ quan sát một lúc rồi khuyên một nước đi hợp lý. Người kia lúc này đã chú ý tới ông ta.
— Ông có chơi cờ không?
Hai người vui vẻ trò chuyện. Trong vòng hai giờ rưỡi tiếp sau đó, Magid và người bạn mới tự giới thiệu tên là Mark, nhà thầu khoán Canada, gốc Lyban theo Thiên Chúa giáo - họ nói chuyện về thú chơi cờ đã quyến rũ họ. Thực ra Mark tên là Yehuda Gil, một trong những katsa của chi nhánh Bruxelles, chịu trách nhiệm thiết lập quan hệ với Magid. Mục tiêu không phải là Magid mà là người anh của ông ta, Jadid, một quan chức cao cấp Syrie mà Mossad hi vọng để tuyển mộ. Tổ chức đã có ý đồ ở nước Pháp, nhưng do thiếu thời gian, việc đó không tiến triển được. Tuy nhiên, trong phần lớn những công việc này, Jadid thậm chí không hay biết gì về ý đồ đó - và chắc chắn là không biết Mossad đã đặt cho ông ta một tên mật mã là “Mở nút chai” (Tữe-bouchon).
Câu chuyện thực sự bắt đầu ngày 13 tháng 6 năm 1984, khi một katsa có tên là Ami thuộc tổ chức của văn phòng về Đan Mạch, ở trên tầng sáu trụ sở Mossad tại Tel Aviv (lúc đó đóng trong toà nhà Hadar Dafna, trên đường Roi-Saul), đã nhận được một bức điện như thường lệ của một sỹ quan Quan hệ ở Đan Mạch. Viên sỹ quan Quan hệ này đã chuyển một yêu cầu của “A Đỏ”, tên mật mã của Cơ quan An ninh Dân sự Đan Mạch (SDSC), xin thẩm tra lại một danh sách 40 người có tên Ả Rập hoặc nguồn gốc Ả Rập đã xin chiếu kháng Đan Mạch.
Điều mà nhiều người Đan Mạch không biết - và chỉ có một số người lãnh đạo của họ biết đó chính là Mossad thường xuyên thẩm tra các danh sách xin chiếu kháng của Đan Mạch rồi đánh dấu chữ thập đằng trước những tên không có vấn đề gì. Khi có vấn đề, Mossad báo cho Đan Mạch hay nếu vì lợi ích của Israel, Mossad làm cho việc có chiếu kháng bị chậm lại để nghiên cứu sâu thêm việc xin của đương sự.
Mối quan hệ giữa Mossad với các Cơ quan Tình báo Đan Mạch thân thiết đến mức quan hệ trở thành sỗ sàng. Đó không phải là đức tính của Mossad trong mối quan hệ thoả hiệp ngầm, nhưng đó lại là đức tính của Đan Mạch. Những người Đan Mạch đã nghĩ lầm rằng người Israel sẽ biết ơn họ và họ có thể lấy được lòng tin của Mossad, bởi vì trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đan Mạch, đã cứu sống một số lớn người Do Thái.
Một nhân viên của Mossad, một marats, chẳng hạn, đã làm việc trong trụ sở của SDSC. Tại đây, nhân viên này nghiên cứu tất cả những bức điện liên quan đến người Ả Rập và Palestine chuyển tới cơ quan nghe điện - một sự sắp xếp không thể tưởng tượng được với một Cơ quan Tình báo nước ngoài. Là con người duy nhất trong trụ sở, nói tiếng Ả Rập, nhân viên này hiểu hết các bức điện, nhưng lại gửi về Israel để dịch. (Tất cả được chuyển qua một nhân viên Quan hệ của ăng ten của Mossad tại Copenhague, mật danh là “Hombre”). Các thông tin thu thập được không phải lúc nào cũng được chia sẻ cho Đan Mạch bởi vì công việc dịch thuật được trả lại thường bị cắt xén một cách nặng nề và bởi vì các băng gốc lại không được hoàn lại.
Đương nhiên, Mossad không đánh giá cao người Đan Mạch. Mossad khai thác những thông tin của fertalach, thuật ngữ tiếng Hébreu để chỉ lời hứa hão. Họ phát hiện tất cả những gì họ làm ở Mossad, nhưng Mossad đã không để ai biết những gì về bí mật.
Bình thường, việc thẩm tra 40 tên tuổi trên máy tính của Mossad mất khoảng một giờ. Nhưng vì đó là lần đầu tiên Ami lo liệu về người Đan Mạch, nên ông ta đã bắt đầu bằng cách cho phát những thông tin liên quan tới SDSC đi từ trạm cuối của ông. Trên màn hình, xuất hiện một bức thư mang số 4647 và con dấu “mật”, mô tả chi tiết về tổ chức, nhân sự, sự hoạt động của Cơ quan Tình báo Đan Mạch, và thậm chí một vài hoạt động nữa. Cứ ba năm một, những người lãnh đạo của Tình báo Đan Mạch lại sang Israel tham dự một cuộc hội thảo do Mossad tổ chức nhằm trao đổi về tình hình phát triển vừa qua đối với các hoạt động khủng bố và đối với kỹ thuật khủng bố. Nhờ những mối quan hệ này, Israel đã thu được nhưng tin tức sẵn có về cộng đồng người Palestine, khoảng 500 thành viên, sinh sống tại Đan Mạch, và được lợi lộc bởi một “sự hợp tác đầy đủ trong lĩnh vực theo dõi”.
