← Quay lại trang sách

Chương 5 Giúp Đỡ Arafat.

Năm 1981 là một năm rung chuyển. Đúng vào ngày ông Ronald Reagan tuyên thệ và trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, Iran đã giải thoát 52 con tin Mỹ sau 444 ngày bị bắt giữ. Ngày 30 tháng 3, John Hinkley đã bắn Reagan. Tại Ba Lan, Lech Walesa, người cầm đầu Công đoàn Đoàn kết, tiếp tục những yêu sách tự do đã mở cánh cửa cho những thay đổi vĩ đại cho Đông Âu vào cuối thập kỷ. Tại London, ngày 29 tháng 7, vào một buổi sáng rực rỡ, Hoàng tử Charles và cô Diana Spencer đã làm rạo rực con tim của những người mộng mơ và say đắm của Hoàng gia bằng việc cho phát lại trên tivi trên thế giới đám cưới của họ. Tại Tây Ban Nha, những kẻ khủng bố xứ Basque tung ra những trận đánh chống các nhà chức trách. Và tại Washington, Giám đốc CIA, William Casey, từ chức vì đã ủng hộ một âm mưu ám sát người hùng của Lybie, Muammar al- Kadhafi, và để tiến cử một gã cò mồi chính trị của ông, Max Hugel, viên phụ trách những hoạt động bí mật của CIA, mặc dù dường như không có những khả năng (thẩm quyền) cần thiết. Chính bản thân Hugel không thoải mái với việc ngày 14 tháng 7, khi hai công ty làm ăn cũ lên án ông về những trò xảo trá gian lận thị trường chứng khoán đã làm ông phải từ chức.

Tại Israel tình hình thật xáo động. Năm 1980, lạm phát đạt tới 200% và tiếp tục tăng lên nhanh đến nỗi người ta kể lại rằng có thể mua pho mát trắng với giá gấp 6 lần in trên gói và là pho mát còn tươi. Điều đó chính là lạm phát!

Thủ tướng Menahem Begin và đảng cầm quyền, Likoud, phải đương đầu với một cuộc phản công chính trị đáng gờm từ phía Shimon Perés và Đảng Lao động, tình hình càng phức tạp hơn lúc một trong các Bộ trưởng của Begin, Abou Hatsrea, đã thoả hiệp trong việc mua phiếu, bị bắt giam. Các cuộc bầu cử ngày 29 tháng 6 đã khai thông trong một trận đấu không có bàn thắng - 48 nghị sỹ ở khắp nơi - nhưng Begin đạt được sự ủng hộ của một vài đảng nhỏ bé để giành được đa số 61 ghế trong số 120 thành viên của Knesset (Quốc hội).

Một thời gian ngắn trước đó, ngày 7 tháng 6, Israel đã gây ra sự giận dữ của Hoa Kỳ bằng việc tấn công và phá huỷ nhà máy điện hạt nhân của Iraq xem (trong Phần mở đầu). Bằng cách tuyên bố cấm vận tạm thời đối với việc chuyển giao những máy bay F.16 cho Israel, người Mỹ thậm chí đã ủng hộ một nghị quyết của Liên hợp quốc lên án cuộc tập kích. Israel cũng đã tăng cường các cuộc tấn công của họ chống Lyban và trong những ngày cuối tháng 7, đã xuất hiện tham gia vào cuộc chiến tranh tổng lực chống Syrie. Đặc phái viên của Mỹ, Philip Habib, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có gốc Lyban, đã có một chuyến đi tới các Thủ đô ở Trung Đông để thương thuyết một thoả thuận về kế hoạch hoà bình. Robert McFarlane, cố vấn Bộ Ngoại giao đi gặp. Begin trong tháng 7, để thuyết phục dừng bộ máy chiến tranh của ông ta lại.

Với Mossad, tất cả những điều đó thật là tồi tệ. Duy chỉ có một điều mà Mossad không muốn, đó là nhìn thấy hoà bình rộ lên ở khắp nơi. Vì thế, Mossad đã triển khai khá nhiều hoạt động nhằm ngăn chặn những cuộc thương thuyết nghiêm chỉnh - một Cơ quan Tình báo là thí dụ mới của mối nguy hiểm; họ không cần thanh minh với bất kỳ người nào.

Đối với Yasser Arafat và PLO, năm 1981 cũng không phải là một năm yên bình nốt. Năm 1974, ông ta lên án những hành động khủng bố do tổ chức của mình phạm phải ở bên ngoài biên giới của Israel, chủ yếu là ở châu Âu. Và nếu chủ nghĩa khủng bố Palestine tiếp tục được dùng trên lục địa này, thì đó là công việc của một loạt các phe chống đối Arafat. Trên thực tế, ngoài những lãnh thổ bị chiếm đóng, Arafat không có một vị trí nào thực sự mạnh trong phong trào Palestine. Sức mạnh của ông bắt nguồn từ Cisjordanie và từ dải Gaza, nơi ông ta rất được lòng dân, ngoài những người thuần tuý theo Hồi giáo. Một trong những vấn đề lớn của Arafat là Tổ chức Tháng Sáu Đen (OJN), do Sabri Khlil al-Banna lãnh đạo - ông này được biết đến nhiều hơn với cái tên Abou Nidal. Những thành viên của Tháng Sáu Đen, những người Palestine theo Hồi giáo, cuồng nhiệt vì đạo. Điều này làm cho họ trở thành nguy hiểm hơn các phe khác. Tổ chức hầu như bị giải tán do một cuộc tấn công phối hợp của những người Syrie và những người Lyban theo Thiên Chúa giáo vào cuối những năm 1970, nhưng Nidal bị Arafat kết án tử hình lại trốn thoát. Tất cả những vụ ám sát của Palestine mà người ta gán cho Israel, đã được quy trách nhiệm cho Abou Nidal, người xem là tồi tệ nhất của khủng bố thế giới.

Đấy là vụ ám sát do OJN của Shlomo Argov, Đại sứ của Israel ở London, trong năm 1982, người đã dùng cái cớ đối với Israel để phát động một cuộc chiến tranh trên quy mô lớn chống Lyban. Begin gọi cuộc chiến tranh này là “Cuộc chiến tranh được lựa chọn” có nghĩa là qua đó, người Israel không bị dồn vào bước đường cùng - như đối với tất cả các cuộc chiến tranh trước đây - nhưng đó là việc lựa chọn. Sự lựa chọn có thể xấu, nhưng sự mị dân của Begin đã được dùng. Dù cho thế nào đi nữa, vụ mưu sát được gán cho Arafat, mặc dù không để làm gì - nó đã làm giảm tư thế Argov.

Trước vụ Argov, Israel đã bí mật thương lượng một cuộc ngừng bắn chính thức với PLO của Arafat để người Palestine chấm dứt việc bắn rốc két Katioucha do Nga chế tạo từ Nam Lyban vào Israel - thoả thuận phải làm ra vẻ như một quyết định đơn phương của PLO. Khi đó, Arafat đi thăm một số nước trong khối Đông Âu để yêu cầu có sự ủng hộ mạnh mẽ. Mossad biết rằng Arafat có ý định mua một khối lượng lớn vũ khí nhẹ ở châu Âu và gửi chúng sang Lyban. Câu hỏi đặt ra là: Vì sao? Bởi lẽ, cuối cùng thì chỉ cần ông ta tới Tiệp Khắc và nói rằng muốn có vũ khí là đủ. Người ta sẽ trả lời ông ta “hãy ký vào đây” và sẽ để ông thấy tất cả những thứ mà ông cần. Ông ta có vẻ như một người sống rất gần một vòi phun nước, nhưng lại đi bộ 5 km tìm nước ở nơi khác. Nếu giải thích rằng vì nước của vòi phun chảy ra là nước mặn, thì điều đó là phi lý.

