← Quay lại trang sách

Biển Baltic, ngày...

Biển Baltic, ngày...

Những ngày này, tôi đã hoàn toàn mất cảm giác về thời gian. Tôi không còn nhớ hôm nay là thứ Hai, thứ Ba hay thứ Tư. Ngay cả cảm giác về những nơi chốn cũng trở nên nhạt nhòa; những địa danh chỉ giống như những hình ảnh nhòe trong một cuộn phim chụp hỏng.

Hôm trước, ở nhà ga trung tâm khổng lồ của Berlin, nhìn những tàu con thoi tốc độ chạy xuyên quốc gia và tầng tầng bến tàu đổ đi các hướng, tôi còn có cảm giác như mình lạc vào một bộ phim khoa học viễn tưởng và sẽ không ngạc nhiên nếu thấy những chiếc ô tô vun vút hạ từ trên trời xuống và Skywalker bước ra. Cũng ở Berlin, khi xuống khỏi bến tàu điện ở khu trung tâm, tôi tưởng như mình đang ở trên Đại lộ Michigan ở Chicago bởi vì kiến trúc của các tòa nhà vừa cửa hiệu ở đây giống hệt Magnificient Mile [12] của Chicago: cũng Chanel, H&M, Niketown, Salvatore Ferragamo, McDonald, và cả Dunkin Donuts. Nhưng chỉ đi ngược một đoạn ra tàn tích của bức tường Berlin, trả mấy euro để chụp một tấm ảnh lưu niệm với hai người mặc đồng phục Hồng quân Liên Xô và Đức Quốc xã, tôi lại tưởng như mình đang sống trong Thế Chiến II hay Chiến tranh Lạnh. Hay hôm nay, ở Copenhagen, khi bước trên những đường phố nhỏ gần nhà An- đéc- xen, tôi ngỡ có thể thấy ông từ đâu đó đi ngược lại phía tôi, cao, gầy, đầu đội mũ, tay chống một chiếc ba toong đen.

[12] Đoạn phố Chicago trong khu trung tâm, toàn các cửa hàng hào nhoáng.

Copenhagen nhỏ, hiền hòa. Xe đạp ở khắp nơi. Những ngôi nhà và những con đường đầy cây, gợi cảm giác chúng đã ở đó từ thế kỉ XIV, XV, và sẽ vẫn ở đó rất lâu, ngay cả khi phần còn lại của thế giới được số hóa và ảo hóa. Ngay cả khu bến tàu bận rộn nhất của thành phố cũng có một vẻ hiền hòa, nhàn tản, khiến cho tôi nghĩ đến những cảng cá luôn thổi một thứ “gió sầu phương Bắc” ru thành phố ngủ mà An-đéc-xen đã nhắc đến.

Copenhagen thực sự rất chậm và có thể làm nản lòng những người muốn tìm kiếm giải trí. Đây là một thành phố hoặc sẽ bị coi là nhạt nhòa và điển hình của sự già cỗi châu Âu hoặc một thành phố dường như đang điềm tĩnh cưỡng lại sự toàn cầu hóa bằng một ý thức sâu sắc về sự trụy lạc và tự diệt vong trá hình dưới cái vỏ “hiện đại hóa”. Copenhagen vẫn còn đầy bóng dáng của sự cổ điển.

Ở Copenhagen cũng như ở Berlin, ở Rome những ngày này, cảm giác nổi trội nhất trong tôi chỉ là cảm giác về sự di chuyển: tôi chỉ đang trôi từ nơi này tới nơi khác trong một thế giới đã hóa lỏng.

Nhưng vào lúc hoàng hôn ngày hôm nay, khi vượt qua biển Baltic trên chiếc tàu phà khổng lồ Seandlines để trở lại Rostock từ Copenhagen, nhìn những con sóng bị mũi tàu đánh tơi thành những đám bọt trắng trong lúc con tàu tiến nhanh về phía Nam, ngay cả cảm giác di chuyển cũng dừng lại. Tất cả những gì tôi cảm thấy chỉ là một sự bình yên được bỏ neo sâu và chắc chắn bên trong - ở nơi nào thì tôi không biết. Cái khối bình thản ấy không chứa trong nó bất cứ ý nghĩ cụ thể nào nhưng nó làm nước mắt tôi dâng lên. Tôi cứ đứng ngoài boong tàu ngắm mặt trời lặn trong lúc mọi người đã vào cả trong khoang để tránh gió.

8:00: Mặt trời đang xuống nhanh. Ánh nắng chỉ còn có ở góc xa của mặt biển, hắt chéo lên những cột buồm cao của những con tàu lớn đứng rải rác trên mặt nước. Mặt biển chìm trong bóng râm. Nước có một màu thép non hiền lành ở bên trên nhưng hứa hẹn những vực tối bên dưới.

8:03: Mặt trời chuẩn bị chạm vào mặt nước. Trông như một quả cầu lửa chuẩn bị được nhúng xuống một chảo nước khổng lồ.

8:09: Một nửa mặt trời đã chìm xuống nước và đang chìm rất nhanh.

8:11: Khoảng 4/5 mặt trời đã biến mất

8”12: Tất cả quả cầu đã biến mất. Chỉ còn một quầng sáng màu lửa dội lại từ chỗ mặt trời lặn xuống. Mặt biển đã chuyển sang màu xám thẫm, có lẫn màu xanh đen.

Hôm kia, tôi cũng đã nhìn thấy một hoàng hôn tương tự bên bờ biển Rostock. Lúc ấy, chúng tôi đã từ lễ nhập học về và vào ăn tối ở một nhà hàng Việt Nam. Tôi ăn xong trước mọi người nên ra ngoài đi dạo bên bờ nước. Mặt trời lúc đó đã lặn nhưng mặt nước ở phía xa vẫn có màu lửa tối trong khi ở phía này đã chuyển màu xanh đen.Những cây sậy ở mép nước chỉ còn là những bóng đen phơ phất trên nền trời và từ chỗ tôi ngồi, tất cả khung cảnh này làm tôi nghĩ tới những bức tranh của Monet.Tôi đang ngồi trên một cái trụ gỗ thấp mà người ta dùng để buộc thuyền vào bến. Một còn vịt trời bay ngang qua mặt nước, cánh của nó chạm khẽ vào chỗ này, chỗ kia, tạo nên những vòng sóng tròn nhỏ trên mặt nước hoàn toàn tính lặng. Dọc vỉa hè, rất nhiều người ngồi yên ngắm mặt trời lặn. Một người đàn ông, chắc cũng là khách du lịch, hỏi tôi:

“Cô từ đâu tới?”

“Chiacago,” tôi đáp.

Tôi nói xong thì mới nghĩ ra câu trả lời thực ra không chính xác.Tôi đang sống ở New Hampshire chứ không phải Chicago; thực tế từ mấy năm nay tôi đã không sống ở Chicago thường xuyên. Nhưng tại sao, khi nghĩ đến “nhà”, tôi vẫn cứ nghĩ đến Chicago. Có thể là vì những ngày ở Chicago là khoảng thời gian chỉ có đọc, lên lớp, viết, và đắm chìm trong thế giới tri thức và vì thế mà tôi thường trực có cảm giác “neo đậu”. Hay vì đấy là nơi cuối cùng mà tôi sống cuộc sống độc thân, trước khi tôi hiểu ra rằng cái cô đơn có thể có trong quan hệ với người khác – nhất là với những người mà mình coi là quan trọng nhất trong cuộc đời mình - còn thấm thía hơn nhiều trạng thái một mình?

Con tàu lúc này đang tiến nhanh về bến và gió thổi lạnh hơn. Trên khoang tàu không còn bóng người nhưng tôi vẫn sẽ đứng đây để lấy cảm giác này.

☆☆☆

Berlin, ngày…

Oma trong tiếng Đức có nghĩa là “bà”. Oma Marta là người quen của gia đình chồng tôi; hồi Sơn còn làm việc ở Đức, anh đã sống với oma Marta một thời gian.