Bức thư cho biết Henning Fode, 38 tuổi được cử giữ chức đứng đầu cơ quan SDSC tháng 11 năm 1984, và trước khi sang Israel vào mùa thu năm 1985. Michael Lyngbo, nhân vật số 2 của tổ chức này, mặc dù không có kinh nghiệm, nhưng lại phụ trách khối Cộng sản. Paul Moza Hanson, cố vấn pháp luật của Fode, quan hệ với Mossad, mới rồi phải rời chức vụ. Halburt Winter Hinagay, phụ trách Vụ Chống khủng bố và lật đổ, cũng đã tham dự Hội thảo chống khủng bố được tổ chức mới đây ở Israel.
(Trên thực tế, Mossad đứng ra tổ chức một loạt hội thảo, đồng thời mỗi một Cơ quan Tình báo dự, vì thế thắt chặt mối quan hệ quý báu trong khi giữ ý nghĩ cho rằng không một tổ chức nào hiểu chủ nghĩa khủng bố tốt hơn Mossad.)
Trên màn hình của Ami, một tài liệu khác cho thấy tên đầy đủ của Cơ quan Tình báo Đan Mạch: Politiets Efterreingsjtneste Politistatonen (PEP) và liệt kê các ban ngành khác nhau của tổ chức này. Việc nghe điện thoại thuộc Ban S: Trong một văn bản ngày 25 tháng 8 năm 1982, những người Đan Mạch đã báo cho Hombre biết rằng họ đã xem xét trang bị một hệ thống thông tin mới và họ có thể cho phép chuyển cho Mossad 60 cuộc nghe (60 địa điểm mà họ đặt thiết bị máy nghe cho cơ quan của Israel). Họ cũng đặt trên những máy nghe các trạm điện thoại công cộng “theo lời khuyên của chúng tôi (Mossad), trong các khu phố đã biết để nhạy cảm với các hoạt động lật đổ”.
Tiếp sau, tài liệu cũng than phiền về chất lượng tồi của đội theo dõi: “Những con người dễ bị phát hiện. Họ không hoà lẫn vào hoàn cảnh, có thể vì một sự quay vòng nhanh về nhân sự của đơn vị”.
Cảnh sát được giao việc tuyển mộ cho cơ quan, một nhiệm vụ khó khăn bởi vì việc tuyển mộ không đem lại khả năng tiến lên mấy. Ngày 25 tháng 7 năm 1982, Hombre đã đề nghị các Cơ quan Tình báo về một hoạt động bí mật ở Đan Mạch liên quan đến Bắc Triều Tiên, nhưng người ta đã trả lời ông rằng công việc đó đã được người Mỹ tiến hành, vậy thì “yên lặng nhé” (Alors motus).
Trong lúc đòi hỏi máy tính những thông tin khác, Ami đã lấy ra hồ sơ - B. Đỏ, mô tả chi tiết Cơ quan Tình báo quân đội của Đan Mạch (SRDD). Cơ quan Tình báo quân đội Đan Mạch được đặt trực tiếp dưới trách nhiệm của viên tổng chỉ huy quân đội và của Bộ Quốc phòng. Cơ quan này được cấu trúc bởi bốn đơn vị: Quản lý, nghe, nghiên cứu và thu thập tin tức.
Trong khuôn khổ NATO, Tình báo Quân đội Đan Mạch phụ trách về Ba Lan, Đông Đức và các hoạt động của tàu chiến Xô viết trong vùng biển Baltique, nhờ vào các máy móc điện tử được cải tiến do Mỹ cung cấp.
Về phương diện nội bộ (trong nước), Cơ quan Tình báo này chịu trách nhiệm nghiên cứu về quân sự và chính trị, chịu trách nhiệm thu thập “chủ động” (những thông tin của các công dân Đan Mạch về những việc mà họ thấy) bằng cách đối lập với cái “bị động” (các nguồn tin thu thập được ở ngoài biên giới). Cơ quan này cũng làm công việc quan hệ ở cấp quốc tế và cung cấp cho Chính phủ những đánh giá về các nước khác. Thời kỳ ấy, Tình báo Quân đội Đan Mạch có dự án thành lập một đơn vị về các vấn đề của Trung Đông, đồng thời, bắt đầu với một người làm việc về vấn đề nêu trên mỗi tuần một ngày.
Cơ quan này trở thành nổi tiếng vì các bức ảnh chụp rất rõ những hoạt động trên không, trên đất liền và trên biển của Xô viết. Đây là cơ quan đầu tiên cung cấp cho Israel các tấm ảnh của hệ thống tên lửa SSC-3 của Xô viết (hay còn gọi là tên lửa đất đối đất - Missiles sol-sol). “B Đỏ” đã do Mogens Telling lãnh đạo từ 1976. Ông này đã tới Israel năm 1980. Bangsbore, phụ trách ban nhân lực đã về hưu năm 1986. Mossad có nguồn tuyệt hảo ở ngay trong cơ quan SRDD và trong Học viện nghiên cứu Quốc phòng Đan Mạch (IRDD). Các tổ chức Tình báo của Đan Mạch hợp tác làm việc chặt chẽ hơn với Thuỵ Điển (tên mật danh là “Bourgone”), với đồng minh của họ trong NATO là Na Uy. Gặp dịp, “B Đỏ” gặp gỡ với “Carousel”, mật danh của các Cơ quan Tình báo Anh, làm việc với họ từng sự việc một và tham gia vào các hoạt động khác chống lại Tình báo Xô viết.