Nước mặn của Arafat, đó là một lực lượng 20.000 chiến sỹ được huấn luyện tốt, gọi là Quân Giải phóng Palestine, hay viết tắt là ALP, do một viên tướng lữ đoàn Tarik Khadra chỉ huy. Năm 1983, viên tướng này dường như đã lên án Arafat và chính thức rút sự ủng hộ đối với ông này. ALP gắn bó với quân đội Syrie, điều đã được nói ra ngay trong Mossad là những người Syrie sẽ chiến đấu đánh Israel “đến người Palestine cuối cùng”.

Các nước khối phương Đông, luôn sẵn sàng cung ứng cho người Palestine về vũ khí, tuy nhiên qua các con đường chính thức; năm 1981, nếu Arafat yêu cầu vũ khí, các vũ khí đó sẽ được chuyển cho ALP.

Thế mà sau vụ tàn sát Munich, năm 1972, Arafat đã xây dựng một đơn vị đặc biệt bảo vệ riêng, ở Tổng hành dinh của PLO, tại Beyrouth, ông ta có thể để đơn vị này gắn với phòng tuyến 17. Từ đó, Lực lượng 17 là cái tên được gán cho quân đội, khi đó do Abou Tayeb chỉ huy và quân số thực sự của đạo quân này là từ 200 đến 600 chiến sỹ xuất sắc. Arafat cũng nhờ cậy rất nhiều vào Abou Zaim, người chỉ huy các Tổ chức an ninh và tình báo.

Đối với Mossad, người chơi quan trọng nhất của ván cờ được gọi là Dourak Kassim, thành viên của Lực lượng 17, người lái xe và là cận vệ của Arafat. Kassim được tuyển mộ làm điệp viên cho Mossad năm 1977, khi đó, anh ta đang theo học triết học tại Anh. Là một con người tham tiền, hám của, anh ta đã chuyển tin tức cho Israel hàng ngày, gửi các bức điện qua vô tuyến và lĩnh 2.000 đô la cho mỗi báo cáo. Trong thời gian ở trong trụ sở tại Beyrouth, anh ta ở bên cạnh Arafat, thông báo tin tức cho Mossad từ ngay Tổng hành dinh của PLO.

Kassim là người cộng sự gần gũi nhất của Arafat. Chính anh ta, theo một vài nguồn tin tình báo, là người đã cung cấp cho lãnh tụ Palestine những cậu con trai trẻ, đồng tính luyến ái trái với tín ngưỡng Hồi giáo, nhưng vì mốt sống của người Ả Rập, thì đồng tính luyến ái không phải là hiếm. Trong mọi trường hợp, ở phương Tây, đồng tính luyến ái không bị lên án một cách nghiệt ngã. Mossad không có một chứng cớ nào để làm chỗ dựa cho những lập luận theo đó Arafat yêu những cậu con trai vị thành niên. Không có được những tấm ảnh, chả có gì cả. Đấy chỉ có thể là một phương tiện thêm nữa để làm mất thanh danh của Arafat: Mossad đã sử dụng biện pháp này với nhiều người lãnh đạo của Ả Rập, lên án lối sống cao thượng bằng cách lợi dụng hệ thống này. Mossad không có thể nói về Arafat điều ấy, chừng nào ông vẫn đang sống một cách giản dị, tao nhã với nhân dân của mình. Khi đó, Arafat có rất nhiều cơ hội để thoát ra khỏi trụ sở ở Beyrouth, nhưng ông không đi, trước khi di tản hết những người Palestine khác, và Mossad vì thế cũng không thể lên án ông ta chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân của bản thân. Có thể nào Mossad lại sử dụng câu chuyện này mà không có điều kiện hơn nữa.

Vào giai đoạn này, trong khi cánh hữu của Mossad ca tụng việc ám sát Arafat, bằng cách viện lý rằng những người Palestine sẽ thay thế Arafat bằng một người cấp tiến hơn. Việc ám sát đó không được phương Tây cũng như cánh tả Israel chấp nhận, và nó sẽ ngăn cản một giải pháp hoà bình cho vấn đề. Những cuộc đụng độ dữ dội tiếp theo một sự đầu hàng vô điều kiện - đó là phương cách duy nhất mà Mossad dự kiến để đạt được hoà bình.

Những đối thủ của âm mưu ám sát Arafat tỏ cho thấy rằng ám sát là cách tốt nhất của một băng bẩn thỉu, và Arafat là một người có học thức, một sức mạnh thống nhất ở những người Palestine, một người mà nếu một ngày nào đó, có những nhà thương lượng, thì ông ta đại diện một cách hợp pháp cho những người Palestine. Thông qua những tin tức thu nhận được ở Israel, Mossad và Shaback biết rằng Arafat là người được kính trọng, và thậm chí được tôn sùng trong lãnh thổ bị chiếm đóng, nhưng các điệp viên của họ đã không chuyển những thông tin này tới những nhà chính trị cao cấp của họ.

Tháng 8 năm 1986, cuộc tranh luận này đã chấm dứt; cánh hữu đã thắng thế. Arafat luôn luôn trở thành một nhân vật quá nổi tiếng, và Mossad không có cớ gì đủ để thanh toán ông. Việc hành quyết ông tuy thế, vẫn tồn tại theo trình tự của ngày tháng. Một khi việc này có thể, Mossad sẽ chuyển sang hành động.

Một người đóng vai trò quan trọng nữa vào thời kỳ này, Moustapha Did Khalil, bí danh là Abou Taa, đứng đầu Bộ Chỉ huy của cuộc Đấu tranh vũ trang của Palestine (CLAP), nhóm phối hợp của Arafat. Trước kia nhóm này có tên là Hội đồng Phối hợp Palestine, nhưng sau khi Arafat bị lên án đã sử dụng bạo lực ở bên ngoài lãnh thổ Israel, một số lớn các tổ chức của PLO đã lấy những cái tên kêu hơn mà rỗng tuếch, mang tính tấn công hơn, để tránh mọi sự lên án là yếu kém.

Một nhóm khác, cần giữ lại trong tâm trí, Mặt trận Giải phóng Ả Rập (FLA), do Abd el-Wahab Kayyali chỉ huy. Tháng 12 năm 1981 người này đã bị giết ở Beyrouth và Rahim Ahmad đã lên thay thế.