Bây giờ là 8 giờ 57 phút sáng. Phòng khách của oma Marta lúc này không một tiếng động và được thắp sáng bởi một ngọn đèn bàn nhỏ. Tuy thế, ngoài vườn có nắng; có thể nhìn xuyên qua rèm cửa sổ để thấy những cây phong đầy lá và hàng rào dài bằng những bụi gai. Không nghe thấy gì nhưng tôi mường tượng được tiếng xào xạc của lá phong trong gió. Hôm nay là đầu tháng Chín, tức là bắt đầu mùa thu rồi. Tôi nhớ đến Omaha và những sáng mùa thu khi tôi mới đến Mỹ; đã tám năm. Trời cũng nắng nhạt như thế này, nhiều gió như thế này; ngày nào tôi cũng dậy sớm, đi xuyên qua công viên đầy những cây phong xào xạc trong gió khô, luôn luôn trong tình trạng lâng lâng vì cái quang cảnh như trong truyện cổ tích: những thảm cỏ xanh tỉa gọn ghẽ, những luống hoa cúc đủ màu trồng theo mùa, những con quạ đen chí chóe và lũ sóc với thỏ chạy đầy trong công viên.

Oma Marta đã dậy từ sớm và lúc này đang làm gì đó trong vườn. Gần 7 giờ sáng, khi tôi dậy đi toilet đã thấy oma dậy rồi. Nghe tiếng tôi, bà từ ngoài vườn đi vào hỏi tôi có uống cà phê không. Bà nói tiếng Đức, tôi không hiểu một từ tiếng Đức nào nhưng bà chỉ vào lọ cà phê cho tôi. Tôi cảm ơn bà và nói rằng tôi muốn ngủ thêm – bằng cách đặt hai bàn tay xuống dưới đầu và nghiêng đầu nhắm mắt. Oma Marta hiểu ra. Bà đi vào trong phòng khách kéo rèm cửa xuống cho tôi vì từ lúc 7 giờ sáng, rèm cửa tự động được kéo lên. Sau đó, bà ra ngoài, đóng cửa phòng lại và bây giờ chắc đang làm gì đó trong vườn hoặc ngồi sưởi nắng trên xích đu trước hiên nhà với con chó Andrew. Vài phút nữa tôi sẽ ra xem oma đang làm gì và chúng tôi sẽ uống trà. Nhưng bây giờ thì chưa. Bây giờ, tôi nằm trên sofa viết những dòng này bởi vì it feels so damn good . Tôi muốn cố gắng sống trong giây phút này càng lâu càng tốt.

Một ý nghĩ vừa khiến tôi ngồi hẳn dậy để viết. Cái ý nghĩ đó là thế này: giao tiếp không lời. Oma Marta không biết tiếng Anh và tôi không biết tiếng Đức; tất cả những gì chúng tôi có chỉ là rất nhiều cử chỉ và những nụ cười. Đôi khi, tôi phá ra cười vì tình trạng kì cục của hai chúng tôi: Oma đã ngoài tám mươi nên thường xuyên quên rằng tôi không nói tiếng Đức, vậy là oma cứ nói một tràng dài gì đó, khuôn mặt rất hào hứng chờ tôi trả lời, còn tôi thì hoàn toàn không hiểu; vậy là tôi phải nói lại gì đó bằng tiếng Anh để có thể đoán… và khi những nỗ lực phỏng đoán của chúng tôi đều thất bại thì tôi phá ra cười.

Ý nghĩ thứ hai khiến tôi ngồi dậy viết những dòng này cũng liên quan đến giao tiếp và ngôn ngữ. Cho đến nay, sau gần mười ngày ở châu Âu, có lẽ những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong chuyến đi này lại là những khoảng lặng yên. Tôi chắc sẽ cần phải xem lại ảnh và tra cứu sách mới nhớ ra các dữ kiện về các công trình kiến trúc ở Rome, ở Berlin, ở Copenhagen, nhưng tôi chẳng cần bất cứ phương tiện trung gian nào để nhớ lại lúc tôi nằm trên bờ bồn nước lớn ở khu trung tâm Đông Berlin cũ, nhìn trời và thỉnh thoảng liếc trộm một đôi tình nhân đang hôn nhau say sưa. Lúc ấy, tôi thấy hạnh phúc cho họ và hạnh phúc cho cả thế giới nữa. Cứ như thể cả vũ trụ đang mỉm cười (giống tôi) khi thấy đôi tình nhân trẻ hôn nhau. Hay như lúc tôi ngắm mặt trời lặn trên biển Baltic từ trong khoang tàu Scandlines từ Copenhagen trở lại Đức. Và như lúc này… trong phòng khách của oma Marta, nhìn ra khu vườn đầy lá của bà, nghe nhạc một chút trước khi trở dậy ra sân bay đi Paris.

Tối hôm đó, khi tôi từ Rostock lên, đã muộn rồi nhưng oma vẫn làm salad cho tôi ăn tối. Bà làm rất nhanh; chỉ có hành tây và đỗ đũa xanh đóng hộp trộn với dầu ăn, một chút muối, một chút hạt tiêu và gia vị gì đó – nhưng rất ngon. Sau khi ăn xong, bà chỉ lên đồng hồ và xòe ngón tay đếm bằng tiếng Đức, rồi nói “taxi” và “Schonefeld”. Ý bà nhắc tôi là 11 giờ sáng mai, taxi sẽ đến đưa tôi ra sân bay Schonefeld đi Paris. Paris! Phải rồi, 8 giờ tối nay tôi sẽ có mặt ở Paris rồi. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài xem oma đang làm gì.

10:45 sáng: Vừa ăn sáng với oma. Tôi không muốn ăn sáng và tôi nhắc đi nhắc lại “No, no”, đồng thời lắc đầu để oma hiểu… nhưng bà lấy hết thứ này đến thứ khác khỏi tủ lạnh và liên tục nói tiếng Đức với tôi với một vẻ mặt vô cùng hớn hở vì sẽ được cho tôi ăn. Bà bày ra ba loại salami khác nhau, thịt lợn xông khói, mứt quả, rồi bơ, bánh mỳ, nước quả… Khi tôi nhận ra rằng đồng ý ăn sáng còn dễ hơn là giải thích với oma rằng tôi không muốn ăn, và việc tôi ăn sáng sẽ làm oma vui lòng hơn nhiều lần sự lười biếng của tôi. Tôi cười, nói “yes, yes, yes” với tất cả những thứ oma đưa cho tôi xem. Rốt cuộc, trên khay ăn sáng của tôi có đủ bà loại Salami, thịt nguội, mứt, bơ, hai lát bánh mỳ nướng và sữa. Tôi mang khay ra ngoài phòng sưởi nắng ngồi ăn. Còn oma, sau khi thuyết phục được tôi ăn sáng thì vô cùng mãn nguyện đi ra ngoài vườn; bà không quên khép cửa lại. Mấy phút sau, tôi nghe có tiếng động khe khẽ. Hóa ra oma đang cắt cỏ.

Bà di chuyển chậm chạp; cổ tay buộc một dải băng, hình như cổ tay bà bị sưng. Tôi đi lại gần, nói với oma để tôi cắt giùm bà – bằng cách chỉ vào tôi, rồi chỉ vào máy cắt cỏ và ra hiệu đẩy đẩy. Nhưng oma cười, lắc đầu, chỉ xuống cỏ, rồi xuống chân và ống quần, rồi đẩy tôi vào trong nhà. Ý oma nói cỏ ướt, tôi sẽ bị bẩn quần và chân, bà có thể hiểu được và tôi nên lo ăn sáng đi. Tôi biết là không thể thuyết phục được một người Đức, nhất là một người đã sống qua Thế chiến và Chiến tranh Lạnh, đã làm chủ một cửa hàng và sống một mình nhiều năm như oma, nên tôi quay vào bàn ăn.

Trên bàn có một tờ báo dày có chữ Berlin, tôi đoán chắc là thời báo Berlin… trang đầu tiên có một tấm ảnh vệ tinh chụp cơn bão Gustav. Tôi cố gắng thử đọc xem có hiểu gì không nhưng chỉ nhận ra vài từ như “Kubas” và “New Orleans” còn lại thì chịu. Vừa lúc đó, oma mở cửa đi vào, tay cầm mấy bông hoa cúc trắng nhỏ xíu. Bà lấy một bình hoa bằng xứ trắng cũng nhỏ xíu, bỏ mấy bông hoa vào rồi đặt lên bàn ăn cho tôi. Vừa bất ngờ vừa cảm động, và vẫn còn đủ minh mẫn để nhớ rằng mình không biết tiếng Đức, tôi làm hành động rất kỳ quặc: tôi đứng lên vỗ tay và cười toe toét như một đứa bé. Giờ viết lại và tưởng tượng bản thân lúc đó, tôi cũng buồn cười.

