← Quay lại trang sách

Chương Kết

Tháng một đã tới và mùa đông bất tận của cao nguyên bắt đầu kéo sang thời kỳ rét mướt nhất.

Vượt khỏi thị trấn Tân Cảnh chừng 7 cây số đường mòn, ngọn đồi Ngok-Loog phủ lớp áo cỏ tranh đơn sơ, khép nép vươn lên giữa rừng núi trùng điệp.

Rải rác quanh sườn đồi, vài chục túp lều tranh sơ sài, nằm run rẩy co ro. Vượt lên đỉnh đồi, chen giữa cỏ tranh, một chiếc hầm lửng, trên chất đầy bao cát, nằm trơ vơ dưới bầu trời luôn luôn nặng chĩu nước. Đó là hầm chỉ huy hành quân của một tiền đồn nằm đơn lẻ giữa rừng núi hoang vu, biệt lập với Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn và thị trấn, thường xuyên có một đại-đội-trừ luân phiên lên trấn giữ.

Ở đây, ngoài những binh sĩ trong đại đội, không còn một người nào lai vãng. Cứ mười ngày, nước mới được tiếp tế lên một lần. Cả tuần lễ, viên thượng sĩ thường vụ của đại đội mới dẫn một đội tuần tiễu đi chợ và ghé Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn nhận thư từ mệnh lệnh.

Chiều đã xuống đậm, mênh mang sương mù và khí độc. Từ mấy khuôn cửa hầm mở ra tứ phía những lớp cỏ tranh đang rạp xuống, như muốn nương dựa nhau để chống chỏi với những cơn vật vã của gió núi.

Trong căn hầm chỉ huy, viên Trung úy Đại đội phó đang ngồi bệt dưới sàn gỗ, dựa lưng vào vách hầm. Nơi chiếc ghế bố, viên hạ sỹ truyền tin đang nằm sấp lưng ngủ vùi. Bên cạnh, viên Thiếu úy Trung đội trưởng nằm trên một trong hai chiếc giường sắt kê cách nhau một bàn nhỏ, mặt phủ một tờ báo cũ mèm.

Căn hầm lặng lẽ một cách dị thường. Viên Đại đội phó ngồi duỗi chân, cứ chốc chốc lại kéo cao cổ áo, cố rùn thấp cổ xuống, như muốn chui hẳn đầu vào chiếc áo field jacket trốn lạnh.

Bỗng có tiếng chân nặng nhọc kéo lê trên miệng hầm, rồi một đôi giày nhà binh bết bùn, bước cao bước thấp xuống bực hầm. Một viên Thượng sỹ già xúng xính trong chiếc áo kapot dài đến mắc cá chân đi vào, dơ tay chào. Viên đại đội phó quay ra:

– Gì đó cụ. Yên chứ.

Viên Thượng sỹ già lôi trong bọc áo ra một xấp thư:

– Có xấp thư mới lấy ở Bộ Chỉ Huy. Trung úy duyệt qua để phát cho anh em.

– Ờ. Cụ quăng đó cho tôi.

Xấp thư được đặt trên bàn, nhưng viên Thượng sỹ già bỗng tần ngần:

– Có cả lá thư của Chuẩn úy Hồ trong này nữa, Trung úy.

Viên Trung úy đại đội phó gắt:

– Thư của thằng Hồ còn lấy lên làm mẹ gì. Bộ cụ muốn tôi phải vác xuống âm phủ cho nó nữa hả.

Viên Thiếu úy đang nằm dấu mặt dưới tờ báo bỗng hất tung tờ báo ra, bật dậy:

– Thư thằng Hồ hả. Đâu, cụ đưa tôi coi.

Viên Thượng sỹ già lật lật xấp thư, rút ra một lá thư dầy cộm đưa cho viên Thiếu úy. Lá thư được cầm lên, dơ ra dưới ánh sáng u ám của chiều đông hắt vào từ cửa sổ mở lên đỉnh đồi:

– A, thư của cô Mai.

– Mai nào? – Viên đại đội phó hỏi.

– Đoàn Thị Lĩnh Mai, cô hôn thê bé bỏng của thằng Hồ đây mà.

– Thằng chó đó có vị hôn thê rồi sao?

– Hắn cứ tâm sự với tao về cô bồ của hắn hoài. Nghe nói dễ thương lắm. Cô ta ở mãi tận Sài gòn.

– Thế à.