Cho dù thế nào đi nữa, Arafat vẫn muốn có vũ khí nhẹ để trang bị cho Lực lượng 17. Những cuộc tranh giành quyền lực diễn ra ngay trong nội bộ tổ chức và Arafat cảm thấy cần có một “lực lượng tấn công.” Lực lượng này đối với ông có tính chất cá nhân. Nhưng khi ông ta chuyển yêu cầu tới Tổng Tham mưu trưởng quân đội ALP, yêu cầu này bị từ chối. Khadra trả lời với Arafat rằng đừng lo ngại, Khadra sẽ bảo vệ ông ta. Arafat rất lo lắng. Bởi vì chính Khadra kiểm soát các vũ khí do khối Cộng sản gửi cho PLO cũng như đối với tất cả các nhóm khác nhờ qua các nước Ả Rập như Iraq, Lybie nhận vũ khí từ phương Đông.

Ngày 17 tháng 1 năm 1981, Arafat gặp nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker tại Berlin. Nhà lãnh đạo Đông Đức đã cung cấp 50 “cố vấn” cho công việc huấn luyện của PLO tại Lyban. Ngày 26 tháng giêng, Arafat một lần nữa đã gặp các nhà lãnh đạo của Đông Đức, lần này tại Beyrouth, và một lần nữa yêu cầu vũ khí. Ông cố gắng đạt được một thoả thuận bí mật không qua Khadra. Nhờ vào các báo cáo của Kassim, Mossad biết được Arafat đang bận rộn với những vấn đề nội bộ và một cuộc tấn công của Israel có thể xảy ra.

Arafat muốn có những vũ khí nhẹ. Ông đến Tyr, ở Lyban để thảo luận với những nhà lãnh đạo của các tổ chức Palestine khác nhau, thuyết phục họ đừng cắn xé nhau và tập trung lực lượng của mình chống kẻ thù thực sự. Israel. Ngày 11 tháng 3, Arafat ngày càng bị thôi thúc, cố gắng giành được cam kết của các nước phương Đông, trước phiên họp toàn thể của PLO tại Damas vào ngày 15 tháng 4. Chỉ trong có một ngày, Arafat đã có những cuộc gặp riêng với các Đại sứ Hungari, Cu Ba, Bulgarie, nhưng tất cả đều không đạt được kết quả cụ thể.

Sự kích thích cũng đến với Mossad. Mossad dự đoán cuối cùng, Arafat sẽ có được vũ khí cho mình. Điều vạch ra cho Cơ quan Tình báo, đó là nhà lãnh đạo PLO đã bắt đầu nói rằng ông ta muốn một người tiếp xúc với các nhà ngoại giao Israel, trong tư cách tên ông để tổ chức những cuộc thương lượng nhằm chấm dứt thù địch với Lyban. Mossad đã được thông báo về sự kiện bí mật lớn lao này trước Chính phủ từ lâu, vì đó là một trường hợp có tính cách tổng quát.

Ngày 12 tháng 3, tại Beyrouth, Arafat gặp Naim Khader, đại diện của PLO ở Belgique, đề nghị ông này sử dụng các quan hệ của mình để gặp Bộ trưởng Ngoại giao Israel, nhằm mở các cuộc thương lượng và chấm dứt việc đổ máu. Mossad cực kỳ lo ngại về việc này. Mossad nghĩ, thực tế là, nếu họ thành công trong việc đưa Israel vào Lyban để giúp đỡ những người theo Thiên Chúa giáo, thì họ có thể loại trừ vĩnh viễn được những người Palestine trong nước này. Nhưng nếu PLO tổ chức được những cuộc thương lượng, thì khả năng này sẽ tiêu tan. Giữa Mossad và Bộ Ngoại giao Israel có một sự đối lập ngấm ngầm. Bộ Ngoại giao không biết rằng trong lúc người ta tính tránh một cuộc chiến tranh, Học viện lại nỗ lực tìm cách làm cho cuộc chiến nổ ra. Những người Palestine cố gắng thiết lập được những liên lạc với các nhà ngoại giao Israel; Mossad lại làm tất cả để ngăn chặn nó.

Vả lại, Mossad đã biết được ý đồ của Arafat nhờ cậy vào Genoud, một nhà làm ngân hàng ở Genève, 65 tuổi, ủng hộ tài chính cho Carlos. Ý tưởng của nhà lãnh đạo Palestine - thông qua Kassim lộ cho người Israel - là đạt được một khoản vay của Genoud để mua vũ khí ở Đức với sự hỗ trợ của một nhóm gọi là Khói Đen (Bloc Noir), phát triển từ phái Vũ trang Đỏ, là nhóm đã được các cố vấn Đông Đức huấn luyện tại Lyban trong tháng 4.

Không hài lòng với những tiến bộ mà đặc phái viên của Hoa Kỳ làm trong sứ mệnh hoà bình của ông, Mossad có ý nghĩ dị lụy tới CIA bằng cách tuyên bố rằng PLO, trên thực tế đang chuẩn bị chiến tranh, trong lúc miệng nói hoà bình. Học viện hi vọng là âm mưu này sẽ phá hỏng sáng kiến hoà bình hoặc ít ra cũng đưa nó tới chỗ bế tắc. Begin, khi đó đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử, không hay biết gì đến kế hoạch của Mossad. Cuộc hành quân quân sự được mệnh danh là “Những cây Thông tuyết của Lyban” (Cedres du Lyban) - và Cơ quan Tình báo Israel đã bắt đầu cung cấp các tin tức cho điệp viên Quan hệ của mình làm việc với CIA. Nhưng, ngày 30 tháng 3, vụ mưu sát Tống thống Reagan của John Hincley đã làm thay đổi ý định của CIA, và cuộc chơi này của chiến dịch đã trở thành lỗi thời.

Ngày 10 tháng 4, Arafat một lần nữa gặp Honecker ở Đông Berlin. Ngày hôm sau, ông ta có mặt tham dự kỳ họp thứ năm của Hội đồng Palestine ở Damas.

Ngày 15 tháng 5, Mossad đã liên lạc với đơn vị chống khủng bố của Đức GSG-9 (Grenzschutzgruppe), muốn họ cho biết rõ tin tức để có thể để sử dụng về sau.

Ngày 1 tháng 6, gần ba tháng sau cuộc họp với Arafat, Naim Khader gọi một cú điện thoại vào buổi sáng từ nhà mình cho một đại diện của Bộ Ngoại giao Israel ở Bruxelle để ấn định một cuộc gặp vào ngày 3 tháng 6 nhằm khai phá những khả năng tổ chức các cuộc thương thuyết hoà bình. Khi Khader đi đến nhiệm sở làm việc, một người da ngăm đen để râu lún phún, mặc một chiếc áo vét màu hạt dẻ sáng, đứng trên cao, bắn ông ta năm phát đạn vào ngực và một viên vào đầu, rồi người đó nhảy xuống hè đường, lên một chiếc taxi chạy qua và biết mất. Mặc dù khi đó Arafat không tin là Mossad tấn công.

Theo Kassim, ông ta đau khổ vì mất ngủ, bị mỏi mệt. Ông ta muốn được bảo vệ, đạt được một Hiệp định chuyển giao vũ khí cho Lực lượng 17.

Đầu tháng 7, tại Đức nổ ra hàng loạt cuộc biểu tình chống lại việc triển khai tên lửa của Mỹ tại nước này. Ngày 9, Arafat tới Belgrade, luôn luôn muốn có được vũ khí. Một thời gian ngắn của thời kỳ này, một máy bay Argentina từ Israel tới và vận chuyển vũ khí cho Iran đụng phải một máy bay Nga trong không phận Liên Xô. Giận dữ vì Israel bán vũ khí cho Iran, Mỹ đã cử Robert McFarlane gặp Begin, sáng kiến đánh dấu việc bắt đầu vụ Irangate, Vụ việc Iran- Contra bùng nổ vào giữa cái ngày trọng đại một vài năm sau đó (xem chương IX; phần 3).