Oma Marta mỉm cười, nói một câu gì đó có mấy từ nghe giống như “ good good [13] ” trong tiếng Anh, đồng thời chỉ ra vườn. Tôi đoán bà nói rằng hoa này bà ngắt trong vườn; tôi bất giác nói “ beautiful, pretty [14] ”… rồi khi nhận ra oma không hiểu, tôi đặt tay lên tim. Hành động này thì oma hiểu; bà cười rạng rỡ.

[13] Tốt, tốt.

[14] Đẹp quá.

Oma Marta đã ngồi xuống ghế, với tay bật radio rồi bắt đầu nói chuyện với tôi – bà lại quên là tôi không nói được tiếng Đức rồi. Nhưng hình như ngay cả sau khi nhớ ra tôi không nói tiếng Đức thì oma cũng không phiền lòng – bà chỉ cần một người để nghe chứ không cần một người để hiểu. Bà chỉ ra cửa sổ rồi đưa tay lên xuống nhiều lần. Tôi tưởng oma nhắc đến cái rèm cửa sổ hôm trước bị gãy rơi xuống, nhưng rồi bà với tờ báo trên bàn và chỉ cho tôi một bức ảnh nhỏ bên dưới. Đấy là ảnh một đám mây có mưa và chữ Berlin với con số 23 độ C bên cạnh. Tôi nói “ vâng, mưa ”. Rồi bà giở sang trang sau, nói “Paris” và chỉ vào một bức ảnh khác. Ngày hôm nay Paris sẽ nắng, nhiệt độ khoảng 21 độ. Tôi nói “ vâng, vâng….Paris good… Paris có nắng. ” Oma mỉm cười, nói “ Paris good good .”

Trên radio lúc đó, một giọng ca nam đang hát một bài tiếng Đức. Oma bắt đầu lẩm nhẩm theo và nói tên của ca sĩ. Tôi không bắt được tên đầu tiên, nhưng họ thì nghe giống như “Bjork”. Oma giải thích rằng đây là “oma musik”, nhạc của thế hệ bà, rằng bà không nghe được cái “tekno musik” bây giờ, nó làm bà váng đầu ( chỉ vào đầu ), đau cả tai ( chỉ vào tai ) và toàn “chat xình chát chát bùm”. Tôi cười, nói với oma rằng đến tôi cũng còn đau đầu khi nghe “tekno music”

Thế rồi đột nhiên giọng Elvis Presley vang lên trên radio. Tôi không nhận ra bài hát nhưng lập tức nhận ra giọng Elvis. Tôi nói “Elvis Presley”. Trời ơi, mặt oma sáng lên và bà đặt một tay lên tim, nói “Elvis Presley”. Trong lúc tôi đang nghĩ ra cách để nói rằng Elvis rất nổi tiếng ở Mỹ thì oma đã đứng dậy và bắt đầu nói rất nhanh, hai má hồng lên, mắt lấp loáng, miệng mỉm cười. Bà nói và làm bộ cho tôi hiểu rằng Elvis Presley rất nổi tiếng ở Đức vì từng đến đây đóng quân thời chiến tranh và thế hệ của oma đã lớn lên trong “ Elvis music ” và thần tượng Elvis.

Và rồi, trong lúc liên tục nói tiếng Đức, oma bất thần hất đầu vừa lắc hông, xoay đầu gối và khua tay giống hệt như các động tác lắc hông nổi tiếng một thời của Elviss. Trời ơi, tôi không thể nhịn được cười. Tôi cười đến nỗi trượt khỏi ghế, loạng choạng ngã xuống sàn nhà. Thật không thể tưởng tượng được: oma Marta bắt chước Elvis Presley! Và bà nhảy đẹp! My oma, she got the moves! Lúc còn trẻ, oma hẳn là một cô gái rất năng động và đẹp lắm. Ngay lúc này, bất chấp làn da mồi và cổ tay bị sưng, trông bà giống như một cô gái trẻ đang swing theo nhạc Elvis, vừa cười vừa nói tiếng Đức với tôi.

Ă sáng xong, tôi mang khay vào trong bếp, bỏ các đồ ăn còn lại vào tủ lạnh. Khi tôi đi ra, oma đang đứng trong phòng với hai cuốn sách rất dày. Bà đưa cho tôi và ra hiệu rằng bà muốn tặng tôi. Đó là hai cuốn Illiad và Odyssey – bìa cứng, bằng tiếng Đức và Hy Lạp cổ. Bà biết tôi viết truyện và tối hôm qua đã khoe với tôi tủ sách nhỏ của bà trên gác xép – trên đó có Cuốn theo chiều gió và một ít thơ. Bà bảo hồi Sơn sống với bà ở Berlin, anh ở trên cái gác xép này và thường đọc sách đến khuya.

“Cậu ấy rất hiền”, oma nói với tôi. “Lúc nào cũng đọc sách và rất ít nói. Giờ cậu ấy còn hay đọc sách không?”

Tôi nói có, Sơn vẫn hay đọc sách khuya. Buổi tối chúng tôi hay nằm đọc sách cạnh nhau, và nói những chuyện vớ vẩn như:

“Anh ơi, Lao Tsu là Lão tử, Sun Tzu làTôn tử, còn Lieh Tzu là gì nhỉ?”

(Nghĩ một lúc) “Không biết, chắc là Lợn tử.”

Bao giờ tôi cũng bật cười vì những câu như thế; Sơn luôn nghĩ ra những điều kỳ dị và bang bổ nhất để nói về bất cứ ai, không chừa bất cứ một ai. Có lần tôi cười, bảo Sơn, “Sống với anh cứ như là sống dưới một loa phóng thanh mà 24 trên 24 toàn nghe thấy tin xấu”. Sơn thì bảo tôi ngây thơ, nhìn cuộc đời toàn màu hồng. Hai chúng tôi thực sự là hai thái cực. Nhưng tôi có thể tưởng tượng Sơn nằm trên cái gác xép này đọc sách hồi anh mới hai mấy tuổi - và “rất hiền”.

Cái gì có thể xảy ra khiến cho những con người hai mươi trở thành những con người ngoài ba mươi nhìn cuộc đời và con người như thể không còn bất cứ cái gì thiêng liêng, không còn bất cứ cái gì đáng tin, mọi thứ đều có thể báng bổ và “nhổ toẹt vào”? Bernard Shaw nói “Nếu anh không theo chủ nghĩa cộng sản ở tuổi hai mươi, anh không có tim. Nếu anh không theo chủ nghĩa tư bản ở tuổi ba mươi, anh không có óc”. Hay những xung đột giữa tôi với Sơn đơn giản chỉ là như thế? Chúng tôi lấy nhau khi tôi đang giữa tuổi hai mươi còn anh đã sang đến ngưỡng ba mươi? Và bây giờ, khi tôi bắt đầu sang tuổi ba mươi, Sơn đã ở chỗ nào đó tôi không bắt kịp còn anh thì không thể nhớ lại và thông cảm?

Tôi rất muốn nhận sách của oma nhưng tôi còn phải đi nhiều trong ba tuần tới, mà hai cuốn sách to và nặng. Vậy là tôi buộc phải nói với oma “ danke schoen ” nhưng tôi không thể mang chúng theo lần này, có thể khi nào quay lại Berlin tôi sẽ lấy. Tôi nói bằng cách ra hiệu tôi đang kéo va li và thở nặng nhọc, rồi xoa hai vai tôi và cúi xuống như thể bị hai cuốn sách kéo. Oma hiểu ý; trông bà thật buồn… Oma bảo tôi cất hai cuốn sách lên trên gác xép cho bà.

Khi tôi từ trên gác xép xuống, taxi đã đợi bên ngoài. Ở cổng, tôi hôn vào hai má của oma rồi lên xe. Xe đã chạy đến cuối đường mà oma vẫn còn đứng ở cổng nhìn theo. Tạm biệt oma Marta. Tôi không biết có còn gặp lại bà hay không. Năm nay bà đã hơn tám mươi và tôi thì không bao giờ muốn trở lại Đức. Danke schone, oma [15] ! Chúc oma mọi điều tốt lành, dù bà ở đâu, trong cuộc sống này hay cuộc sống khác, dưới mặt đất hay trên thiên đường.

[15] Cảm ơn (tiếng Đức).