Ami đã biết tất cả các thông tin trước khi làm xuất hiện một công thức cho phép đưa vào máy tính một dữ liệu: Một cái tên, một chữ số, bất kỳ cái gì để khám phá ra bộ nhớ của máy. Nếu như người đang có vấn đề là một người Palestine và rằng nếu không có gì xuất hiện trên màn hình, Ami chuyển công thức cho văn phòng Palestine của Mossad, người có quyền quyết định đưa ra thẩm tra hoặc đơn giản là để lại tên trong máy tính của trung tâm. Tất cả các ban, ngành của Mossad được nối với máy tính khổng lồ được đặt tại trụ sở ở Tel Aviv. Cứ mỗi buổi chiều, một đĩa cứng chứa các thông tin trong ngày lại được để vào một nơi chắc chắn.
Ami không chỉ còn là bốn cái tên kết thúc danh sách khi danh sách này của Magid xuất hiện. Và một cái gì đó đã nhắc lại cho anh ta. Lúc có một cuộc nói chuyện với một người bạn của ban Nghiên cứu, một thời gian sớm hơn, ông ta đã nhìn thấy tấm ảnh của một người có cùng tên đứng bên cạnh Tổng thống Hafez el Assad. Nhiều người Ả Rập mang cái tên tương tự thì chừng ấy tên phải thẩm tra. Không tìm được gì trên máy tính liên quan tới Magid, Ami gọi ban Nghiên cứu, yêu cầu người bạn của ông ta tại văn phòng về Syrie đem tấm ảnh tới vào buổi trưa, tại quầy ăn trên tầng tám, để có thể so sánh với tấm ảnh của Magid xin chiếu kháng Đan Mạch.
Sau bữa ăn trưa, có tấm ảnh của Jadid trong tay, Ami cầu cứu tới các chi tiết khác trong máy tính, kiểm tra xem liệu Jadid có phải trong cùng một gia đình - và vì thế, phát hiện thấy rằng ông ta có một người anh em mà việc nhận dạng và tiểu sử tương đồng với những điều của Magid.
Việc phát hiện này đã tạo khả năng “gặp may” - việc tuyển mộ một người để đạt tới một người khác - điều mà Ami đã nhấn mạnh trong báo cáo trước khi để nó vào thư tín nội bộ.
Trong Tsiach, hồ sơ hàng năm của Mossad về các tin tức cần thiết, Quân đội Syrie là được ưu tiên từ nhiều năm nay. Vì thế, Mossad đã đề nghị AMAN, Tình báo quân đội của Israel vạch ra một danh sách những việc cần biết về tình trạng chuẩn bị lực lượng của Syrie, theo thứ tự của tầm quan trọng. Một bản câu hỏi điều tra 11 trang do AMAN cung cấp trở lại, đặc biệt đề cập tới số lượng các tiểu đoàn của Syrie đang có, tình trạng các lữ đoàn thiết giáp 60 và 67 cũng như của lữ đoàn cơ khí 87; số lượng lữ đoàn trong một sư đoàn 14 của “Lực lượng đặc biệt”, và một loạt các câu hỏi có liên quan, như các chi tiết về dư luận sẽ thay thế Ahmad Diab, người phụ trách Văn phòng An ninh Quốc gia bằng Rifat El Assad, người anh em của Tổng thống.
Mossad đã có sẵn một số lượng các nguồn tin ở Syrie (cái mà Mossad gọi là “hệ thống báo động đầu tiên” của mình) thí dụ, trong các bệnh viện và công trường xây dựng, khắp nơi người ta có thể thu được và truyền được những mẩu tin tức, được tập hợp lại, nó có thể báo cho Israel tình huống chuẩn bị chiến tranh xảy ra bất ngờ. Từ những năm đó, người Syrie đã tạo thành thế tấn công suốt dọc theo cao nguyên Golan, và Mossad đã luôn luôn đánh giá cao chủ yếu việc thu thập tin tức chính xác và mới nhất trong lĩnh vực quân sự. Tuyển mộ một ngươi Syrie có cấp bậc cao là một sự kiện lớn.
Đối với Mossad, Syrie là một nước “thất thường” (đồng bóng). Điều đó có nghĩa đơn giản là Syrie chỉ do một con người điều hành, ngài Assad, một người một buổi sáng có thể đứng lên và nói - “Tôi muốn tiến hành chiến tranh”. Phương tiện duy nhất được nhắm tới việc đó nhanh hơn, chính là có một nguồn gần gũi với cấp chóp bu nếu có thể được. Mặt khác Mossad biết rằng Assad thiết tha chiếm lại cao nguyên Golan. Về phần mình, Tổng thống Syrie đã nhận thức được rằng ông ta có thể giành lại được đất bằng một cuộc phản công rõ ràng, nhưng không cầm chân lâu dài người Israel được. Từ lâu, vào những năm 1980, Assad đã tìm kiếm từ những người Nga một sự bảo đảm, rằng, thông qua con đường của Liên hợp quốc hoặc cách khác, họ sẽ can thiệp nhằm chấm dứt nhanh chóng cuộc chiếc tranh loại này. Không nhận được sự đồng ý của người Nga, Assad đã không bao giờ đưa chiến xa tấn công Golan.