Viên Thiếu úy trung đội trưởng chợt lại hỏi:

– Mày quăng cái ví của thằng Hồ xó nào rồi? Thôi, cất lá thư cùng cái ví hôm nào gửi cho người nhà của nó.

Nhưng viên Trung úy đại đội phó bỗng đâm ra tò mò, quay lại bạn:

– Mày dở gối giường tao lấy cái ví của thằng Hồ đưa đây.

– Té ra tao đang nằm giường của mày à. Thế mà ông cứ yên trí giường ông. Đang định ngủ chứ. Đâu, coi nào.

Một chiếc ví cũ, quấn quanh bằng sợi dây đeo thẻ bài được lôi ra. Viên đại đội phó đứng dậy, phủi quần, ra dấu cho viên Thượng sỹ già ra ngoài, rồi tới giường, ngồi ghé bên bạn. Cái ví cũ được dở ra, hai người chăm chú nhìn vào chiếc ảnh một cô gái đang tươi cười. Viên Trung úy đại đội phó lại kéo cao cổ áo, rùn vai, rụt thấp đầu xuống như vừa bị thấm lạnh. Bóng chiều bên ngoài đang nuối, lá thư đã được bóc ra, chút ánh sáng le lói hắt vào từ cửa sổ dồn lên hết trang giấy đã che lấp chiếc bảng ghi tên trên ngực hai người.

Anh Hồ,

Thế là anh không về kịp được nữa. Bà Nội dã chết sau hôm em nhận được thư anh báo tin có lệnh cấm trại đặc biệt. Thế là hết, không còn cách gì để anh bay về được bên em trong phút giây đau khổ tột cùng đó. Bà đã chết, anh ơi. Thể xác bà mới còn nóng hổi đó, giờ này cũng đã cứng ngắt dưới đất đen rồi. Những trái cau của bà đã khô, trầu đã héo, và cả bình vôi mà anh với em đã lặn lội vào tận trong chợ Bến Thành mua cho bà ngày nào bây giờ cũng nằm lăn lóc, khô queo, cạnh hầm cát.

Như lá thư trước em đã viết cho anh, từ khi nghe tin em Hải bị đưa vào Nam, bà bị ám ảnh, rồi trong những lúc nằm một mình, trong giấc ngủ, bà luôn luôn tưởng tượng ra bao hình ảnh chết chóc, tàn sát, cảnh anh giết em, vợ giết chồng, con giết cha, và cơn bệnh của bà càng ngày càng trầm trọng cho đến lúc lịm đi.

Bà đã chết rồi, chết thật rồi. Anh Hồ ơi, mộ bà vừa đắp xong sáng nay, những nắm đất chính tay ông Nội, anh Đoàn, anh Lý, chú Vạn, cô Thoa, em và mọi người đã vùi xuống và lấp hẳn mất bà rồi. Không còn thấy mặt mũi, tay chân, không còn nhìn thấy nắp hòm. Và bây giờ, khi em ngồi viết thư này cho anh trên căn gác, anh Đoàn đã bỏ đi, cô Thoa đã dọn xuống chỗ nằm của bà Nội, ở dưới nhà, nơi mé chiếc hầm cát do chính bà Nội đòi xây và coi như cái miếu thần che chở cả nhà chống lại bom dạn, bàn thờ bà đã nghi ngút hương khói.

Hôm nay là đám ma bà Nội, em chỉ tiếc là không có anh ở bên cạnh. Anh Hồ ơi, đám ma nào cũng buồn nhưng cũng không biết sao đám ma của bà Nội em lại buồn đến thế, buồn chết lòng người sống, buồn tê điếng hết mọi nỗi ước ao. Giá mà có anh đi bên cạnh em, cùng quì với em bên nấm đất vĩnh cửu của bà để anh cùng em nắm miếng đất đôi xuống. Mọi người rồi ai cũng chết, phải vậy không anh. Nhưng sao mình vẫn không chịu được cái chết. Nhất là những cái chết của người thân mình, của ruột gan tim phổi mình. Anh biết trong đám tang có gì vừa đau xót mà cũng vừa khôi hài nhất không? Khi vừa hạ quan xong, cô Thoa, trong một phút hết sức đau khổ, hết sức điên loạn, cô đã lao cả người xuống dưới huyệt bất kể mọi người giữ lại, kéo cô lên. Cô khóc lóc, nói nhảm nhí đủ điều và kêu lên: “Mẹ ơi là mẹ, sao mẹ không đợi ngày Hòa Bình rồi chết. Để con lấy được chồng, con mời mẹ xơi miếng trầu”. Anh tưởng tượng nổi không hả anh. Lúc đó, chính em đang khóc, em cũng sững người, và thay vì có thể cười được, em đã thấy đau thắt tận tim gan. Có cái gì vừa tủi nhục, vừa bẽ bàng trong cảnh ế muộn của cô Thoa thấm qua người em, làm em thương xót người chết, thương xót cả kẻ còn sống nữa. Kẻ còn sống như chúng ta cũng đáng thương quá phải không anh?

