← Quay lại trang sách

Chương 3

Vào giờ ấy, trên Thái Bình Dương, ở vĩ độ bắc, đã hơn bảy giờ sáng. Mặt trời chói chang tỏa ánh nắng tràn trề xuống mặt biển yên tĩnh bao la nhấp nhánh. Ngoài trời, nước, quanh đây không còn cái gì khác. Song chính ở đây, trên tàu sân bay ‘Convention’ trong khuôn viên của nó, đang diễn ra một tấn kịch thế giới chưa một người nào bên ngoài hay biết. Tấn kịch này bắt đầu từ một sự kiện chưa từng có trong lịch sử chinh phục vũ trụ, vừa xảy ra trên trạm quỹ đạo Xô-Mỹ ‘Paritet’.

Tàu sân bay ‘Convention’ - tổng hành dinh khoa học chiến lược của trung tâm điều khiển chương trình hợp tác nghiên cứu vũ trụ ‘Demiurge’, đã lập tức ngoài vòng mọi quan hệ với thế giới bên ngoài vì sự kiện trên. Không hề thay đổi địa điểm thường trú của mình ở phía nam quần đảo Alent, trên Thái Bình Dương, ngược lại, nó còn xác định tọa độ chính xác hơn bằng khoảng cách trên không như nhau so với Vlapostok và San Fransisco.

Trên con tàu khoa học này cũng đã có một vài thay đổi. Theo lệnh của hai vị tổng chủ nhiệm chương trình, một của Liên Xô, một của Mỹ, cả hai chuyên viên điều khiển khối liên lạc vũ trụ - một của Mỹ, một của Liên Xô - sau khi nhận được tin tức về vụ việc đột xuất trên trạm ‘Paritet’ đã tạm thời bị cách ly nghiêm ngặt để tin tức khỏi lọt ta ngoài…

Tất cả cán bộ nhân viên trên tàu ‘Convention’ bị đặt vào tình trạng báo động cao độ, mặc dù tàu này không hề có chức năng quân sự, càng không được trang bị bất cứ thứ vũ khí gì và hưởng quyền lợi bất khả xâm phạm theo một nghị quyết riêng của Liên Hiệp Quốc. Đó là chiếc tàu sân bay phi quân sự độc nhất trên thế giới.

Khoảng mười một giờ trưa, sẽ có hai tiểu ban đặc trách của hai nước đáp máy bay đến tàu ‘Convention’. Hai tiểu ban này có đủ thẩm quyền thông qua những quyết định cấp thời và áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh cho nước mình và cho toàn thế giới.

Vậy là vào giờ ấy tàu sân bay ‘Convention’ đang ở ngoài khơi Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Alent với khoảng cách như nhau giữa Vlapostok và San Fransisco. Sự lựa chọn tọa độ này không phải ngẫu nhiên, hơn bao giờ hết, lần này thể hiện rõ ràng quan điểm nhìn xa trông rộng và thận trọng của các tác giả chương trình ‘Demiurge’, bởi lẽ ngay cả vị trí của con tàu, nơi thực thi kế hoạch nghiên cứu vũ trụ do hai bên cùng soạn thảo, đã nói lên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tuyệt đối ngang quyền trong sự hợp tác khoa học-kỹ thuật quốc tế độc đáo này.

Tàu sân bay ‘Convention’ với toàn bộ trang thiết bị và năng lượng dự trữ là đồng sở hữu của cả hai phía, là con tàu hợp tác mà hai nước chung cổ phần. Nó có liên lạc vô tuyến điện thoại - truyền hình trực tiếp và đồng thời với hai sân bay vũ trụ Nevada và Sarozek. Trên tàu có tám máy bay phản lực, mỗi bên bốn chiếc, làm nhiệm vụ giao thông vận chuyển thường xuyên trong các quan hệ hàng ngày với lục địa. Trên tàu, song song có hai thuyền trưởng - một của Liên Xô, một của Mỹ: thuyền trưởng song đôi 1-2 và thuyền trưởng song đôi 2-1; mỗi vị, vào giờ trực của mình, sẽ là thuyền trưởng chính. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu đều có biên chế song đôi tương ứng: trợ lý, hoa tiêu, thợ máy, thợ điện, thuỷ thủ và chiêu đãi viên…

Dĩ nhiên, trước tất cả những cái đó,, đã từng diễn ra một công tác chuẩn bị lớn lao và đa dạng của các cơ quan khoa học, ngoại giao và hành chính ở cả hai nước. Phải tốn nhiều năm, sau vô số cuộc gặp gỡ và thảo luận, hai bên mới đi tới chỗ nhất trí phối hợp mọi vấn đề chung và riêng của chương trình ‘Demiurge’.