Tình hình phức tạp như thế đã làm cho việc tuyển mộ người anh em của Magid là một ưu tiên hàng đầu, và vài giờ đồng hồ sau đó, Yehuda Gil (Mark) đi Copenhague đợi “chủ thể” đến. Một nhóm khác được giao nhiệm vụ đặt máy nghe trong phòng khách sạn của Magid và bố trí việc theo dõi cần thiết - bất kỳ một việc gì có thể giúp cho tuyển mộ và thông qua người anh em của ông ta quan trọng biết bao.
Lý tưởng dùng một bàn cờ để bắt liên lạc với Magid đã xuất hiên trong đầu Gil, dù rằng lý tưởng ấy được bắt nguồn từ một cuộc họp trong một địa điểm bí mật ở Copenhague.
Qua cuộc nói chuyện đầu tiên với Mark, Magid đã gây được ấn tượng có thể tạo được lòng tin với ông ta bởi vi ông ta đã kể cho Magid nghe một phần lớn cuộc đời của mình và gợi ý cùng nhau đi ăn cơm tối chiều hôm đó. Mark nhận lời, rồi quay về nơi ở bí mật thảo luận với các đồng nghiệp về bữa ăn tối.
Trong bữa ăn, Gil cố gắng thăm dò điều gì mà Magid đã để lộ ra - phạm vi gì ông ta biết. Cùng trong lúc đó, Gil cũng tự giới thiệu như một người làm ăn giàu có (vỏ bọc lúc nào cũng được đánh giá cao), có sự tiếp xúc rộng rãi.
Magid đã phân trần rằng gia đình ông sống ở Ai Cập và ông ta muốn đưa gia đình sang Đan Mạch, mặc dù không phải ngay lập tức. Ông ta muốn có một chút thời gian tốt. Lúc này, ông ta đi tìm thuê một căn hộ; rồi sau, khi gia đình đến, ông ta sẽ mua một căn hộ. Mark để nghị giúp ông ta bằng cách, ngày mai, phái đến cho ông một nhân viên buôn bán bất động sản. Chưa đầy một tuần sau, Magid đã có một căn hộ. Và Mossad đã cài vào nhà những máy nghe trộm, thậm chí đặt cả các máy quay phim trên trần nhà.
Trong cuộc họp sau, tại nơi bí mật ở Copenhague, đã có quyết định là Mark sẽ nói với Magid rằng ông ta phải quay về Canada một tháng vì công việc làm ăn. Điều này tạo cho Mossad thời gian sử dụng máy nghe và theo dõi của mình. Học viện biết rằng Magid không phải đi buôn bán ma tuý, nhưng là người rất máu gái. Căn hộ lộng lẫy cúa ông ta được cài đặt những loại máy móc mới gần đây hơn: Máy ghi âm, máy ghi hình từ tính v.v.
Dịp may với Mossad, là mỗi tuần, Magid gọi điện thoại cho người anh hai lần. Nhanh chóng nhận ra là Jadid không phải là một thiên thần, và ông làm việc với Magid trong một công việc tăm tối. Thí dụ, ông ta đã mua ở Đan Mạch một số lượng lớn phim “con heo” rồi đưa về bán tại Syrie để kiếm những khoản lời lớn. Trong một cuộc đàm thoại, ông ta nói với Magid rằng ông sẽ tới thăm Magid tại Copenhague trong một tuần lễ.
Nhờ vào thông tin này, Mark đã ấn định một cuộc gặp mới với Magid và đóng vai một cán bộ cao cấp của một công ty Canada (không bao giờ là Tổng giám đốc, vì điều này có thể cản trở việc có thời gian tham khảo ý kiến với “ông chủ” - trên thực tế là nhóm ở chỗ bí mật), ông ta bắt đầu đặt các mốc của một Hiệp định thương mại.
— Nhìn chung, điều mà chúng tôi làm, đó là đem đến cho khách hàng của chúng tôi một sự đánh giá về những việc đầu tư có thể được - Mark nói - Chúng tôi khuyên họ đầu tư hoặc không đầu tư vào một nước nào, vì thế chúng tôi phải thu lượm những thông tin về nước đó. Chúng tôi làm việc như một loại CIA tư nhân.
Việc đề cập đến CIA, dường như không có tác dụng với Magid, điều này trong thời gian đầu đã làm cho người Israel lo ngại. Mọi việc nêu ra của cơ quan CIA thông thường đều gợi lên những phản ứng tiêu cực ở người Ả Rập. Mossad bắt đầu sợ rằng Magid đã bị một tổ chức nào khác tuyển mộ rồi.
Đây không phải là trường hợp đó. Một cách đơn giản, ông ta có một sự bình tĩnh kỳ lạ.
— Dĩ nhiên - Mark nói tiếp - chúng tôi sẵn sàng trả tiền cho những tin tức, cho phép chúng tôi biết việc đầu tư ấy là chắc chắn, nếu có thể được đảm bảo trong các khu vực khác của thế giới. Chúng tôi đã làm ăn với một số người chịu chơi kếch sù, các ngài hãy hiểu cho, chúng tôi cần những tin tức chi tiết và chắc chắn, chứ không phải những sự việc mà bất cứ ai cũng thu nhặt được trong một góc của đường phố.
Mark đưa ra một ví dụ đối với quả chà là của Iraq, mà cả thế giới đều biết đến.