Em vừa nói với anh là em mơ ước được anh cùng nắm đất đôi xuống lòng mộ bà Nội với em. Nhưng anh đã không có. Dù vậy, em vẫn vất cho anh một nắm đất. Vất dùm cho thầy mẹ em, các em em, cho họ hàng còn ở lại miền Bắc. Vất xuống. Anh Hồ ơi, đất đã lấp đầy, và cứ mỗi nắm đất vất xuống như thế lại bật trong đầu em một tiếng kêu thảm thiết. Kêu như tiếng còi những chuyến tàu hỏa của ông Nội em. Hòa bình trở lại sẽ làm gì? Một chuyến tàu lửa đi ra miền Bắc. Một nắm đất nữa. Tiếng kêu buồn tủi ế muộn của cô Thoa. Một nắm đất nữa. Nỗi khát khao tê dại của anh và em, chờ Hòa Bình trở lại.

Nắm đất cũng bật ra tiếng kêu của thày me em ngoài Bắc, đòi tìm thấy mặt mũi tay chân con cái. Tiếng kêu của anh Lý, làm sao cho cha mẹ ngoài miền Bắc biết là anh còn sống. Tiếng kêu của anh Đoàn, của chú Vạn, của Phước với đôi cánh máy bay bay bổng lên không. Hòa Bình trở lại sẽ làm gì? Chưa nhìn thấy, nhưng đất đã lấp đầy ngôi mộ bà Nội em với tiếng bà nói hồi nào: “Tao sẽ về với ông bây cùng chuyến tàu, sẽ qua mấy cái ga cũ…”

Thôi anh ạ. Thế cũng xong. Bà Nội đã chết thực rồi. Bà Nội chết, bà Nội đã mỏi mòn trông đợi ngày yên lành để được về Bắc chết, được chôn trong đất của tổ tiên. Không biết ông Nội em có còn sức chịu đựng được để mà chờ đợi thêm không? Thế hệ ông cha chúng ta có lẽ như thế là đã kiệt lực, không đủ sức chờ đợi thấy Hòa Bình nữa. Anh Hồ ơi, chúng ta có đủ can trường để chờ đợi không anh? Nhất định là đủ. Phải không anh. Nhất định Hòa Bình sẽ trở lại. Anh có tin thế không hở anh Hồ yêu quí của em. Anh có tin nỗi mơ ước của bà Nội, khi bà chết sẽ còn ở lại nuôi lớn thêm nỗi mơ ước trong lòng chúng ta, để sẽ có ngày tràn về, ùa khóc vì sung sướng, vì nhận thấy, vì bắt được Hòa Bình cầm chặt trong tay không? Nhất định phải tin anh ạ. Thế hệ chúng ta là phải tìm thấy Hòa Bình. Mình sẽ làm đám cưới, phải không anh? Mình sẽ làm đám cưới. Anh ơi, nỗi vui mừng muốn reo hò trong em rồi đây, nhưng em cũng vừa chợt nhớ ra rằng, sẽ buồn biết bao nhiêu khi không còn có bà để anh têm trầu. “Bao giờ con Mai nó cho bà ăn trầu đây nhỉ? Đợi đến ngày bình yên cho cháu tôi nó làm đám cưới, lấy chồng chứ?” Em sẽ mặc áo mới đi bên anh, nắng sẽ vàng tươi chứ không cổ quái như những ngọn nắng lạc giữa mùa đông, nơi ngọn đồi anh thường tả. Cô Thoa cũng sẽ mặc áo mới nữa. Cô Thoa rồi cũng sẽ có chồng nữa chứ? Hình như chiến tranh làm ngươi ta mau già hơn. Nhưng Hòa Bình trở lại, cô Thoa sẽ tươi tắn, xinh đẹp, sẽ bớt bốc đồng và có thể có một chiến sĩ trở về. Chiến sĩ già. Được chứ, tại sao không, phải không anh? Cô Thoa cũng sẽ dễ thương như mọi ngươi,