Trong cùng thời gian ấy, người Syrie đã đưa tên lửa vào Lyban, tạo nên một cuộc khủng hoảng mới, và người hùng của Lyban, Béchir Gemayel, đã cảnh cáo Syrie rằng việc làm này sẽ gây ra một cuộc chiến tranh tổng lực. (Những người Syrie không ngừng đưa sự ủng hộ về quân sự của họ từ nhóm này cho đến nhóm khác với lý do mà họ gọi là “cân bằng của sự yếu kém”). Họ cho rằng: Nếu một trong các phe phái tăng cường lực lượng, thì cần ủng hộ nhóm kia đánh lại họ. Họ cũng giữ mỗi một phe phái trong tư thế yếu kém và kiểm soát tình hình.

Mossad luôn luôn cố gắng đánh lừa người Mỹ, và Itzhak Hofi, phụ trách Cơ quan Tình báo, ra lệnh cho LAP soạn thảo một kịch bản để thuyết phục họ là người Palestine đang chuẩn bị chiến tranh chứ không phải là hoà bình. Ông ta minh chứng cho người Hoa Kỳ thấy là Quân đội Israel đã tiến vào Nam Lyban.

LAP đưa ra những tấm ảnh của tất cả các kho vũ khí của Quân đội Palestine của tướng Khdra. Vì ALP là một đơn vị của quân đội Syrie, không có gì ngạc nhiên đối với việc đơn vị này có những kho vũ khí, nhưng điều này cung cấp một “chứng cứ” hữu ích là ALP đã chuẩn bị tấn công Israel, trong khi đó, Mossad biết những nỗ lực kiên trì của Arafat để tránh một cuộc chiến tranh.

ALP cũng đã thông báo cho CIA những tài liệu lấy được của PLO cho thấy hiện đang có những kế hoạch tấn công phía Bắc Israel. Một lần nữa, không có gì bất bình thường ở đó, không có gì cho thấy nhất thiết có một cuộc tấn công sắp xảy ra cả. Người ta tìm được những kế hoạch quân sự chi tiết loại này ở bất kỳ một căn cứ quân sự nào. Hiểu biết là nếu những kế hoạch ấy đã được thông qua, nếu PLO thực sự có ý định thực hiện các kế hoạch tấn công, thì đó là một việc khác. Nhưng Mossad sẵn sàng để cho những ý nghĩ đó làm trở ngại cho kế hoạch riêng của họ.

Ngay trước lúc bắt đầu của những sự kình địch, người ta đã chuẩn bị các thông cáo báo chí và ảnh. Tiếp đó, sẽ dễ dàng cho việc cung cấp tài liệu minh chứng sự “đe dọa” của Palestine đối với Israel.

Theo lời giáo huấn của Arafat, Abou Taam, viên chỉ huy nhóm phối hợp của ông ta, CLAP, cử hai người đến Francfort thương lượng mua vũ khí nhẹ. Người phụ trách sứ mạng này là viên sỹ quan Juad Ahmed Hamid Aloony, tốt nghiệp Trường Quân sự Alger năm 1969; đã theo một khoá huấn luyện ở Trung Quốc trong những năm 1978-1979, và đã tốt nghiệp Trường Quân sự Hungari năm 1980. Tháp tùng ông là viên hạ sỹ quan Abd Alrahaman Ahmed Hassim Alsharf, đã tốt nghiệp Trường Quân sự Cu Ba năm 1979 và cũng đã tốt nghiệp Trường Quân sự của Hunggari như Aloony.

Quan hệ giữa Mossad và cảnh sát của Liên bang Đức không được tốt. Nhưng GSG-9, do Israel huấn luyện, lại cho thấy rất hợp tác, như đơn vị đặc biệt chống khủng bố của cảnh sát ở Hambourg. Những người Israel đã giành cho đơn vị này một tên mật danh Tuganim, “Frites” (tiếng lóng của Pháp dùng để ám chỉ cảnh sát theo nghĩa xấu, “khoai tây rán”).

Những Tuganim cung cấp người cho Mossad, giống như là họ làm việc cho Mossad. Sau hết, Học viện đã đào tạo họ; thậm chí giúp họ thẩm vấn những người Ả Rập, Mossad dựng lên mọi việc ở Hambourg, những “Frites” cũng là những người hợp tác. về phía cảnh sát Liên bang, các báo cáo của người Israel với Cơ quan Tình báo Đức đều xoàng cả, nhưng mỗi một lãnh địa đều có cảnh sát riêng của họ và Mossad có những quan hệ trực tiếp với từng đơn vị riêng của họ.

Học viện, mặt khác biết rằng Arafat có ý đồ nhờ bác sỹ Isam Salem, người đại diện của PLO ở Đông Berline, để đạt được một số vốn cần thiết từ nhà ngân hàng người Thuỵ Sỹ Genoud để mua vũ khí nhẹ cho Lực lượng 17. Genoud đã được thông báo trước để sẵn sàng, trong trường hợp PLO cần tiền. Vũ khí là một mặt hàng “nóng”; không một ai muốn giữ chúng lâu, và thời hạn một khoản vay lớn thường là để đạt được một giao kèo.

Ngoài ra, Arafat đã quyết định đưa một số lượng quan trọng cần xa từ Lyban tới. Một nhóm thành viên của tổ chức Bloc Noir đã huấn luyện ở Lyban, trở về sẽ mang ma tuý và đưa đi bán giữa Châu Âu và trả lại tiền cho Isam Salem, ông này sẽ dùng tiền đó để trả mua vũ khí và hoàn lại cho Genoud nếu như thời hạn vay cần thiết. Arafat cũng đã dự định dùng các thành viên của Bloc Noir để chuyên trở vũ khí tới Lyban.

Các thông tin này đã về tới trụ sở Mossad qua Yahalomim (những kim cương), là Vụ coi sóc thông tin liên lạc với-các điệp viên. Một khi trong nước mục tiêu, một điệp viên không còn bị theo dõi bởi katsa của họ, thông tin liên lạc giữa điệp viên với Mossad được thực hiện qua trung gian của Tổng hành dinh ở Tel Aviv.

Có được những thông tin này, người phụ trách Mossad đã triệu tập một cuộc họp với các ông chủ của Tsomet, của Tevel và của các nghiệp vụ an ninh, để xác định một chiến lược. Họ theo đuổi bốn mục tiêu lớn: Ngăn chặn Arafat đi tìm kiếm vũ khí; phá vỡ trong trứng nước những ý đồ thương lượng giữa PLO và Bộ Ngoại giao Israel; đánh chiếm các tàu chở cần xa và bán đi lấy tiền mặt; chiếm lấy tiền của Genoud và để PLO treo đấy. Ngoài những lợi thế về chính trị và chiến lược hiển nhiên của công việc, thời kỳ này, Mossad đã có một vấn đề trầm trọng về tiền có thể sử dụng ngay được - như Nhà nước Israel - và Mossad luôn luôn đi tìm kiếm những nguồn thu nhập mới.