— Nhưng các ngài sẽ điều hành chà là với cuộc chiến tranh (Iran - Iraq), đang diễn ra lúc này được không? Chỉ trừ phi hàng được chuyển trong tàu, mới có thể được bảo đảm. Đối với việc đó, cần phải đưa các dữ liệu chính trị và quân sự vào bản giao kèo.
Magid tỏ cho thấy quan tâm.
— Thực sự đó không phải là lĩnh vực của tôi - Ông nói- Nhưng tôi biết một người sẽ làm vừa ý các ngài. Tôi sẽ thu được cái gì ở việc này?
— Chúng tôi thường bỏ ra một khoản tiền khoán hơn 1% cho những gì chúng tôi có được. Điều đó còn tuỳ thuộc vào giá trị của thông tin, các nước có liên quan. Một vài nghìn đô la hoặc một vài trăm nghìn đô la, điều đó còn tuỳ.
— Với nước nào các ông quan tâm? - Magid hỏi.
— Lúc này, chúng tôi cần những thông tin về Jordanie, Israel, Chypre và Thailand.
— Syrie thì sao?
— Có thể. Tôi cần kiểm tra lại. Tôi sẽ báo để ông biết. Một lần nữa là tất cả đều phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng chúng tôi và của mức độ những thông tin ấy đến từ đâu.
— Được, ông hãy tìm hiểu tình hình đi. Nhưng ông anh của tôi hiện đang giữ một chức vụ rất cao ở Syrie đấy.
Hai người thoả thuận ngày kia gặp lại nhau.
Tiếp tục chơi mà không quá vội vàng, Mark nói với Magid nước Syrie cũng có một số vấn đề đáng quan tâm.
— Syrie chưa phải là một ưu tiên của tôi- Mark nói với người bạn Ả Rập - nhưng cái đó có thể có lợi nếu những thông tin thực sự là tốt.
Hôm trước, Magid đã gọi điện thoại cho người anh và đề nghị ông anh thực hiện chuyến thăm Copenhague sớm: Có một vài việc hệ trọng với ông ta. Jadid đã chấp nhận.
Ngày hôm sau khi người anh tới, Mark đã gặp hai người trong căn hộ của Magid. Không để lộ ra là Mark đã biết các chức trách của Jadid, ông ta đã đặt một loạt câu hỏi với ông này theo tính chất thông tin mà ông ta có thể mong đợi có, để đánh cá việc công ty của ông ta có thể dạm bán hàng. Mark đề cập đến các vấn đề quân sự, nhưng xen lẫn vào một số lớn các chủ đề “dân sự” để giấu mục tiêu thực sự của ông ta. Sau một vài buổi thương lượng, cứ mỗi buổi, có một báo cáo gửi tới địa điểm bí mật - Mark đã chi 30.000 đô la cho Magid, 20.000 đô la cho Jadid mỗi tháng -cộng thêm 10%, tức là 2.000 đô la/tháng, cho Magid. Sáu tháng đầu sẽ được trả tiền trước, tiền được gửi vào tài khoản của Ngân hàng Copenhague mà Magid mở cho Jadid.
Giai đoạn tiếp theo là dạy cho Jadid biết sử dụng một bút chì có điều chế hoá chất đặc biệt; với chiếc bút đó, Jadid có thể viết các thông tin lên mặt sau của những lá thư bình thường gửi cho cậu em.
Mark đề nghị giao ngay lập tức công cụ cho -Jadid, để mang về Syrie, nhưng ông này từ chối, và họ đã thoả thuận công cụ đó sẽ được gửi tới Damas cho ông ta.
— Ông đã làm việc thực sự như một Cơ quan Tình háo - Jadid đưa ra lời nhận xét.
Hoàn toàn đúng- Mark trả lời- Chúng tôi thậm chí dùng cả những điệp viên cũ. Sự khác nhau, chính là ở chỗ chúng tôi hoạt động để kiếm tiền. Chúng tôi trao đổi những thông tin của chúng tôi, duy nhất cho những người sẵn sàng trả tiền cho những tin tức và cho việc sử dụng nó phục vụ đầu tư.
Mark đã phải truyền đạt với Jadid những vấn đề làm ông quan tâm tới, ông ta đính kèm vào đó một số lớn các chủ đề bịa ra - thí dụ giá trị bất động sản và việc thay đổi trong chính quyền - luôn đưa ra những câu hỏi làm cho các vấn đề mang tính chất quân sự bị chìm đi. Sau nhiều lần tập thử chiếc bút chì đặc biệt, Jadid hình như hài lòng, bảo đảm là người ta sẽ liên hệ với ông ở Damas, để nói với ông ta ở đâu, ông ta có thể nhận được bản danh sách những câu hỏi.
Trong bất cứ hoạt động nào, Mossad cũng nghi rằng hai anh em kia biết rằng họ làm việc cho Israel, nhưng vẫn tiếp tục, thậm chí chơi trò nguy hiểm. Từ những nghi ngờ này, người ta tăng cường an ninh cho một katsa.
Nếu lời hứa đã nêu với Jadid là gửi công cụ làm việc cho ông ta có vẻ như dễ dàng nhận được, thì lời hứa đó trên thực tế là một loạt âm mưu phức tạp để tránh bất kỳ một rủi ro nào bị phát hiện.