Không, em phải bàn đến đám cưới bọn mình trước đã. Sáng hôm nay em đã nghe tin ngưng oanh tạc Bắc Việt rồi. Một nhân nhượng, một thiện chí xuống thang chiến tranh để mở đường cho Hòa Bình. Vậy mà bà Nội chết. Bà Nội chết trước khi nghe tin đó. Nhưng cho tới hôm nay thì tình hình vẫn không sáng sủa gì, khi nơi trại anh Đoàn còn cấm trại, nơi em ở cái hầm cát chưa được bỏ đi. Không khí còn bị đè nặng bởi đe dọa, để em nhìn thấy đám cưới của chúng mình xa hơn. Nhưng phải tin, anh cứ cùng tin với em đi. Một mai, khi Hòa Bình trở lại, anh không cần cầm súng nữa, anh sẽ trở về và mình sẽ về Thủ Đức với mẹ. Sẽ biến ngôi vườn của mẹ thành một trang trại. Một trang trại nhỏ thôi, anh sẽ trồng rau, nuôi gà, và em sẽ trở thành một bà nội trợ thực thụ. Không cần làm gì hết, khi đó em chỉ cần nấu cho anh ăn những món Bắc. Những món ăn Bắc bà đã truyền lại cho em hết rồi, những bí quyết em đã thuộc làu. Nhưng không được đâu, anh Hồ ơi, anh cũng phải về Bắc nữa. Anh sinh trưởng ở miền Nam, lớn lên ở miền Nam, anh chưa biết quê hương em ra sao. Anh cũng vẫn thường nói với em là anh ao ước được trở về quê em, đem em về với mẹ em khi Hòa Bình trở lại. Anh sẽ đem em về với mẹ, anh nhé.

Còn bà Nội nữa chứ. Chúng mình sẽ đem bà Nội theo. Anh biết không, miền Bắc có lệ chôn ba năm cải táng. Ở miền Nam thì em không trông thấy tục lệ đó, nhưng bà người Bắc, chắc bà thích được đúng thủ tục miền Bắc hơn. Chúng mình sẽ cải táng bà Nội, sẽ đặt cốt bà trong cái tiểu sành như các cụ xưa vẫn làm, và đem về Bắc. Mình sẽ đi bằng xe hơi nhé anh. Vâng, lúc đó mình có trang trại, mình có xe hơi rồi. Em sẽ kể cho anh nghe chuyện Hà Nội, những kỷ niệm của bà Nội và những hình ảnh của ấu thơ. Anh chưa ra miền Bắc lần nào, hẳn anh sẽ thích thú lắm khi nhìn thấy quê hương của em. Chính em, em cũng chưa biết được nhiều, những hình ảnh trong thơ ấu bây giờ đã chìm vào dĩ vãng. Em cũng phải nhìn thấy lại nữa chứ.

Trời ơi, sao em run quá, em muốn chạy xuống nhìn ảnh bà Nội, nói chuyện với bà về những dự định của chúng mình. Mình đi xe hơi được chứ anh? À mà không anh ơi, mình phải đi bằng tàu hỏa như ông Nội vẫn mơ ước. Trời ơi, con tàu lắc lư, trên đó chở bao người về Bắc, bao nhiêu oan hồn vất vưởng đi theo trong bầu không khí rạn vỡ bởi tiếng máy, tiếng còi tàu, và ẩm ướt bởi muôn ngàn giọt lệ mừng tủi. Anh sẽ đứng với em ở một toa tàu, nhìn ra ngoài, mình sẽ qua bao nhiêu miền trên quê hương, mình sẽ nhìn thấy bao nhiêu vết thương được hàn gắn. Con đường sắt xuyên Việt làm lại cũng bằng ngang trên bao nhiêu xương máu, bao nhiêu hận thù để nối tình thương Nam Bắc, có phải không anh? Đi ra Bắc, đem bà Nội ra Bắc. Anh ơi, anh có khóc cùng với em không đó? Em khóc đây này. Trên chuyến tàu mình cũng sẽ khóc với nhau nữa. Anh Lý cũng sẽ đi với mình, qua bao nhiêu miền đất mến yêu, bao nhiêu nơi anh đã đặt chân đến với máu ngập mắt cá. Không, mình sẽ không nhắc lại dĩ vãng gì hết. Mình sẽ sặp em Hải, em Hải cũng phải trở về cho thầy mẹ trông thấy nữa chứ. Mình sẽ gặp em Mai. Em, anh sẽ thấy con Mai em cũng sung sướng, tươi cười, giống con Mai chị của anh vậy!