Để chuẩn bị cho vụ đánh cắp khổng lồ này, tháng 5 năm 1981, người ta cử một nhóm neviot đã thực hiện tìm một bến cảng và một khu nhà kho chứa hàng rất yên tĩnh. Một katsa của ăng ten London vội vàng tổ chức một trận được dàn dựng.

Trong cùng thời gian đó, người ta đặt một đội của Metsada bám Naim Khader, ở Bruxelles, để theo dõi về việc ông ta không mở các cuộc thương thuyết nghiêm chỉnh, ông ta phải bị giết. Đội này làm thế nào để thực hiện việc hành quyết đây? Người ta chỉ có thể đưa ra những giả thiết, nhưng kiểu của Mossad là: Đơn giản, nhanh chóng, ngay giữa ban ngày trên đường phố.

Người sát thủ dĩ nhiên mang một khẩu súng ngắn có chứa chín viên đạn, trong đó tám viên là dành cho mục tiêu. Ba người khác có lẽ đã dùng để đưa xác chết gắn với bất cứ một người nào định can dự vào.

Cái chết không chỉ những kẻ ngoại đạo mà cũng cả đối với Arafat và Bộ Ngoại giao có dính líu tới Abou Nidal. Hiển nhiên là một thời gian ngắn sau vụ ám sát Khder, các tin tức giới thiệu Nidal, xem như kẻ khủng bố nguy hiểm nhất và được nhiều người tìm đến nhất trên thế giới, đã xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tại Hambourg, năm thành viên của neviot được đặt dưới mệnh lệnh của Mousa M., một con người mới từ Shaback đến và tương đối mới ở Mossad. Họ tới ở một khách sạn sang trọng, Atlantic Hotel Kempinski, hướng về phía Alster.

Mousa say mê Hambourg, trước hết vì có những quan hệ làm ăn tốt mà họ duy trì được với cảnh sát và các Cơ quan Tình báo địa phương, sau đó là các khu phố nóng, nơi có tệ mại dâm diễn ra công khai. Việc đó, đương nhiên là diễn ra vào các buổi chiều tối. Ban ngày, đội này bận rộn trong các bến cảng của con sông phía Nam của Elbe, tìm kiếm những nhà kho để hàng âm thầm có đường vào dễ dàng, đều đó cho phép đội quan sát và chụp được ảnh mà không bị theo dõi.

Đó là một sứ mệnh tương đối phải lo lắng bởi vì Arafat vẫn chưa đạt được một thoả thuận về vũ khí, và Mousa, người không tự mình lui tới những cửa hàng giới thiệu khiêu dâm và những cô gái mại dâm, đã quyết định làm ra một chuyện tầm phào với một người trong số người của họ. Vì công việc còn chưa bắt đầu, những người này chưa làm theo APAM, một thủ tục thường lệ của an ninh. Mousa theo dõi một cách dễ dàng một người trong số họ tới tận quầy Bar của khách sạn, nơi người đó cần tìm lại một cô gái điếm cỡ lớn. Khi anh ta đi vào nhà vệ sinh, Mousa chụp ảnh cô gái, chỉ có mỗi cô ta ở quay bar, rồi ra đi. Tối hôm sau, cũng người này lại gặp cô gái điếm kia và một lần nữa lại qua đêm với cô ta. Sáng hôm sau, khi người đó đi tới phòng của Moussa ở khách sạn để họp, thì tất cả đội viên đã có mặt tại đó. Mọi người có vẻ lo lắng.

— Có việc gì xảy ra thế? - Mousa hỏi anh ta.

— Người ta có một lệnh khẩn cấp cần phong toả thành phố. Trụ sở thông báo cho chúng ta rằng, một điệp viên Xô viết giả danh một cô gái điếm đã thiết lập được liên lạc với một nhân viên của Mossad. Cần phải tìm ra người đó và thẩm vấn anh ta, trục xuất về Israel, và anh ta sẽ bị kết án là kẻ phản bội.

Mệt mỏi, đau khổ vì uống nhiều đến nhức đầu, người ấy tuy vậy, đã không có lấy bất cứ một lý do lo âu gì - ít nhất thì cũng là trước khi Mousa chưa phân phát những bức ảnh của người điệp viên Xô viết. Vẻ mặt tái mét, anh ta ấp úng:

— Tôi có thể nói chuyện với anh một chút được không, Mousa?

— Tất nhiên được, nhưng có vấn đề gì đấy?

— Ồ, chuyện cá nhân thôi.

— Anh có chắc chắn là cô ta không?

— Có, thế sao?

— Người ta đã gặp gã đó khi nào?

— Tuần này, tôi nghĩ vậy - Mousa trả lời - Nhiều lần.

Sau một vài phút, anh chàng đã thú nhận rằng chính anh là khách của cô gái điếm, nhưng khẳng định anh ta không trao cho cô ấy cái gì cả và cô ta cũng không yêu cầu cái gì. Anh chàng van nài Mousa hãy tin anh và giúp đỡ anh ta. Cuối cùng, Mousa ngước nhìn thẳng vào trong đôi mắt anh ta và cười phá lên.

Chính Mousa. Tạm thời có một con át chủ bài đang trong tay, còn những người khác hi vọng rằng việc đó không phải là trái táo của họ.

Đội đã kết thúc công việc, tìm được một nhà kho khả dĩ và Mousa đã báo trước cho một katsa ở London bằng cách nói rằng: “Anh hãy nhanh lên, tôi có thể muốn rút các chàng trai của tôi khỏi đây trước khi họ bị mắc bệnh tật!”.

Nhờ vào các quan hệ của mình với nhà tỷ phú Ả Rập Saudi Khashoggi (xem chương IX; phần 3), Mossad biết một người Ả Rập khác lo toan việc buôn bán vũ khí hợp pháp. Người này có quyền cung ứng vũ khí - Uzi, thị trường tư nhân châu Âu và các vũ khí khác. kế hoạch là giao phó cho bạn của Khashoggi cung cấp các vũ khí được sản xuất ở Hoa Kỳ để thoả mãn yêu cầu của Arafat. Đương nhiên, người ta dám chắc rằng, những vũ khí ấy bị đánh cắp trong nhiều kho của các căn cứ quân sự ở châu Âu.

katsa Daniel Aitan, đóng giả một anh Harry Stoler nào đó, bắt liên lạc với Isam Salem, đại diện của Arafat ở Đông Berline. Ngay cả Arafat còn chưa yêu cầu ông này đi tìm kiếm vũ khí, thì Mossad đã thấy mình không được chậm trễ làm việc này và đã quyết định làm những việc đó trước.

Aitan, một người nói tiếng Đức trực tiếp, tự giới thiệu với Salem là một nhà làm ăn hoạt động trong cái được gọi là “các thiết bị và vật liệu khác nhau”. Ông này nói với Salem: Ông có thể bảo đảm với giá hời và giao hàng an toàn, chắc chắn. Ông ta nói thêm là, ông ta phải tránh dính líu tới chính trị, ông ta xem sự nghiệp của những người Palestine là chính đáng và mong họ thắng lợi.