Paris, ngày thứ nhất…

Bây giờ là nửa đêm và tôi đang viết từ trong phòng ăn của khách sạn. Tôi đang ở Paris. Phải rồi, tôi đang ở Paris. Tôi vẫn không thể tin được. Cuối cùng tôi cũng đã đến Paris.

Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!

Chiều nay, máy bay xuống sân bay Orly lúc 6 rưỡi. Từ trên cao nhìn xuống, lúc đầu, chỉ thấy những tòa nhà cao của khu hành chính ở ngoại ô Paris, tôi đã nghĩ đến New York, Boston hay Chicago và hơi thất vọng. Nhưng rồi máy bay đột nhiên đảo cánh và khi máy bay lấy lại thăng bằng thì, voilà , sông Seine đột nhiên hiện ra bên dưới cánh máy bay. Màu xanh thủy tinh non của mặt nước và cái cách mà dòng nước uốn khúc lững lờ quanh các khu nhà mái xám và những bóng cây dẻ… nghe thì sáo mòn nhưng quả đúng là một giấc mơ.

Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!

Xuống sân bay, tôi lấy hành lí, rồi ra quầy “Information” để lấy bản đồ và hỏi cách đi tàu điện ngầm về khách sạn ở quận Bốn. Hướng dẫn tôi là một thanh niên Pháp còn trẻ, tóc hạt dẻ hơi xoăn, khuôn mặt thanh tú, nói tiếng anh với cách phát âm Pháp.

“Ồ, grất dễ, grất dễ thôi mà”, anh ta mỉm cười kết luận.

Còn tôi thì thầm kết luận rằng anh ta “ grất xinh, grất xinh ”. Ước gì anh ta cứ nói nhiều nữa vào để tôi được nghe cái cách phát âm Pháp đó nhưng anh ta đã lại mỉm cười, kết thúc cuộc nói chuyện bằng một câu quen thuộc:

“Bienvenue à Paris!” [16]

[16] Chào mừng tới Paris.

That’s right, bébé ! Tôi đã ở Paris.

Theo chỉ dẫn, tôi bắt tàu Orlyval chạy từ sân bay tới ga Antony thì chuyển sang tàu RER B đi tới trạm Châtelex, lại chuyển sang tàu đỏ chạy tới ga Gare de Lyon, rồi chuyển sang tàu vàng chạy tới trạm Thánh Paul thì xuống [17] .

[17] Sau này tôi mới nhận ra là tôi đã đi lòng vòng rất không cần thiết.

Kéo va li lên khỏi bến Thánh Paul, tôi thấy mình đứng trên vỉa hè phố Rue de Rivoli lúc này tràn ngập ánh hoàng hôn cuối hè. Con phố không lớn nhưng vỉa hè rất rộng, lát đá xám cổ. Hai bên phố là những căn nhà quét vôi vàng nhạt, cửa chính và cửa sổ cao với những cửa sổ gác mái van vát. Ánh nắng cuối ngày thắp sang những cửa hàng bánh mỳ, tiệm cà phê, restaurant san sát dọc phố, sáng choang, thơm nức và dòng người đi bộ như một dòng sông không ngừng, trong tình trạng chuếch choáng, tôi mất hết phương hướng, không biết mình nên rẽ phải hay rẽ trái để đi về khách sạn. Nhìn quanh, tôi thấy một ông già đang đứng dựa vào một chiếc ghế dài đặt dọc vỉa hè. Nhìn ông già, tôi lập tức nhớ tới một cụm từ mà Victor Hugo dùng trong cuốn Những người khốn khổ “một vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” - tức là một quần kaki, sơ mi trắng bên trong, áo vest thô bên ngoài, đội một chiếc mũ bê-rê của những người già Paris, và chống một cây ba toong màu vàng. Vì trông ông có vẻ không phải làm gì ngoài thưởng thức buổi chiều tối mùa hè Paris, tôi tiến tới lễ phép nói:

“Bonsoir monsieur [18] …”

[18] Chào ông

Tôi mới nói đến đây thì “vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” đã lập tức nhăn mặt và quả quyết xua tay:

“Non! Non!”

Phải. Tất cả các sách du lịch đều đã cảnh báo tôi rằng người Paris, nhất là người già, không ưa gì khách du lịch, nhất là khách Mỹ [19] ; nhưng mà tôi rõ ràng không phải da trắng, cũng không mặc quần soóc, áo phông, đi giày thể thao, bụng không có mỡ chảy xệ, và tôi cũng không có “chỉ trỏ cười nói thô bỉ” như nhiều du khách Mỹ. Tôi sốc đến nỗi thành thật là tôi đã rơm rớm nước mắt, đồng thời muốn thụi cho vị tư sản già một quả vào bụng. Sao mà tôi lại ngu xuẩn và ngây thơ đến mức tin rằng tôi có thể đến Paris một mình và đinh ninh rằng thành phố này có một chỗ dành cho tôi. Có lẽ Paris mà tôi mơ tưởng, Paris của Hugo đã chết từ lâu rồi. Nghĩ thế, tôi lùi ra một quãng và cố thở đều để lấy lại tinh thần rồi giở bản đồ với quyết tâm sẽ tự tìm lấy đường về khách sạn thay vì trông chờ vào lòng tốt của dân Paris hoa hòe hoa sói.

[19] Cũng không thể trách họ vì mỗi năm, Paris đón tới hơn 40 triệu khách du lịch, khiến cho thành phố trở nên quá chật chội bởi khách du lịch.

Chắc trông tôi loay hoay với cái bản đồ rất tội nghiệp và hẳn đã thấy tôi rơm rớm nước mắt nên Bụt lập tức hiện ra – dĩ nhiên là dưới vỏ bọc một quý bà Paris ngoài sáu mươi tuổi, vô cùng thanh lịch. Đây hẳn là người phụ nữ đẹp lão nhất mà tôi từng gặp: nước da bà trắng mịn, khuôn mặt thanh tú, tóc bạch kim, vấn cao, bà mặc suit Chanel cổ điển màu sữa, tay đeo một cái túi da màu đen, quấn khăn hoa nhỏ quanh cổ và mang nước hoa rất nhẹ. Bà đã đi ngang qua tôi, rồi được vài bước bà quay lại, nói bằng tiếng Anh:

“Mademoiselle, cô tìm gì?”

Rút kinh nghiệm từ vị tư sản già, tôi lập tức “merci beaucoup” trước và trình bày rằng thưa madam, cháu cần phải về khách sạn trên phố Rue des Barres. Nói thật là lúc đó tôi nghĩ đến khách sạn thì ít mà ngỡ ngàng vì lần đầu đối diện với “vẻ đẹp phụ nữ Paris” thì nhiều. Trong lúc tôi ngỡ ngàng vì bà ( tôi xin gọi là Grand Dame cho dễ ) thì bà cũng ngỡ ngàng không biết Rue des Barres nằm ở đâu. Tôi lại “merci beaucoup” và chờ Grand Dame trả lại tờ giấy đặt khách sạn cho tôi nhưng, Chúa phù hộ bà, bà đã bước lại phía vị tư sản già lúc nãy để trao đổi gì đó bằng tiếng Pháp. Nhìn bộ dạng thì rõ ràng vị tư sản già cũng không biết phố Rue dei Barres ở đâu và cũng không niềm nở gì với Grand Dame của tôi. Không nản lòng, Grand Dame lại đi hẳn vào trong tiệm bánh ngọt gần đó để hỏi ( Trời phật phù hộ cho bà và các con cháu chín đời của bà! ) Hai phút sau, bà quay lại với khuôn mặt thất vọng.

“Sorry mademoiselle,” bà nói, “không ai biết phố Rue des Barres ở đâu cả.”

Thật may là lúc ở sân bay, tôi đã tìm ra phố này trên bản đồ, tôi chỉ không biết nó nằm bên trái hay bên phải chỗ tôi đứng. Vậy là tôi chỉ nó cho Grand Dame trên bản đồ.

“ Voilà !” bà mỉm cười rạng rỡ. “Thế thì tôi biết rồi.”

Bà bảo tôi đi về phía bên trái, cứ dọc theo Rue de Rivoli cho tới khi gặp Rue Louis Phillipe thì rẽ trái.