Mossad sử dụng một điệp viên “trắng” (không phải người Ả Rập) - trong trường hợp này, một trong số những người chuyển thư tín thích hợp hơn, một sỹ quan Canada của Liên hợp quốc, có trụ sở ở Naharia, một thành phố bờ biển, của phía Bắc Israel, gần ngay trong vùng khu phi quân sự ngăn cách với Syrie. Các sỹ quan này có thể đi qua biên giới theo ý của họ. Viên sỹ quan Canada lĩnh lương một tháng là 500 đô la, để gửi lại một hòn đá có lỗ khoét đựng công cụ làm việc để vào một địa điểm chính xác bên dưới mép của con đường đi Damas: Cách chiếc cột chỉ cây số bình thường năm bước chân.
Khi viên sỹ quan Canada từ bên kia biên giới trở về, một chiến sỹ của Mossad đến thu lượm hòn đá, mang về khách sạn, mở lấy chiếc bút chì ra, các câu hỏi và một phần tiền gửi cho Jadid. Người chiến sỹ của Mossad gửi bưu kiện qua bưu điện, gửi tin tức cho phép nhận lại được, và đáp máy bay đi Italy. Từ đó, tin được chuyển về cho Mossad ở Tel Aviv. Chính người chiến sỹ này để thông tin cho vào một phong bì chuyển theo địa chỉ của Magid và cuối cùng Magid lại chuyển thông tin cho người anh của mình qua bưu điện.
Vì vậy, bản tin chuyển tới trong thư từ của Jadid, cũng giống như một bức thư bình thường của người em, không gợi lên một sự nghi ngờ nào. Không bao lâu, những lời phúc đáp đã chuyển tới và cung cấp cho người Israel tất cả những gì họ muốn biết về tình hình chuẩn bị của Quân đội Syrie.
Hệ thống này hoạt động tuyệt vời trong 5 tháng, với việc Mossad tin rằng đã có một chuột chũi ở trong hàng ngũ cao cấp vào lúc này. Sau đó, vì việc làm này quá thường xuyên trong làng tình báo thế giới, nên mọi việc đã thay đổi. Nếu người Syrie không nghi ngờ Jadid làm việc cho Cơ quan Tình báo Israel, thì họ nghi ông ta là kẻ buôn lậu trong lĩnh vực ma tuý và phim ảnh con heo. Họ quyết định đưa ra một cái bẫy: Ông ta sẽ bị bắt là kẻ mang ma tuý từ Lyban tới vào lúc ông ta rời khỏi Syrie đi tới các Thủ đô của Châu Âu. Trên thực tế, Jadid tham gia vào một nhóm kiểm tra những việc ghi chép của nhiều Sứ quán đối với các hoạt động quân sự.
Một sự khôi hài là Jadid được cứu thoát bởi lòng hám tiền của một người Syrie khác, một người có tên là Haled, phó tuỳ viên quân sự tại Sứ quán ở London. Được Mossad tuyển mộ trong một sự việc trước kia, ông này đã bán cho Mossad mật mã của Đại sứ quán. Mật mã này được thay đổi hàng tháng. Người Israel, vì thế có thể mở được mật mã của tất cả các bức điện gửi đi hay nhận được của các Sứ quán Syrie trên khắp thế giới.
Một trong những bức điện này cho họ biết Jadid phải rời khỏi nhóm kiểm tra các tài khoản. Nhưng một bức điện khác, gửi từ Damas sang Beyrouth, cho hay quan chức Syrie này sẽ bị bắt vì đã đem hêrôin ra khỏi nước.
Người Israel phải báo trước cho Jadid. Chỉ 3 ngày trước dự kiến có cuộc bắt này, họ đã phái tới Syrie một chiến sỹ bằng cách đóng giả một người du lịch Anh. Từ căn phòng của mình ở khách sạn, người này điện thoại cho Jadid, nói một cách đơn giản với ông ta rằng có một sự phiền muộn mong rằng ông không cần phải chuyển hàng như đã thoả thuận, và hàng đó sẽ được chuyển giao sau khi ông tới Hà Lan.
Khi những kẻ buôn lậu tới chỗ hẹn, cảnh sát ở gần ngay sau đấy và tiến hành nhiều vụ bắt bớ. Ngay từ khi đó, những kẻ buôn lậu, bản thân họ cũng muốn bắt Jadid, mà họ nghĩ rằng là thủ phạm chỉ điểm họ.
Chính Jadid chẳng hề biết gì về những việc này. Khi ông ta tới Hà Lan, không một ai dám gặp gỡ ông. Ông điện vê Syrie để biết có việc gì xảy ra. Ngay lập tức, ông biết được Chính phủ nghi ông giống như những kẻ buôn lậu ma tuý, và rằng tốt hơn, ông ta không nên trở về Syrie. Sau khi đã bòn rút hết mọi tin tức khác mà ông ta nắm giữ - một số lượng đáng kể - Mossad đã tạo cho ông một căn cước khác và định cư ông ở châu Âu.
Đối với Haled, ở London, đây là một câu chuyện khác. Lúc ông đến, những người kiểm tra Đại sứ quán Syrie dưới “sự che giấu” (hoặc ỉm đi trong bóng tối - Black-out), điều mà nó cấm mọi sự thông tin với một Sứ quán khác. Giống như đại đa số các Sứ quán khác, lĩnh vực quân sự được tách khỏi những hoạt động ngoại giao. Với tư cách là phó tuỳ viên quân sự, Haled được quyền tiếp xúc ngân quỹ quân sự, và đã lợi dụng việc này để “vay” 15.000 đô la mua một chiếc xe mới. Haled dự tính sẽ trả lại khoản “vay” này với chiếc séc hàng tháng của Mossad và không ngờ tới một cuộc kiểm tra bất thần.