Trong cuộc gặp tiếp sau đó - cái mà người ta gọi là một cuộc họp thân mật “giữa bốn con mắt” - Stoler nêu lên rằng, thỉnh thoảng, ông có nghe nói đến ”thiết bị thất lạc” thoát ra từ các căn cứ quân sự Mỹ ở Đức và nói ông có thể đặt mua đối với các hàng loại này qua “cổng hậu” nếu Salem có quan tâm.

Trong thời gian này, Mossad bảo đảm với GSG-9 là Mossad có các nguồn về các thành viên của Bloc Noir; Mossad sẽ báo cho GSG-9 biết ở đâu và khi nào họ sẽ có thể bắt bọn đó với khá nhiều chứng cớ để đưa bọn này vào ngục tối.

Như dự kiến, Arafat đã chuyển yêu cầu của ông ta cho Salem bằng cách nhờ viên sỹ quan Aloony và viên hạ sỹ quan Alsharif, người của Abou Taan, đem yêu cầu đó tới Đông Berline. Họ đã trao cho Salem một danh sách đồ trang bị cần thiết cho Lực lượng 17 với trình tự tiến hành trong bối cảnh bí mật lớn nhất và tìm mua các trang bị từ phương Tây. Salem đã tiếp nhận để chỉ thị liên lạc với các bè bạn của phe Hồng Quân (Bloc Noir), hoặc bất kỳ một mối nào khác có thể chịu trách nhiệm làm việc này cho Arafat. Chúng tôi sẽ gửi “thuốc lá” có chất lượng hạng nhất. Loại này sẽ được sử dụng như việc thanh toán, nói rõ đơn đặt hàng. Có nhu cầu, chúng tôi sẽ ký hạn định vay nợ thông qua người trung gian Abou Taan.

Những người mang bức thư này là những nhân vật mới trên địa bàn. Vì thế, họ có thể được sử dụng làm những người trung gian và được đặt dưới sự chỉ huy của anh.

Đương nhiên, Salem gọi Daniel Aitan theo bí danh là Harry Stoler, xác đinh rõ là công việc phải được kết thúc một cách bí mật và nhanh chóng. Ông ta cũng nói thêm rằng ông sẽ gửi một ai đó (Aloony) với danh mục trang thiết bị đã yêu cầu và muốn biết thời gian để chuyển giao yêu cầu đó là bao lâu.

Kế hoạch của Mossad tới lúc đó là chiếm lấy tiền và cần xa của PLO một cách tinh tế, nhưng một nguồn mối của Kassim đã thông báo cho Mossad biết, Arafat đã có một kế hoạch thay thế.

Nhà lãnh đạo của Palestine đã giao phó cho Ghazi Hussein, người đại diện cho PLO ở Viên một đơn đặt hàng tương tự để phòng cho trường hợp khi kế hoạch của Salem không được thoả mãn. Do vậy, một đội khác của Mossad đã được phái tới Áo để theo dõi Hussein. Viên đối với Israel là một khu vực nhạy cảm bởi vì nước này đã tiếp nhận những người Do Thái di trú sang Israel. Quan hệ giữa Israel và Áo lúc này rất thân thiện. Nơi ấy, Mossad không có bất cứ người nào để nói với họ. Với đường lôi trung lập nghiêm túc, người Áo dường như không muốn có các tổ chức tình báo.

Cần xa mà những kẻ khủng bố của tổ chức Bloc Noir phải vận chuyển được đóng gói theo cách bình thường: Một loạt các ba lô ghi những dòng chữ “Các miếng lót đế giày”, bởi vì đó là những đế giày mà rất giống với ma tuý. Kế hoạch là vận chuyển hàng bằng tàu biển sang Hy Lạp, tại đây, Bloc Noir sẽ sử dụng mối quan hệ của họ với hải quan để đưa hàng lên các xe ô tô, mỗi xe 25 hoặc 30 kẻ khủng bố đem theo một số ba lô lên xe của họ trước khi ngược về phía Franfort.

Một người trong số họ chịu trách nhiệm bán cần sa và phối hợp với Salem. Nhưng GSG-9, đã được Mossad báo trước, chặn bắt họ với lời buộc tội về mọi hoạt động lật đổ nhằm vào các căn cứ quân sự Mỹ. Người Đức không biết là có hàng cần sa, nhưng khi người ta bị tống giam, người Đức cho phép người Israel hỏi cung. Một thành viên của Mossad nói tiếng Đức và đóng giả là một sỹ quan của Cơ quan Tình báo Đức để đạt được việc khui từ người tù ra tên nhân vật số 2 của nhóm bằng cách đưa ra với người này một giao kèo. Rồi người Israel thoả thuận với người Đức rằng người tù này sẽ được giữ bí mật cho tới khi sự việt được giải quyết.

— Tôi biết, cần phải giữ kín - Người của Mossad nói với tên khủng bố - Nếu anh không nói với tôi về người mà tôi cần tìm hỏi, anh sẽ sống cả cuộc đời anh ở đây (nhà tù), không phải vì tội có những hành động lật đổ các căn cứ quân sự Mỹ, mà vì tội buôn lậu cần sa.

Và với đơn đặt hàng trong tay, người Israel đi tìm anh bạn Ả Rập Khashoggi. Aloony, một nhà quân sự chuyên nghiệp, sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra các vũ khí và đảm bảo để vũ khí sẽ được chuyến đi Lyban.

Các vũ khí được đưa đến cảng Hambourg bằng các xe tải. Người Đức không biết, nhưng nếu những người Israel rơi vào trường hợp người Đức, họ sẽ đưa ra những giải thích.

Trong thời gian này, Stoler đã yêu cầu Salem có một bức điện gửi Beyrouth là nơi sẽ chuyển vũ khí tới. Đúng là để làm tỉ mỉ kịch bản này, vào thời điểm lúc ấy, Mossad không nghĩ rằng sự dàn dựng sẽ dẫn đến một việc giao hàng thật. Tuy nhiên Stoler đã khoe với Salem rằng hàng báo có lẽ cần có một vỏ bọc nào đó để qua mặt hải quan Lyban. Trong việc mua bán loại này, yêu cầu cần có những sự bố trí nào đó, đơn thuần chỉ để làm ra vẻ “hợp pháp”. Salem đã trả lời rằng ông ta có một người buôn bán nho khô ở Beyrouth, người này cũng có thể cung cấp cho họ một địa chỉ gửi hàng.

— Nho khô từ Đức tới ư? - Stoler nói - Cái này không phải là một ít như nhập khẩu strudel của Senegal à?

Không giống. Hình như người Đức nhập khẩu một số lượng lớn nho và các hoa quả khô, rồi sau đó xuất khẩu rẻ hơn Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.

Vì thế, Stoler đã đề nghị Salem có được một đơn đặt hàng “hợp pháp” cho ông ta về nho khô.

— Với cách đó, tôi mới có thể thúc đẩy sự việc tiến triển - Ông ta nói.

Mục tiêu là đề nghị Salem nhiều việc nhất để ông ấy không nghi ngờ về sự gian trá. Sau đó, Stoler nói rằng ông không có tàu, nhưng Salem trả lời điều này không thành vấn đề, vì hàng sẽ để trong conteneur, và đơn giản là bổ sung nó vào trong chiếc tàu hàng chở conteneur gửi đi Lyban.