Cuối cùng thì tôi cũng tìm tới Rue des Barres. Trời ơi, thật không thể tin; con phố chỉ dài chừng 100 mét, nằm giữa Rue Miron và một đại lộ dài chạy phía bên kia. Phải, người ta đã nói Paris là thành phố đi bộ; và tôi đã thuộc cả những trang mô tả các ngõ nhỏ Paris lúc Giăng Van Giăng đưa Cô-dét chạy trốn Gia-ve, nhưng mà những đường phố của Paris thực sự có thể nhỏ và đẹp đến mức này thì không ngờ.

Ở sân bay Schonefeld, chuẩn bị đi Pari, tôi đã tra và tìm ra phố Rue des Barres trên bản đồ

Sau khi check in, tôi đi một cái thang máy bé tí xíu lên phòng của tôi ở tầng ba. Tầng nhà ở đây đánh số từ 0 nên thực chất là tôi ở độ cao của tầng bốn. Căn phòng tôi ở là phòng cho bốn người; chỉ chừng hai mươi mét vuông với hai giường tầng, một bốn rửa và nhà tắm nhỏ… và lúc đó chưa có ai. Tôi bỏ va li vào trong hốc tường, lựa một cái giường tầng trên rồi mở cửa sổ ra và phải cố gắng lắm mới không hét lên…

Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!

Ngay ngoài cửa sổ, cách khoảng ba mét, là tháp chuông một nhà thơ Gothic cổ kính; tưởng như chỉ cần với tay ra là chạm được vào những cái đầu thú. Thắng từ cửa sổ phòng xuống mặt đất là một khoảng sân rộng lát gạch cổ theo vòng tròn, ở đó các bàn cà phê lúc này chật người ngồi ăn tối. Tôi có thể nghe rõ tiếng trò chuyện giọng Pháp, tiếng thìa dĩa chạm vào nhau và tiếng lanh canh của các ly rượu. Nhìn ra xa, các nóc nhà Paris thấp đều nhau, kiến trúc Pháp đặc trưng, mái xám, những cửa sổ cao, tường sơn vàng nhạt, tầng gác mái hơi vát… và xa hơn nữa là một cái tháp nhọn quen thuộc, cộng với một mái vòm tròn khả nghi. Có lẽ nào tôi đang nhìn thấy tháp nhọn phía sau của nhà thờ Đức Bà và mái vòm của đền Pantheon? Không thể như thế được… nhưng mà rõ ràng…

Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!

Tôi cuống cuồng tắm gội, thay quần áo để ra ngoài ăn tối vì sợ rằng các restaurant sẽ đóng cửa sau 10 giờ như ở Mỹ. Ra khỏi khách sạn 9 giờ 45 phút tối, tôi rẽ trái đi về phía có tháp nhọn khả nghi, cũng là phía có mấy nhà hàng mà tôi nhìn thấy từ trên cửa số. Đi mấy bước chân đã tới con đường dài chạy dọc một bờ tường và phía bên kia là một cái cầu bê tông hơi vòng lên. Nhưng mà cầu bắc qua cái gì? Sông Seine? Không đời nào?

Không cưỡng được tò mò, và quên cả nhiệm vụ đi tìm bữa tối, tôi băng qua đường để tiến tới gần. Vừa qua khỏi đường, tôi vội đưa mắt nhìn xuống phía dưới.

Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!

Đúng là sông Seine!

La Seine !

Thật không thể tin mình đang ở Paris, đang đứng đây mà nhìn xuống sông Seine. Paris đang vào đêm sâu. Mặt nước trong bóng tối lấp lánh ánh đèn vàng của những căn nhà hai bên sông và những đèn ánh sáng chạy dọc con đường đi bộ sát mép nước. Trong cái tĩnh lặng của buổi đêm, có cảm giác sông Seine đang chảy cho một mình tôi, để chào mừng tôi. Những hàng dương liễu dưới sông thì thầm rằng chúng đã luôn chờ tôi tới.

Tôi đừng đó không biết bao lâu mà tim vẫn đập thình thịch và không ngừng lẩm bẩm “ Xin chào, xin chào, tôi đây, tôi đây !”

Thật không thể tin được,

Nhưng sau cùng, những thói quen sống cũng tóm được tôi và chúng bảo tôi phải nhanh chân tìm chỗ ăn tối trước khi các nhà hàng đóng cửa và tôi phải đi ngủ đói. Vậy là tôi băng ngược trở lại bên kia, đi theo con đường dọc sông. Chỉ cách vài bước chân, tòa nhà Hôtel de Ville [20] sừng sững hiện ra. Trước quảng trường nhỏ của Hôtel de Ville, tôi nhìn sang bên trái và lại thấy một cái tháp khả nghi mà tôi đã thấy ở cửa sổ. Tôi rất muốn tới xem có phải Nhà thờ Đức Bà không; nhưng rồi tự nhủ rằng tối hôm nay tôi đã thấy quá nhiều. Vậy là tôi rẽ vào một quán Nhật, gọi bữa tối đầu tiên ở Paris gồm có sáu miếng sushi cá hồi và nấm xào thịt nướng với pho mát. Sau đó, tôi đi bộ trở lại khách sạn.

[20] Tòa Thị chính Paris.

Đã gần nửa đêm nhưng các restaurant dọc đường về và cả hai cái restaurant ở khoảng sân cạnh khách sạn vẫn đông người ngồi ăn như thể buổi tối chỉ mới bắt đầu và Paris sẽ không bao giờ đi ngủ. Trong phòng khách sạn, người bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đã tới: một cô gái trọc đầu đang nằm ngủ sấp mặt trên giường tầng phía đối diện tôi: chăn đắp ngang lưng, chỉ để hở hai cánh tay và phần gáy có rất nhiều hình xăm. Tôi rửa mặt, đánh răng, thay quần áo, rồi xuống nhà. Lobby dưới tầng một tối đèn, chỉ có một người lễ tân da đen đang ngủ ngồi trên ghế bành sau quầy (và ngáy rất to). Mặc dù tôi đi rất khẽ, anh ta vẫn tỉnh dậy “ bon soir ”. Tôi không nhịn được mà hỏi cái tháp chuông… cái tháp chuông phía bên kia sông Senie…, anh ta nói “Oui, the Notre Dame [21] ”, rồi cười toe toét khi thấy tôi nhảy cẫng lên.

[21] Đúng rồi, Nhà thờ Đức Bà.

“ Oh man, tôi không thể tin được.”

“Tin đi, mademoiselle,” anh ta cười to, rồi lấy bản đồ chỉ cho tôi thấy . Phải, phải, tôi chỉ ở cách bảo tàng Louvre chừng mười lăm phút đi bộ, cứ đi dọc Rivoli là tới, vườn Tuileries thì ở kế bên bảo tàng và ngay đó là khu Coocotes đại lộ Champs – Elysees và Khải Hoàn Môn; còn Pompidou ngay phía bên kia phố Rivoli; khu Latin thì cứ đi bộ dọc đại lộ thánh Michel là tới… đền Pantheon thì ở ngay gần vườn Luxembourg… “Phải rồi, mademoiselle, vườn Luxembourg… mademoiselle, mademoiselle, cô có nghe thấy tôi nói không?”

Tôi trả 2 euro để vào internet được hai mươi lăm phút từ cái máy tính dưới quầy và email cho Sơn. Em đã đến Paris. Mọi việc đều ổn.

☆☆☆

Paris, ngày…

Suốt cả đêm qua tôi đã để cửa sổ mở để lấy không khí bên ngoài và nằm mơ màng nghe những tiếng giày vọng lên từ dưới phố. Sáng nay, khi mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, những nóc nhà xám của Paris và đám lá thường xuân mướt mát xòa từ tường nhà vào bậu cửa lại một lần nữa làm tôi chuếnh choáng, và không sao nhập được vào đầu cái ý nghĩ tôi đang ở Paris. Nhưng rồi, tiếng thở nặng nhọc của cô bạn đầu trọc ở giường dưới đã giúp tôi có được niềm tin này. Hé đầu nhìn ra, tôi thấy cô ấy vẫn nằm úp sấp đúng tư thế đêm hôm qua và đúng chỗ cũ, không xe dịch một xăng-ti-met; hình như cô ấy không trở mình cả đêm, dù chỉ một lần. Hẳn là người bạn cùng phòng của tôi vừa đi một chuyến rất xa và mệt. Đêm qua, khi nhìn thấy người bạn đầu trọc người đầy hình xăm này, tôi có hơi lo lăng. Tôi đã đi ngủ với ý nghĩ: trời ơi nhỡ cô gái này là sát thủ giết người hàng loạt, nửa đêm cô ta sẽ chồm dậy, dí dao vào cổ mình thì sao? Hoặc cô ta là dạng psycho đang bỏ nhà đi bụi, cô ta cũng sẽ chồm dậy… Nếu phải chết vào đêm đầu tiên ở Paris thì thật là…

Nhưng giờ, tôi vẫn còn nguyên đây và người bạn cùng phòng vẫn đang úp mặt ngủ. Tôi sẽ để cho cô ấy ngủ tiếp, còn tôi thì phải xuống nhà ăn sáng để còn ra ngoài Paris.