Chương trình ‘Demiurge’ đặt ra nhiệm vụ vô cùng to lớn của những vấn đề vũ trụ học trong thế kỷ này - đó là nghiên cứu hành tinh X, nhằm sử dụng các nguồn khoáng sản của nó đang ẩn tàng một nguồn năng lượng ngoài sức tưởng tượng của Trái Đất. Một trăm tấn chất liệu của hành tinh X, nằm gần như lộ thiên trên bề mặt hành tinh ấy, nếu được xử lý thỏa đáng sẽ giải phóng một số năng lượng dưới dạng điện năng và nhiệt năng, đủ dùng cho cả châu Âu suốt một năm. Vật chất trên hành tinh X đã xuất hiện trong những điều kiện đặc biệt của dải Thiên Hà do tác động tiến hóa lâu dài qua nhiều tỉ năm, đã tích luỹ thành một nguồn năng lượng lớn lao như vậy. Đó là kết quả xét nghiệm một số chất liệu do các thiết bị vũ trụ đã lấy từ bề mặt hành tinh X đem về nhiều lần, đó cũng là kết luận của một vài đoàn thám hiểm đã nhiều lần hạ cánh xuống hành tinh đỏ rực ấy, trong Thái Dương Hệ chúng ta.

Yếu tố quyết định để người ta ủng hộ dự án khai thác hành tinh X là, hơn bất cứ hành tinh nào khác mà khoa học biết tới, kể cả Mặt Trăng và Sao Kim, ở đấy có nước tự do tràn trề giữa lòng hành tinh mà bề ngoài tưởng như toàn sa mạc đó, các mũi khoan đã xác nhận rằng trên hành tinh X hiển nhiên có nước. Theo tính toán của các nhà khoa học, bên dưới bề mặt hành tinh X có thể có một lớp nước dày tới mấy kilomet được lưu giữ cố định bởi những tầng nham thạch nằm sâu bên dưới.

Chính sự tồn tại của khối nước lớn ngần ấy trên hành tinh X đã bảo đảm tính hiện thực của chương trình ‘Demiurge’. Nước ở đây không chỉ là nguồn độ ẩm, mà còn là chất khởi đầu để tổng hợp những chất khác, cần thiết cho việc duy trì sự sống và hoạt động bình thường của cơ thể con người. Trước hết là tổng hợp không khí để thở. Ngoài ra, từ góc độ sản xuất, nước còn đóng vai trò chủ yếu trong công nghệ sơ tuyển chất liệu của hành tinh X, trước khi chuyển về Trái Đất.

Người ta còn thảo luận vấn đề nên khai thác năng lượng của hành tinh X ở đâu: trên các trạm quỹ đạo trong vũ trụ, rồi truyền năng lượng xuống Trái Đất theo các quỹ đạo đồng đẳng, hay là ngay trên Trái Đất. Thời gian chẳng gấp gáp lắm.

Một đoàn thám hiểm lớn được hình thành gồm các thợ khoan và chuyên viên thuỷ văn để làm việc dài ngày trên hành tinh X lắp đặt thiết bị tự động và thường xuyên hút nước từ lòng hành tinh X vào hệ thống đường ống dẫn nước. Trạm quỹ đạo ‘Paritet’, nói theo thuật ngữ của các vận động viên leo núi, là trạm dừng chân chủ yếu, trên đường tới hành tinh X. Trên trạm ‘Paritet’ đã có những thiết bị cần thiết cho những tàu ‘con thoi’ sẽ đi đi về về làm nhiệm vụ chuyên chở giữa sao X và trạm ‘Paritet’. Với thời gian, khi đã lắp đặt xong các khối, trạm ‘Paritet’ có thể chứa được hơn một trăm người với đầy đủ tiện nghi, kể cả việc thường xuyên thưởng thức các chương trình ti vi phát từ Trái Đất.

Trên cái xí nghiệp vũ trụ bề thế này, việc khai thác và phân tích nước của hành tinh X sẽ là công đoạn sản xuất đầu tiên do con người tiến hành ở bên ngoài Trái Đất.

Và ngày ấy đang tới gần. Mọi việc đều diễn ra theo chiều hướng đó…

Tại hai sân bay vũ trụ Nevada và Sarozek, đang hoàn tất công việc chuẩn bị cuối cùng cho chiến dịch kỹ thuật thuỷ văn trên sao X. Trạm ‘Paritet’ trên quỹ đạo ‘Tramplin’ đã sẵn sàng đón và gửi đến sao X tốp ‘thợ khai hoang vũ trụ’ đầu tiên.

Loài người thực sự đang đứng bên ngưỡng cửa của nền văn minh bên ngoài trái đất.