Thật may mắn cho Haled, Mossad đã biết có cuộc kiểm tra này. katsa của Mossad đã gọi điện thoại cho Haled qua đường dây cá nhân tới Đại sứ quán, sử dụng tên mật danh và thông điệp thông thường để xác định một điểm hẹn bí mật, trong một vài nhà hàng vào một giờ thoả thuận - người ta thay đổi điểm hẹn đều đặn để an ninh được tốt hơn. Haled phải chờ đợi khoảng 15 phút và nếu katsa của ông ta không xuất hiện, gọi một số điện thoại. Nếu người ta không trả lời, điều đó nghĩa là người katsa phải chuyển địa điểm hẹn tới một nơi đã xác định trước - hầu như tất cả đều ở nhà hàng. Nhưng nếu Haled bị theo dõi, hay vì một lý do khác nào đó phải tránh điểm hẹn, người katsa sẽ trả lời qua điện thoại và sẽ trao cho họ những chỉ thị.
Trong trường hợp, không có vấn đề gì với nhà hàng thứ nhất: Sỹ quan xử lý đã gặp Haled, báo trước cho Haled biết ngày mai có một nhóm thanh tra tới và người sỹ quan xử lý ra đi khi Haled đã bảo đảm với ông ta, không có bất kỳ lý do nào để lo lắng. Nhưng ít ra ông ta đã tin sự việc đó.
Một giờ sau, khi viên sỹ quan Israel trở về địa điểm bí mật, viết báo cáo, Haled gọi điện thoại khẩn cấp tới số điện thoại đặt trước. Ông ta không biết số điện thoại ấy là đường dây của Đại sứ quán Israel (mỗi Đại sứ quán có một số đường điện thoại không nêu trong danh bạ ). Haled chuyển một bức điện được mã hoá của loại “ Michael gọi Albert”. Khi một người nhận được một thông tin, người đó đưa ngay thông tin đó vào trong máy tính, và biết người Syrie yêu cầu khẩn cấp có một cuộc gặp. Haled, người có hàm đại tá, đã không bao giờ sử dụng thủ tục này từ ba năm mà ông ta xuất hiện trên những tờ giấy phát lương của Mossad. Theo những báo cáo về tâm lý mà Israel lập về ông ta, đó là một con người hoàn toàn bình thường. Sự việc xảy ra chứng tỏ có điều gì đó.
Biết katsa của Haled hiện còn ở chỗ bí mật, Mossad đã phái đến cho anh ta một Bodel. Sau khi biết chắc rằng người này không bị theo dõi, Bodel gọi điện thoại tới địa điểm bí mật và nói một vài lời như: “Mười lăm phút nữa, tôi gặp anh ở nhà Jack”. Nhà Jack, đơn giản chỉ là một trạm điện thoại đã được xác định trước chẳng hạn.
Viên katsa rời địa điểm bí mật ngay và sau khi đi một vòng kiểm tra thấy mình không bị theo dõi; anh ta đi tới trạm điện thoại gọi cho bodel, luôn luôn bằng mật danh, rằng Haled đã có hẹn với viên katsa trong cửa hàng ăn ấy.
Trong thời gian này, hai katsa khác của tổ chức ở tại Đại sứ quán đã lên đường, làm động tác đánh lạc hướng, rồi tới nhà hàng để bảo đảm chắc chắn là cửa hàng này “sạch sẽ”. Một người đi vào trong nhà hàng, người kia chốt tại một địa điểm thích hợp, mà viên katsa của Haled sẽ tìm gặp và giải thích cho người katsa kia biết điều gì đã xảy ra. Haled là người Syrie, và Mossad luôn luôn không biết điều gì không phù hợp, cuộc gặp được xem là nguy hiểm: Hơn một giờ, khi Haled đã gặp người katsa của ông ta, thì mọi việc đã đâu vào đấy.
Sau khi nói chuyện với một người gác ở bên ngoài, viên sỹ quan xử lý của Haled điện thoại tới nhà hàng, đề nghị nói chuyện với Haled - bằng cách giới thiệu tên mật danh của mình - và phái ông sang một nhà hàng ăn khác. Người Israel chốt ở bên trong kiểm tra thấy người Syrie này không gọi điện thoại trước khi tới một điểm hẹn bí mật khác.
Bình thường, những công việc loại này sẽ không được giao cho các katsa của tổ chức, nhưng vì là khẩn cấp, người ta đã sử dụng “hệ thống ăng ten” để thu xếp điểm hẹn bí mật, điều này đơn giản có nghĩa là người ta giao nhiệm vụ cho các sỹ quan xử lý của ăng ten.
Khi hai người kết thúc cuộc gặp gỡ, viên sỹ quan Syrie tái nhợt và run lên cầm cập.
— Có chuyện gì đấy? - Viên katsa hỏi - Người ta vừa gặp gỡ nhau rồi, mọi việc đều tốt cả.
— Tôi không biết phải làm gì, tôi không biết phải làm gì đây! Haled cứ lặp đi, lặp lại.
— Anh cứ bình tĩnh. Có vấn đề gì nào?
— Họ sẽ giết tôi. Tôi là một con người đã chết.
— Ai? Tại sao?