Qua cửa sổ, sáng nay Paris nhiều mây xám, trông như sắp mưa. Gió thổi mạnh, lay những hàng cây dọc sông Seine và khiến những người đi bộ bên ngoài đều dựng cổ áo, rảo bước. Nhìn họ, tôi cũng muốn nhanh chóng ăn xong bữa sáng để ra ngoài. Khách sạn này cho mỗi người một bữa sáng miễn phí gồm một cái croissant, nửa cái bánh mì dài baguette, một cốc nước cam, một phần bơ, một phần mứt quả, và một cốc nước để rót cà phê hoặc chocolate nóng. Tôi chọn chocolate nóng, bỏ lại cái baguette. Mặc dù không có thói quen ăn sáng, nhưng biết hôm nay sẽ đi bộ nhiều nên tôi cũng cố ăn hết cái croissant và uống cạn cốc chocolate.

Tôi cẩn thận đội mũ, quấn khăn, và mang theo một chiếc ô nhỏ. Ở quầy tiếp tân, anh chàng da đen trực đêm tối qua nhận ra tôi nên toe toét cười:

“Bonjour, mademoiselle. Hôm nay cô sẽ đi đâu?”

“Nhà Victor Hugo,” Tôi nói.

“ Trés bien … chúc cô một ngày tốt lành.”

Trong rất nhiều ý nghĩa, Paris với tôi trước hết là thành phố Victor Hugo và có Victor Hugo. Trước khi tới Paris tôi đã dự định sẽ dành buổi sáng đầu tiên ở Paris để đi đến căn nhà mà Hugo đã sống cùng vợ trong mười sáu năm. Căn nhà nằm ở khu Place de Vosges tại quận Bốn, cách khách sạn không xa.

Nhưng tôi ra khỏi cửa được vài bươc, tôi đứng lại, rồi cứ từ từ quay đầu hướng về phía Nhà thờ Đức Bà Paris. Tôi đã không thể cưỡng lại, như thể có một bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt. Vậy là tôi đi dọc con đường bờ sông, băng qua cây cầu trước cửa Hôtel de Ville để tới Nhà thờ Đức Bà.

Từ bên ngoài và từ đằng trước, Nhà thờ Đức Bà không mấy ấn tượng. Hai tháp chuông và mặt tiền của nhà thờ có một vẻ trần trụi không ăn khớp với tưởng tượng của tôi; do thế trông lại khang trang, sang sủa đáng thất vọng do màu vôi sáng. Thêm vào đó, từ sớm và trời tuy lất phất mưa nhưng rất nhiều khách du lịch đã xếp hàng và ngồi khắp quảng trường phía trước nhà thờ - tất cả đều toach toách làm dáng để chụp ảnh khiến cho toàn bộ tưởng tượng mấy chục năm nay của tôi về Nhà thờ Đức Bà cứ bị những cái chớp máy ảnh và những nụ cười nhiếp ảnh xé nát.

Trong nhà thờ hơi tối. Ánh sáng dường như chủ yếu có mục đích làm nền cho hàng cửa sổ kính màu ở trên cao, còn bên dưới, những khuôn mặt làm người chìm vào bóng tối và sự chờn vờn của những ánh nến thắp dọc hành lang. Đột nhiên, Paris bên ngoài không còn tồn tại. Xung quanh, những người khách du lịch đi lại rón rén; một số khác gục xuống những hàng ghế cầu nguyện; tiếng thì thầm của khách và những tiếng cầu nguyện cùng với tiếng bước chân ầm ầm dưới những mái vòm cao khiến cả nhà thờ có không khí của một nhà nguyện Trung cổ. Tôi ngồi xuống một hàng ghế gần một cậy cao. Càng ngồi, tôi càng chìm dần vào một cảm giác quen thuộc như thể tôi không phải khách du lịch ở đây; tôi là một người quen ghé lại căn nhà cũ, nơi người chú mà tôi từng thân thiết đã chuyển đi từ lâu nhưng cũng có thể bất thình lình ghé lại ngồi xuống cạnh tôi: “Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”

Sáng nay, khi đi ngang cây cầu phía trước Hôtel de Ville và nhìn sông Seine lần đầu dưới ánh sáng ban ngày, tôi cũng có cảm giác đúng như thế. Rằng bất thần, khi tôi đứng nhìn Paris trong thời tiết xe lạnh và hơi xám, với những ngôi nhà trầm mặc đứng dọc hai bên bờ sông và những hàng liễu rủ dưới kè sông, có thể nhà cách mạng già trong Chín mươi ba, hay một thanh niên Sorbonne trong nhóm bạn ABC, mà cũng có thể người đàn ông cầm ô mặc áo vest đen trong bức “Paris trời mưa” của Gustave Caillebotte [22] sẽ đến đứng gần tôi mà thì thầm “ Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”

Phải, đã lâu quá rồi.

[22] Họa sĩ người Pháp, thuộc trường phái ấn tượng.

Rời khỏi Nhà thờ Đức Bà, tôi đi dọc con đường chạy ngang mặt nhà thờ, băng qua đại lộ chạy dọc bên kia sông Seine, rẽ trái, và bắt đầu lạc vào một mê lộ những con đường nhỏ mang không khí phố cổ Hà Nội, chỉ có điều là kiến trúc Pháp hoàn toàn sạch, đẹp hơn nhiều. Tôi cố gắng nhớ tên Rue nọ Rue kia để xem tôi đã đọc thấy chúng trong sách chưa, nhưng nhanh chóng đầu hàng vì quá nhiều đường phải nhớ, quá nhiều thứ phải nhìn… Sau một lúc, tôi hoàn toàn lạc đường, nhưng hoàn toàn hạnh phúc. Tôi đang ở trong khu Latin – khu vực bao quanh Đại học Sorbonne ngày xưa, trung tâm của Paris cổ. Khắp nơi tôi nhìn, những quán cà phê san sát, những cái bàn nhỏ và ghế đặt từng đôi dọc vỉa hè, và khách ngồi ngập các quán, uống cà phê trong những cái chén nhỏ xíu khác hẳn ở Mỹ, và hút thuốc và nói chuyện như thể họ có tất cả thời gian trên đời. Và tôi phải công nhận, người Paris đẹp, ít nhất là ở khu Latin này.

Bây giờ thì tôi đang ngồi trong nhà hàng của vườn Luxembourg, gần lối vào từ đại lộ Thánh Michel. Nhà hàng ở ngoài trời, hầu hết bàn được đặt dưới những bóng cây, có dù che nhưng lúc này các cây dù đều được cụp lại. Người bồi bàn vừa mang bữa trưa của tôi ra. Bữa trưa có thịt bò bourguignon [23] , mấy củ khoai tây luộc còn để nguyên cả củ, và hai lát bánh mì trắng cùng một miếng bơ. Lúc này, mặt trời đột nhiên ló ra sau những đám mây và một cơn gió nhẹ thổi xuyên qua những hàng cây cổ thụ xanh lá, đuổi cát và lá khô chạy thành một cơn sóng dưới mặt đất. Ánh nắng chiếu qua những tán lá rộng đung đưa, làm cho những bóng nắng dưới đất liên tục nhảy múa. Một ngày mùa thu tuyệt vời. Tôi tháo khăn khỏi cổ, và ngồi đó ăn bữa trưa đơn giản, một mình giữa những người Paris xa lạ mà hạnh phúc không sao tưởng nổi. Tôi xắt những củ khoai tây mềm thành những miếng nhỏ, tưởng như đang xắn vào những khối hạnh phúc, rồi nhúng chúng vào nước xốt thịt bò hầm và để cho những miếng hạnh phúc tơi trong miệng thành triệu triệu hạt sung sướng.

[23] Thịt bò hầm với rượu vang, một món truyền thống của Pháp.