Anh biết không, khi đưa đám ma bà, trước khi quay về, ông Nội em đã khóc và khấn trước mộ bà em: “Bà ơi, bây giờ tùy bà, bà có đợi tôi về Bắc thì dợi, còn không, muôn ở lại đây với cháu hay về Bắc với con thì về”.

Lúc đó em với anh Đoàn đang đứng cạnh ông, em đang cầm một chéo áo ông, giải khăn sô em đội trên tóc, muốn bay theo gió, em lạnh cả xương sống và nổi gai ốc đầy mình. Ghê gớm lắm anh ạ, cảm giác đó thật là hiếm hoi trong da thịt mình, phải ghê gớm lắm, nó mói phát hiện được.

Bây giờ ngồi viết thư cho anh, cũng với cái khăn tang bao trùm trên tóc, em nghĩ rằng linh hồn bà Nội chưa trở về Bắc đâu, mà còn chờ em, chờ anh, chờ bao nhiêu người khác chết đi hoặc trở về nữa.

Nhưng rồi, em nhắc lại, Hòa bình sẽ trở lại, sớm hay muộn gì cũng có. Thế hệ chúng ta hay đến thế hệ con chúng ta. Nhất định phải có. Chúng ta sẽ trở về miền Bắc mang theo hài cốt người thân, hoặc chính hài cốt chúng mình cũng sẽ được về Bắc khi Hòa Bình trở lại.

Một mai, anh ơi, một mai khi Hòa Bình… Anh ơi, em đang khóc đây. Anh tưởng tượng em đang khóc trên vai anh. Anh hãy cùng khóc với em. Cùng khóc với em đi anh nhé. Chúng ta cùng khóc với nhau trên con tàu lắc lư đi ra Bắc, khóc với bao nhiêu oan hồn đang vất vưởng đi theo…

Đêm nay, em khóc, ông Nội em khóc, cô Thoa em khóc bên chiếc hầm cát, anh Đoàn khóc bà Nội nơi trại nhập ngũ. Anh Lý khóc lẻ loi trong Trung tâm Chiêu hồi. Và anh khóc cho bà Nội em trên ngọn đồi heo hút của anh. Chúng ta, mỗi người khóc cho kẻ chết và khóc cho người sống, khóc cho nỗi chờ đợi…

Em đã viết lung tung quá, nhưng lưng tung thì cũng đã thành một lá thư. Anh giữ luôn lá thư này cho em, để một mai, khi Hòa Bình trở lại, mình gói xương cốt bà Nội mang theo ra Bắc luôn anh nhé. Có lẽ em ngất mất. Anh nhớ đỡ em nhé. Em ngã vào tay anh đây này. Em yêu anh mãi. Sống với anh mãi. Em.

Viên Trung úy Đại đội phó đưa lá thư lên soi nơi cửa sổ, nhìn nét chữ ký ẻo lả bị nhòe nhoẹt như bởi giọt nước mắt của người viết, rồi nói với viên Thiếu úy trung đội trưởng:

– Mày biết đoán chữ ký, coi chữ ký cô này có tướng chết non không mày?

– Theo kinh nghiệm thì chữ ký mềm mại như thế này là người có nhiều tình cảm, dễ chết non, nhưng xem hình thì thấy tướng mạo tươi tắn lắm mà. Tao cũng không biết nữa.

– Cho tao điếu thuổc.

Bao thuốc được quăng tới trước. Viên trung úy chụp lấy rút một điếu. Hắn với tay:

– Cái Zippo của tao đâu rồi?

– Mất mẹ nó rồi, diêm đây này.

Que diêm được bật lên, soi rõ mặt viên Trung úy đang cúi xuống mồi lửa. Rồi tiện tay, hắn đưa luôn lá thư vào que diêm còn cháy dở, nói:

– Thôi để tao gửi luôn lá thư này xuống âm phủ cho thằng Hồ…

Một cái nhấp nháy, ánh sáng của ngày còn leo lét trên cửa sổ vụt tắt. Chiều đang tan trong sương mờ dày đặc ngoài đồi núi trùng điệp và bóng tối đã tràn ngập căn hầm.

Giữa bóng tối lạnh lẽo của mùa đông và của cuộc chiến tranh bất tận, một ngọn lửa bùng cháy…

NHÃ CA

11-1968