— Tôi phó mặc tính mạng tôi cho các ông. Các ông phải giúp tôi - Haled đòi hỏi.
— Chúng tôi sẽ giúp ông. Nhưng là vấn đề gì chứ?
— Vấn đề chiếc xe của tôi - tiền cho chiếc xe của tôi.
— Ông điên à? Ông điện cho tôi giữa đêm bởi vì ông muốn mua chiếc ô tô phải không?
— Không, không, tôi đã mua chiếc xe rồi!
— Vậy chiếc xe có vấn đề gì?
— Không có gì. Nhưng tôi lấy tiền trong quỹ của Sứ quán để mua xe. Các ông đã nói rằng họ sẽ kiểm tra các tài khoản. Sáng mai, khi tôi tới làm việc, họ sẽ giết chết tôi.
Haled trước đó nghĩ rằng không phải lo ngại bởi vì ông ta có một người bạn giàu có là người đã kéo ông khỏi vụ bê bối nhất thời. Viên sỹ quan Syrie dự tính vay tiền chỉ trong hai hay ba ngày, trong thời gian những người kiểm tra lưu lại. Sau khi họ đi, ông ta lại lấy tiền trong két đế trả lại cho người bạn, rồi sau đó sẽ trả dần món “nợ” với tiền lương của Mossad trả ông. Nhưng Haled biết rằng người bạn của ông ta đã đi khỏi London, không có khả năng để kiếm ra số tiền như vậy trong 24 giờ để bỏ vào két. Haled yêu cầu viên sỹ quan xử lý của mình ứng trước.
— Sáu tháng trước. Đó là tất cả những gi tôi yêu cầu.
— Được, chúng tôi sẽ lo liệu việc này. ông không phải lo lắng. Nhưng trước hết, tôi cần tham khảo một người đã.
Trước khi ra đi với Haled, viên katsa gọi điện thoại cho một người đồng nghiệp ở trạm điện thoại, đọc cho anh ta một bức điện được mã hoá có ý nói rằng ông ta cần phải nhanh chóng trở về một khách sạn gần bên và dành một phòng cho một người có tên như đã thoả thuận. Một khi đã ở trong buồng rồi, người Israel kia đưa Haled vào trong buồng tắm.
Trong thời gian đó, viên katsa gọi điện thoại cho người phụ trách ăng ten ở địa điểm bí mật, trình bày với ông ta những nét lớn và đề nghị 15.000 đô la tiền mặt, về nguyên tắc, với một khoản tiền lớn hơn 10.000 đô la, cần phải được sự chấp thuận của Tel Aviv, nhưng thấy vấn đề cấp bách, viên chỉ huy ăng ten đã tự mình quyết định chấp nhận, đưa ra điểm hẹn cho katsa một giờ rưỡi sau và nói thêm: “Coi chừng với cái mông của cậu đấy, nếu như công việc không tiến triển”. (Ý nói coi chừng bị đánh đít nếu công việc không tiến triển).
Viên chỉ huy biết một sayan, người, này nắm giữ một casino và lúc nào cũng có một khoản tiền mặt lớn - người ta đã nhờ tới sự giúp đỡ của ông ta và ngày mai, người ta sẽ hoàn trả. Người sayan đã giao cho ông ta thậm chí hơn 30.000 đô la đồng thời nói rằng:
— Có thể ông cần dùng đến số tiền này.
Sự tình cờ vào đúng lúc này, nhân vật số hai của ăng ten lại gặp một katsa tấn công có tên là Barda, tới London vì một sứ mệnh khác. Đóng giả một sỹ quan Scotland Yard, Barda đã tuyển mộ hai nhân viên gác đêm cho Sứ quán Syrie nhằm để chuẩn bị một công việc cần thiết xâm nhập vào toà nhà bằng việc bẻ khoá (hoặc đào ngạch).
Bây giờ những người Israel đã có tiền, vấn đề là chuyển nó vào trong két trước sáng ngày mai. Haled, người biết sự phối hợp này và có thể bịa ra một lời xin lỗi minh chứng cho sự có mặt của ông ở Đại sứ quán vào giữa đêm trong trường hợp mà ông ta có thể xảy ra bị bắt, và phải chịu trách nhiệm về nhiệm vụ này.
Về phần mình, Barda định địa điểm hẹn gặp với một người gác, rồi hẹn người gác kia ở trong những nhà hàng ăn khác nhau (mỗi một người trong họ đều nghĩ rằng người kia tiếp tục bảo đảm công việc của mình) để tạo con đường tự do cho Haled.
Khi quay về phòng khách sạn, viên katsa của Haled đã báo trước cho người điệp viên của mình rằng tiền không phải là một khoản ứng trước (người Israel đã nói là nếu họ trả tiền trước, thì ông ta sẽ không có lý do nữa) và rằng hàng nghìn đô la sẽ trừ dần vào tiền lương của ông ta trong thời gian 15 tháng.
— Nếu ông đem đến cho chúng tôi một cái gì đó đặc biệt, chúng tôi sẽ tăng gấp đôi lương cho ông để ông có thể bồi hoàn nhanh hơn - Viên sỹ quan xử lý nói - Nhưng nếu ông lại làm một việc gì phi pháp đối với Đại sứ quán, chúng tôi giết ông.
Qua vẻ ngoài, Haled đã hiểu lời đe dọa nghiêm túc bởi vì sau đó ông ta không bao giờ “vay” một xu nào nữa.