Giữa lúc đó, một điệp viên Quan hệ của Mossad đã chuyển những thông tin của Tsomet cho một katsa khác vạch kế hoạch liên lạc nhân vật số hai của Bloc Noir. Người Israel này gặp kẻ khủng bố, nói với ông ta rằng bạn của ông bị bắt, nhờ ông ta chuyển bức thông điệp nhờ vào “những quan hệ” qua lại ở trong tù: Các kế hoạch đã thay đổi. Đáng lẽ bán cần sa, người ta sẽ đem đổi cần sa lấy vũ khí.

Ngày giờ đến gần. Mossad đã đặt hàng vũ khí và biết rằng Salem sẽ phải tìm kiếm tiền bằng Abou Taan bởi vì ông ta không thể trông chờ vào cần sa được nữa. Tuy nhiên người Palestine ấy không có lý do để lo lắng. Ông ta biết rằng ông ta có thể ký một hạn định vay nợ và nghĩ rằng có thể trả khi bán ma tuý. Mặt khác, người của Mossad hứa với người của Bloc Noir một vài tên lửa, bằng cách giao hàng tên lửa giả cho ông ta - những quả tên lửa bằng chất dẻo, giống y như tên lửa thật, nhưng những tên lửa ấy không phóng được bởi vì chả có gì ở bên trong cả.

Những miếng trò chơi ghép hình được xếp vào Hambourg và Francfort không có khó khăn, nhưng ở Viên, Ghazi Hussein tiếp tục đặt ra vấn đề. Tuy nhiên, nhờ vận may, ông ta điện thoại cho Salem khi nhận được yêu cầu đặt mua vũ khí. Mặc dù ông ta không bao giờ thú nhận việc ấy với Arafat, Hussein cho Salem biết Arafat không có bất kỳ một tiếp xúc nào trong lĩnh vực này và Salem đã tìm ra một người có thể giúp ông ta. Hai người biết rằng họ không có nhiệm vụ về vụ việc này bằng quan hệ, nhưng họ có thể đã làm được gì?

Tại Mossađ, những người chịu trách nhiệm về an ninh đang đau đầu tiến hành một chiến dịch đồ sộ chống lại PLO, quen với những trò nham hiểm của mình, và không có lấy bất kỳ một biện pháp an ninh nào được sử dụng! Nhưng ngoại trừ gặp gỡ các thành viên của PLO trong các quán cà phê, những nơi công cộng, và tránh bất kỳ một cuộc gặp gỡ nào trong các địa điểm kín đáo, các điệp viên Israel không làm việc gì lớn lao trong những hoàn cảnh này, nếu điều đó không bị quở trách, bị lên án là thiếu sự an toàn và báo trước cho biết rằng họ không xem mình là những người chịu trách nhiệm trong trường hợp khó khăn.

Đầu tháng 6, kế hoạch đã được hình thành. Cần có thời gian để thu lượm vũ khí, và trong khi chờ đợi họ đều trở nên bồn chồn. Cuối tháng 6, Hussein ở Viên và Salem ở Đông Berlin, cả hai người đã báo cho Arafat biết rằng đơn đặt hàng của họ đã được tiếp nhận và đã sẵn sàng trong hai hoặc ba tuần lễ nữa.

Về phần mình, viên sỹ quan Aloony bắt đầu thấy lo lắng về tiền bạc mà ông ta tính toán từ việc bán cần sa. Không có những tin tức về các “cuộc tiếp xúc”; ông ta không biết ai, cũng không biết họ ở đâu. Mối liên lạc duy nhất mà ông ta có, đó là địa chỉ và số điện thoại của một thành viên của Bloc Noir. Nhưng viên chỉ huy đang trong tù và nhân vật số hai, theo lời khuyên của một nhân viên Mossad nhờ qua một người bạn, đã nói với tất cả những kẻ khủng bố của nhóm, trong trường hợp khi đó, một ai đó sẽ báo cho biết là họ đã đổi cần sa lấy vũ khí. Trong trường hợp có vấn đề, hay nếu một người điện thoại cho họ, thì họ phải báo ngay lập tức.

Khi Aloony gọi điện thoại cho người ‘tiếp xúc” của mình, người ta đã trả lời rằng viên chỉ huy của Bloc Noir đang bị giam, nhưng một người khác lo công việc. Theo thoả thuận trước, người “tiếp xúc” của Aloony báo động ngay cho nhân vật số hai. Viên katsa của Mossad làm việc với người lái buôn vũ khí Ả Rập, thúc ép người này tìm kiếm hàng hoá một cách nhanh chóng, bởi vì có việc khẩn cấp.

Cú điện thoại của Aloony đã cho Mossad biết rằng người Palestine kia đã bắt đầu đặt vấn đề, nhưng việc đó không có gì trầm trọng, người ta đưa ra cho anh ta những câu trả lời do Học viện gợi ý. Người làm trung gian cho Mossad đã đảm bảo với Aloony rằng không có vấn đề gì và ông ta sẽ báo cho biết trước điều đó, ngay khi mà bản giao kèo sẽ được kết thúc. Ý thức được rằng loại bàn bạc này cần có thời gian, Aloony không quá lo lắng. Ông ta cũng biết là ở trong trại huấn luyện, PLO đã làm cho những người khủng bố Đức biết rằng, nếu họ phản bội, điều đó nghĩa là chết. Giống như người ta nói: Anh luôn luôn trốn tránh, thì anh sẽ không có một nơi nào để giấu mình.

Một nhân tố thuận lợi khác đối với người Israel là ngay cả đến những người đang đóng vai chơi của PLO không hề biết đến mức như Mossad biết về sự việc đang diễn ra. Chẳng hạn, ở Đông Berlin, Salem không biết là đơn đặt hàng đã được chuyển qua cho Hussein ở Viên, đã làm hai lần công việc của ông ta. Đơn đặt hàng đã được chuyển không phải do Abou Taan, người chăm lo cho Salem, mà do Abou Zaim, người chịu trách nhiệm công việc an ninh riêng của Arafat. Nếu như Salem biết vũ khí phải được trang bị cho Lực lượng 17, thì Hussein không có ý kiến gì về nơi gửi.

Điệp viên của Mossad ở Viên và Hussein đã dùng cách thức riêng của mình để thanh toán và giao hàng. Hussein biết một cách để chuyên chở vũ khí bằng máy bay của Lybie không bị hải quan kiểm soát. Ông ta không giải thích vì sao, mà chỉ nói một cách đơn giản là ông ta muốn tất cả vũ khí được để trong container rồi, sau đó, ông ta chịu trách nhiệm gửi đi Beyrouth. Kế hoạch là: Chuyển cho ông ta một vài vũ khí thật, nhưng tên lửa như để ở Hambourg và ở Francfort là các tên lửa giả.

Vấn đề chủ yếu là có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa Viên, Hambourg và Francfort. Một kẽ hở nào của một trong ba thành phố này, không chỉ làm hỏng toàn bộ kế hoạch mà còn tạo ra một tình hình cực kỳ nguy hiểm.

Tại Hambourg, hàng đã được để trong một kho mà nó không hề có sự khác biệt nào đối với các kho ở bên cạnh. Vũ khí phải được giấu trong một container nho khô, sau khi để cho Aloony và viên hạ sỹ quan Alsharif nhìn thấy. Sau đó, người ta gắn xi container và đóng cửa kho lại, trao chìa khoá cho Aloony rồi xác định điểm gặp vào ngày mai, cũng ở ngay nơi này. Container sẽ được bốc lên chiếc xe tải rồi chở ra tàu đi Beyrouth.