Lúc này, trong nhà hàng cũng như trong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách ( và nhìn bìa sách thì có thể đoán chúng là sách triết học, khoa học, thơ, tiểu thuyết nghiêm túc chứ không phải loại sách đọc giải trí mà người Mỹ hay mang ra công viên hoặc bãi biển đọc trong lúc tắm nắng). Một số người đang hí hoáy viết trên những cuốn sổ nhỏ; một số thì cưỡi lừa (không hiểu lừa ở đâu ra); một số chơi tennis hoặc cầu lông; những ông già thì chơi cờ dưới một cái nhà bát giác có mái. Quanh bồn nước lớn, những đứa trẻ nặn cát; nghịch nước, đua thuyền buồm; những người cha vừa ăn trưa vừa tỉ tê nói chuyện với con; những đôi vợ chồng già thì ngồi yên lặng cạnh nhau, mặt cùng hướng về mặt trời. Rất đông thanh niên trẻ, chắc từ trường Đại học Sorbonne và các trường Đại học quanh đây – họ ngồi từng nhóm cười đùa, nói chuyện và hút thuốc trong lúc mấy đứa trẻ cứ đạp vòng vòng quanh bồn nước… như thể Paris đã tiếp diễn thế này từ thế kỷ XVIII, XIX… và thời gian cứ thế trôi…

Sau bữa trưa, tôi đi loanh quanh trong vườn, ghé chỗ này một tí, chỗ kia một tí, xem các ông già ném bi sắt, nghe lỏm những câu chuyện tiếng Pháp tôi

Trong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách

không hiểu chỉ để mà nghe, ngắm những dáng người ngồi yên lặng trong vườn… rồi khi cảm thấy rằng tôi cần để dành vườn Luxembourg cho những lần tới nữa thì tôi ra khỏi vườn bằng cổng trên phố Rue de Vaugirard, tôi nghe lỏm được câu chuyện tiếng Anh của hai phụ nữ Mỹ; họ vừa tra bản đồ vừa bàn nhau cách đi tới tháp Eiffel rồi bước đi quả quyết. Vậy là tôi đi theo bọn họ, nhưng chẳng mấy chốc, tôi mất dấu vì họ bước quá nhanh và cứ theo đúng chỉ dẫn mà đi, còn tôi thì cứ la cà nhìn hết cái nọ cái kia trên phố… và ngẩn ngơ như một kẻ dở hơi.

Ở góc giữa Boulevard Raspail và Rue de Babylone, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ mảnh mai, tóc hạt dẻ rối bời đang úp mặt vào tường, hai tay che mặt khóc nức nở một cách hồn nhiên. Có cái gì đó rất Paris trong cảnh này – một sự bồng bột, bốc đồng, và hồn nhiên Paris mà tôi không nghĩ mình có thể gặp ở Mỹ, Đức hay Việt Nam. Những người Paris khác đi qua cô gái với vẻ thản nhiên như thể họ thấy điều đó quá thường xuyên; trong khi đó tôi và hai người phụ nữ Mỹ thì không sao thản nhiên được. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cùng bước lại phía cô gái. Người già hơn trong số hai người kia hỏi cô gái bằng tiếng Pháp:

“Cô có làm sao không? Chúng tôi có thể giúp gì cho cô không?”

Cô gái quay lại nói: “ Non non merci ” nhưng liền đó tuôn ra một tràng dài tiếng Pháp. Cô tiếp tục khoa tay và hồn nhiên kể qua hàng nước mắt một câu chuyện gì đó với hai người phụ nữ kia; câu chuyện có vẻ liên quan đến một người bạn trai đã làm cô đau lòng. Ngay cả trong lúc khóc nức nở, hai má đầm đìa nước, mặt hồng lên vì kích động, và tóc tả tơi, trông cô gái Paris này quá quyến rũ. Tôi không hiểu chàng trai nào làm cô đau lòng đến thế. Nếu tôi là đàn ông, tôi sẽ ôm lấy cô mà an ủi. Thực ra lúc này tôi cũng muốn làm việc như vậy nhưng tôi để phần đó cho hai người phụ nữ đứng tuổi.

Trên phố Rue de Bac, tôi dừng lại mua một cái thẻ điện thoại, nhưng lý do lớn hơn là để chiêm ngưỡng cái sạp báo và tạp chí nhỏ giữa đường; ở đó báo và tạp chí được sắp xếp như một công trình nghệ thuật sắp đặt hoàn hảo; nhưng tuyệt nhất là cái cách người đàn ông bán báo đứng tuổi ăn mặc chỉn chu, đeo cà vạt, mang nước hoa trong lúc bán báo, và luôn miệng nói chuyện với những người khách ghé vào mua báo như thể họ đã quen nhau lâu lắm rồi và câu chuyện họ nói là một câu chuyện vĩnh cửu. Tôi đứng đó nghe cái dòng đối thoại liên tu bất tận mà tôi chỉ hiểu vài chữ lõm bõm “Oui”, “D’accord”, “Voilà”, xen những tiếng cười và những cái vung tay. Trên phố Rue de Varenne, tôi đứng lại ở những cửa hàng bánh ngọt đế ngắm những cái bánh đẹp đến mức khó tưởng tượng là người ta nỡ ăn chúng, rồi không dừng được mà mua một cái tiramisu và tiếp tục ngẩn ngơ nhìn người chủ cửa hàng cẩn thận cho vào trong một hộp giấy nhỏ, thắt một chiếc nơ bên ngoài, rồi bỏ vào một cái túi giấy cho tôi

Chao ôi là sự công phu và kiều diễm trong từng chi tiết của cái đời sống Paris. Cái tinh thần lãng mạn Paris không nằm trong sự bay bổng của tình yêu hay trong nghệ thuật, mà mấu chốt của nó là ở niềm tin chắc chắn của người Paris rằng cái đẹp cần thiết cho cuộc sống, và người Paris theo đuổi cái đẹp ấy với sự kiện định như người Mỹ theo đuổi thực dụng, hoặc người Việt Nam theo đuổi… thực sự thì tôi không chắc người Việt Nam theo đuổi cái gì.

Tôi lại bắt đầu lẫn đường. Tháp Eiffel có vẻ ngay trước mặt mà đi mãi không tới. Hai sinh viên Mỹ đến từ Philadelphia thấy tôi loay hoay giở bản đồ ra tra thì hỏi thăm và bảo với tôi rằng tôi đã đi sai đường nhưng gần đây có bảo tàng Rodin. Vậy là tôi một lần nữa bỏ dở kế hoạch tới tháp Eiffel để rẽ vào bảo tàng Rodin và một lần nữa, lại chuếnh choáng say sưa vì tượng.

Rời khỏi bảo tàng Rodin lúc 4 giờ chiều, tôi đi ra đại lộ Invalides. Ngày đang bắt đầu tàn; tôi ngồi trên bờ tường thấp xung quanh điện Invalides ăn cái tiramisu dưới ánh nắng ấm của ngày đầu thu. Trước mặt tôi là đường Tocqueville và sau lưng tôi là điện Invalides – nơi chứa hài cốt của một số nhà cách mạng và những người anh hùng đã hy sinh vì nước Pháp, bao gồm cả Napolêon. Tôi nghĩ đến cuốn Dân chủ của Tocqueville và hiểu chính là ở Paris chứ không ở đâu khác mới có thể khởi đầu cuộc đại cách mạng tư sản, mới có những nhà triết học, nhà chính trị, nhà văn, và tư tưởng như Tocqueville, Hugo, Zola… Paris cho họ tinh thần để làm điều đó.

Thật may mắn khi tôi được ở Paris vào lúc này.

Vào lúc này không có bất cứ thứ gì khác mà tôi cần làm ngoài việc nằm trên bờ tường thấp này, nhìn lên trời, và để cho nắng cuối ngày, và những cơn gió nhẹ, và Paris, ngấm vào tôi.

Trở về phòng sau ngày đầu tiên, tôi thấy cô gái đầu trọc vẫn đang nằm trên giường y như đêm qua và sáng nay. Có điều, cô ấy không ngủ. Khi thấy tôi, cô ấy nói “ Bon soir ”, rồi cười. Vậy là chúng tôi làm quen. Fracesca không nói tiếng Anh, còn tôi thì không biết ngoại ngữ nào khác ngoài tiếng Anh. Cuộc nói chuyện lộn xộn tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý bồi của chúng tôi diễn ra thế này:

Fracesca: “You name?”

Tôi: “Ruby [24] . And you?”