Sau khi đưa Aloony về nhà của ông, người điệp viên của Mossad quay trở lại kho, lấy khoá và biển số ghi ngoài cửa kho đặt vào nhà kho bên cạnh, mà hai kho giống nhau như hai anh em, ở trong kho này, có một Container khác đựng đầy nho khô kém phẩm chất. Và đó là thứ mà Aloony sẽ gửi đi cho Arafat.

Stoler (Aitan) đề nghị Aloony mang tiền theo ngay, bởi vì anh ta muốn có một vài giờ để cất giấu.

— Không có vấn đề gì - Người Palestine trả lời- Nhưng, tôi phải ngủ trong kho với nho khô.

— Đồng ý - Stoler nói - do đó, trái tim thiếu một tiếng đập.

— Ngày mai, vào lúc mười tám giờ, tôi sẽ đến đón anh.

— Anh đã nói là đón vào buổi sáng…

— Tôi biết, nhưng đi giữa thanh thiên bạch nhật cùng với vũ khí thì không phải là một ý tốt. Khu vực này quá đông người.

Có một vấn đề. Làm thế nào thực hiện việc thay container nếu như Aloony ngủ trong kho?

Trong thời gian này, các vũ khí do Hussein đặt hàng đã được xếp trong một ngôi nhà nhỏ nằm ở cửa ngõ Viên. Người katsa báo cho Hussein biết rằng, người phó của ông chịu trách nhiệm dàn xếp, bàn bạc và đã yêu cầu người người Palestine mang theo 3,7 triệu đô la, lẽ ra là tới điểm hẹn. Sau đó, người ta đưa cho ông địa chỉ và chìa khoá ngôi nhà. Trước đây, một trong những người của Hussein, bị bịt mắt, đưa tới ngôi nhà để kiểm tra hàng hoá. Sau đó, người này bị đóng cửa nhốt trong nhà, tiền sẽ được trao tay, Hussein sẽ nhận chìa khoá và địa chỉ. Người Palestine này đã đọc hết một cuốn truyện.

Ngày 27 tháng 7 năm 1981, tại Hambourg, Mossad đã luôn phải thảo luận vấn để Aloony. Vũ khí trước khi được xếp vào trong Container đã có ở trong kho. Một Container khác giống hệt được móc lên trên trần nhà, nhờ một chiếc cẩu ba lăng chạy trên đường ray mà người ta dùng cho những kiện hàng nặng. Tại Genève, Genoud đã cung cấp 5 triệu đô la cho việc dàn xếp từ Hambourg và 3 triệu 7 cho công việc dàn xếp ở Viên.

Vào lúc 18 giờ, ngày 28 tháng 7, một chiếc xe tới đón Aloony và đưa ông ta tới kho hàng. Ông này yêu cầu kiểm tra bất thần nhiều kiện vũ khí, rồi người ta xếp số vũ khí đó vào trong Container. Người ta lấy nho khô phủ lên vũ khí, gắn chì niêm phong container. Aloony sẵn sàng trao tiền, nhưng Stoler nói với ông rằng: Không phải ở đây. Đây quá đông người. Trong xe ô tô, người ta sẽ yên tâm hơn.

Khi họ vào trong xe rồi, Stoler cùng với Aloony tiến hành kiểm tra tiền: Nhờ có chiếc máy điện tử, Stoler kiếm tra một vài xấp, rồi xác nhận không có tiền giả. Cũng trong thời gian này, người ta hạ chiếc container treo trên trần xuống. Người ta nhấc chiếc container vũ khí đi và xếp nó vào tận cùng của kho, đằng sau những kiện hàng khác.

Việc thay đổi container chỉ diễn ra trong mười phút. Lúc quay về, Aloony nhìn thấy chiếc container vẫn là cái ông ta đã xem, cũng cùng dấu chì niêm phong. Sau khi kiểm tra cẩn thận nho khô của mình, hôm sau, Aloony lên đường đi Beyrouth.

Sau khi người Palestine ra đi, đội của Mossad quay trở lại nhà kho, dỡ vũ khí trong Container thứ nhất ra, chất lên một xe tải và chở đến cho nhà buôn. Còn nho khô thì được chuyển về Israel. Cũng trong đêm hôm đó, ở Franckurt, một thoả thuận về đổi cần sa lấy tên lửa cũng được ký kết và người Israel nói với những kẻ khủng bố của tổ chức Bloc Noir là ngày mai, toàn nhóm đến để nhận việc trao vũ khí. Ma tuý đã được trao cho một thành viên của nhóm F-7 Panama, một đơn vị đặc biệt do Harari thành lập. cần sa được chuyển đi Panama để đổi lấy một khoản tín dụng chừng 7 triệu đô la. Ý nghĩ là bán hàng trên thị trường này, thì giá cao hơn bán ở châu Âu. Một khi người Panama đã bán xong cần sa, họ sẽ gửi cho Mossad 7 triệu và giữ cho họ phần lãi mà họ làm được.

Ngày hôm sau, khi những thành viên của tổ chức Bloc Noir đến lấy tên lửa giả, cảnh sát đã chờ sẵn. Ngày hôm đó có khoảng 20 người bị bắt.

Cũng trong ngày 29 tháng 7, tại sân bay Viên, ba người sau khi đã chất một phần vũ khí lấy từ ngôi nhà ở vùng ngoại ô, thì bị cảnh sát địa phương bắt. Cảnh sát đã được Mossad báo là Hussein và những người phó của ông bốc vũ khí chở từ Lyban tới để bí mật đưa vào Áo tấn công một mục tiêu người Do Thái. Một khối lượng lớn vũ khí còn để trong nhà, đã bị Mossad lấy đi. Mossad để lại một vài vũ khí tại chỗ để cảnh sát lấy được; khi đó, cảnh sát sẽ xác nhận rằng Hussein đang tiếp tục tàng trữ vũ khí.

Mossad đã bỏ túi được tổng số là khoảng giữa 15 đến 20 triệu đô la. Khader đã chết. Hussein bị đi đầy; hai cộng sự của ông và chừng 20 tên khủng bố của tổ chức Bloc Noir bị tống giam.

Thắng lợi này đã tạo được một ảnh hưởng tuyệt diệu đối với tinh thần của Mossad. PLO không chỉ mất tất cả, mà còn nợ nhiều triệu cho nhà ngân hàng kia. Cú dàn dựng này làm cho Lực lượng 17 trong một thời gian không có vũ khí và đã giễu cợt người Palestine. Việc người ta đưa nho khô về Israel hiện còn là một câu chuyện thần bí.

Một kết thúc khác của câu chuyện này, là số phận người lái xe của Arafat, Dourak Kassim, một điệp viên của Mossad. Ông này đã cụt một chân trong cuộc tập kích của không quân Israel đánh vào một căn cứ của người Palestine ở Tunis. Kassim tiếp tục gửi các báo cáo của mình từ căn cứ này, nhưng lại không được thông báo về cuộc tấn công.

Vì tức giận, Kassim đã bỏ cả hai ông chủ và sang lập nghiệp ở Nam Mỹ.