[24] Nếu bạn ở Mỹ lâu và đã chán việc cứ phải đánh vần tên tiếng Việt của bạn khi người ta hỏi bạn tên gì, thì bạn cũng sẽ như tôi chọn một cái tên tiếng Anh để trả lời những người xa lạ.

Fracesca: “Francesca.”

Tôi: “You work?”

Francesca: “Nurse. You?”

Tôi: “Etudiant.”

Francesca: “Ah, where you from?”

Tôi: “America. Where you from?”

Francesca: “Milan. You how old?”

Tôi: “30. You how old?”

Francesca: “33” ( giơ ba ngón tay ra hai lần ) [25]

Sau đó, chúng tôi kể xem ngày hôm nay chúng tôi đã làm những gì.

[25] Tên gì? Ruby, còn chị? Francesca. Chị làm gì? Y tá, còn chị? Sinh viên? À, chị từ đâu tới? Mỹ, chị thì sao? Milan, chị bao nhiêu tuổi? 30, còn chị? 33.

Francesca: “Me go Montmartre. Where you go?”

Tôi: “Notre Dame, Pantheon, Rodin Museum, Invalides.”

Francesca: “Ah, beaucoup. Bien.”

Tôi: “Yes, beaucoup walking.”

Francesca: “Huh?”

Tôi: “Beaucoup walking… walking… đi bộ” ( lấy hai ngón tay làm động tác đi bộ trên mặt bàn ).

Francesca: “Ah…”

Tôi: “Chị làm gì… hừm… tôi, Notre Dame, Muser Rodin… nhìn, ngắm nhìn ( mắt lơ láo nhìn lên trần nhà và quanh phòng) … chị thì sao? Shopping?”

Francesca: “Ah, non non… Tôi, nhà thờ Sacré-Coeur.”

Tôi: “Bảo tàng Salvador Dali [26] ?”

[26] Bảo tàng trong cùng khu đồi Montmartre, cạnh nhà thờ Sacré-Coeur.

Francesca: “Non non… vẽ… vẽ chân dung… tôi chân dung…”

Tôi: “Chị chân dung? Ở Montmatre?” ( Tôi tưởng là chị ấy tới Montmartre và để cho các nghệ sĩ đường phố vẽ chân dung. )

Francesca: “Non, ở Italy… tôi bức tranh.”

Tôi: “Chị bức tranh?”

Francesca: “Yes, tôi bức tranh.”

Khổ quá, ý Francesca là ở Milan, chị ấy cũng vẽ tranh. Chúng tôi tiếp tục nói chuyện theo cách đó – lẫn lộn tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý bồi và rất nhiều cử chỉ. Thế nào mà chúng tôi cũng kể được cho nhau nghe xem mình có mấy anh chị em ( Francesca có một chị gái đang có một đứa con chín tháng tuổi ). Tôi hỏi Francesca chị đã ăn tối chưa ( lấy tay và vào miệng ); Francesca nói ăn rồi và hỏi tôi ăn chưa. Tôi nói “non non, no dinner”; chị mở túi đưa cho tôi hai cái bánh cam.

Chúng tôi đang ăn bánh thì cửa phòng bật mở toang và một cô gái Hàn Quốc khệ nệ lôi hai cái va li lớn vào phòng. Thấy chúng tôi, cô gái vừa cười vừa thả cho hai cái va li rơi xuống sàn. Đấy là một cô gái Hàn quốc điển hình: tóc dài ép thẳng; mặt trang điểm như sứ trắng, trông hiền lành. Cô gái ngồi phịch xuống một giường còn trống, tự giới thiệu mình tên là Julia. Vậy là chúng tôi bắt đầu một cuộc nói chuyện tay ba trong đó Francesca bập bõm tiếng Pháp, Julia nói một ít tiếng Anh còn tôi nói tiếng Anh với một vài từ tiếng Pháp. Thế mà chúng tôi vẫn nói được đủ thứ chuyện phiếm, như chuyện diễn viên và cầu thủ ưa thích. Francesca thích Al Pacino và Robert de Niro. Julia thì thích Brad Pitt và Orlando Bloom. Tôi tranh thủ nói với Francesca về sự hâm mộ của người Việt Nam một thời với bóng đá Ý, nhất là Roberto Baggio.

Tôi: “Roberto Baggio. World Cup. On television. Baggio đẹp trai. Vietnam like Baggio.”

Francesca: “Baggio đẹp trai? No no. Baggio no đẹp trai.”

Tôi: “Baggio no đẹp trai? Nhưng Baggio football bien. Très bien.”

Francesca: “Oui, Baggio football bien. Nhưng I love you non Roberto Baggio. I love you non noir hair ( chỉ vào tóc ). No Europe sud. No Mediteranian.”

Ý Francesca là Roberto Baggio đá bóng hay thật nhưng mà không đẹp trai; chị ấy không thích Roberto Baggio; chị ấy không thích đàn ông tóc đen và bóng nhẫy như đàn ông Nam Âu hay đàn ông ở vùng Địa Trung Hải. Tôi dịch lại cho Julia hiểu.

Julia ( quay sang Francesca ): “What you like [27] ?”

[27] Chị thích kiểu gì?

Francesca: “Me like hair blonde ( chỉ vào tóc ). Me like eye blue ( chỉ vào mắt ). Nord Europe, Switzeland. Sweden.”

Vậy là Francesca thích đàn ông Bắc Âu tóc vàng mắt xanh. Ví dụ đàn ông Thụy Sĩ hay Thụy Điển. Đến đây, như mọi cuộc nói chuyện giữa các cô gái, câu chuyện quay về tình yêu và hôn nhân.

Francesca ( hỏi tôi ): “You boy [28] ?”

[28] Em, con trai?

Tôi: “Huh?”

Francesca: “You boy?... hmm… boyfriend? You boyfriend? [29] ”

[29] Em, con trai? Hửm… bạn trai. Em, bạn trai? Có bạn trai?

Tôi: “Ah, boyfriend, me no boyfriend. Me husband… Husband in America [30] .”

[30] À, bạn trai. Không, em không bạn trai. Em có chồng… chồng đang ở Mỹ.

Julia: “Wow… You husband? You young [31] .”

[31] Wow, em có chồng? Em trẻ.

Tôi: “Me young? No no, me no young. Me 30. Francesca 33. You how old? [32] ”

[32] Em trẻ? Không không, em không trẻ. Em 30. Francesca 33. Chị bao tuổi?

Julia ( phá lên cười, lấy tay che miệng ): “No no, me not tell [33] .”

[33] Không không, chị không nói đâu.

Julia dứt khoát không chịu nói tuổi (nhưng tôi đoán ít nhất cũng bằng Francesca).

Tôi hỏi Francesca điều mà tôi tò mò từ hôm qua:

“You no hair [34] ?”

[34] Sao chị không có tóc?

Đến đây thì Francesca cười buồn buồn, nói rằng chị không có tóc vì đang phải hóa trị và xạ trị bệnh ung thư vú. Đợt này chị đang có một quãng nghỉ giữa hai kỳ điều trị nên tranh thủ đi du lịch; khi trở lại Milan, chị sẽ lại phải tiếp tục một đợt điều trị mới. Chị không biết là còn sống được bao lâu, có thể chị sẽ khỏi hẳn mà cũng có thể không; Francesca đã quyết định là chừng nào còn có thể đi lại được thì sẽ đi thăm tất cả những nơi chị muốn, đề phòng khả năng không còn nhiều thời gian.

Cả tôi và Julia đều nói chúng tôi rất tiếc và chúc chị mọi điều tốt lành. Tôi nói, Francesca, trông chị còn rất khỏe mạnh, da chị rất sáng và đẹp, không giống người ốm tí nào. Francesca cười, nói rằng da đẹp phải như da của Julia. Julia nói trời ơi, để có được làn da này vất vả lắm, giá mà chị có làn da trắng tự nhiên như Francesca thì đã đỡ biết bao; chứ con gái Hàn Quốc phải học dưỡng da từ lúc bốn, năm tuổi và mỗi tối trước khi đi ngủ phải mất cả tiếng để làm các thủ tục dưỡng da. Chính vì thế mà mỗi lần đi du lịch, chị phải lôi theo cả đống va li to đùng ( chỉ vào hai cái va li trên sàn nhà ). Julia mở cả va li cho chúng tôi xem. Bên trong va li lỉnh k?