Đúng vào thời điểm ấy, trước khi cử tốp chuyên viên thuỷ văn đầu tiên lên sao X, hai phi công vũ trụ song đôi, làm việc dài ngày trên quỹ đạo ‘Tramplin’, trong con tàu ‘Paritet’, đột nhiên biến mất…

Đột nhiên họ ngừng trả lời mọi tín hiệu liên lạc vào những buổi qui định lẫn bất thường. Ấn tượng thật là nặng nề! Ngoài những bộ cảm ứng thường xuyên ghi nhận vị trí của trạm, ngoài kênh điều chỉnh sự di chuyển của trạm, tất cả các hệ thống liên lạc vô tuyến-truyền hình đều ngừng hoạt động.

Thời gian trôi qua ‘Paritet’ không đáp lại bất kỳ tiếng gọi nào từ mặt đất phát lên. Nỗi lo ngại trên tàu ‘Convention’ tăng dần. Đủ mọi dự đoán, và giả thiết được đưa ra. Hai ông phi công vũ trụ song đôi trên ấy làm sao rồi? Vì lẽ gì họ im lặng? Họ đau ốm, hay bị ngộ độc thức ăn? Và nói chung, liệu họ còn sống hay đã chết? Các chuyên viên từ mặt đất đã sử dụng đến phương tiện khẩn cấp là phát đi tín hiệu vận hành hệ thống báo động cứu hỏa trên trạm, cũng không có bất kỳ phản ứng nào đáp lại tín hiệu đáng sợ đó.

Chương trình ‘Demiurge’ bị đe dọa nghiêm trọng. Và lúc ấy trung tâm điều khiển tàu ‘Convention’ đã sử dụng đến khả năng cuối cùng của mình để làm sáng tỏ tình hình. Hai con tàu vũ trụ với hai phi công được cấp tốc phóng lên từ hai sân bay vũ trụ Nevada và Sarozek để lắp ghép với trạm ‘Paritet’.

Khi sự lắp ghép đồng thời đã hoàn tất - riêng việc này đã cực kỳ khó khăn - thì tin tức đầu tiên do hai phi công kiểm tra lọt vào trạm ‘Paritet’ truyền về, khiến mọi người sửng sốt: sau khi đã xem xét mọi khoang tàu, mọi phòng thí nghiệm, kiểm tra đến từng ngóc ngách, họ báo về rằng không tìm thấy hai nhà du hành song đôi ở trên trạm…

Không một ai ngờ tới điều này. Không bộ óc tưởng tượng nào đủ sức hình dung chuyện gì đã xảy ra: hai con người đã từng làm việc hơn ba tháng trên trạm quỹ đạo và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nay đột nhiên biến mất. Họ không thể bốc thành hơi! Họ cũng không thể bước ra khoảng không vũ trụ!

Buổi khảo sát trạm ‘Paritet’ diễn ra với sự liên lạc vô tuyến-truyền hình trực tiếp với ‘Convention’, với sự tham gia trực tiếp của cả hai vị tổng chủ nhiệm song đôi. Vô số màn ảnh của trung tâm điều khiển cho thấy rõ hai phi công kiểm tra đang nói với nhau, đang bơi trong trạng thái phi trọng lượng để xem xét mọi ngăn trên trạm quỹ đạo như thế nào. Họ đã soát xét trạm từng bước một và liên tục báo cáo về Trái Đất, mọi lời trao đổi đều được ghi lại trên băng từ:

‘Paritet’: Trung tâm vẫn theo dõi đấy chứ? Trên trạm không có ai hết, chúng tôi không phát hiện được ai cả.

‘Convention’: Trên trạm có dấu vết đổ vỡ, hư hại của vật gì không?

‘Paritet’: Không, tất cả vẫn ở nguyên vị trí của chúng, tất cả vẫn đâu vào đấy.

‘Convention’: Các anh có thấy vết máu không?

‘Paritet’: Hoàn toàn không.

‘Convention’: Các đồ dùng cá nhân của hai phi công sóng đôi nằm ở đâu và trong tình trạng thế nào?

‘Paritet’: Hình như tất cả vẫn ở chỗ của nó.

‘Convention’: Hãy xét kỹ xem.

‘Paritet’: Có cảm tưởng rằng họ mới có mặt ở đây thôi. Sách vở, đồng hồ, máy quay đĩa và mọi đồ dùng khác còn nguyên tại chỗ.

‘Convention’: Tốt, có ghi chép gì trên tường hay trên giấy không?

‘Paritet’: Chưa nhìn thấy, à đây rồi! Sổ trực để mở và có nhiều dòng ghi chép. Để sổ trực khỏi bay trong trạng thái phi trọng lượng, nó được kẹp chặt lại và để mở cho người bước vào dễ nhìn thấy….

‘Convention’: Các anh hãy đọc xem ở đó viết gì!

‘Paritet’: Vâng, đây là hai cột chữ đứng sóng đôi, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Nga…

‘Convention’: Đọc đi, sao các anh cứ chần chừ thế!

‘Paritet’: Tiêu đề: “Thông điệp gởi Trái Đất”, trong dấu ngoặc đơn có lời giải thích.

‘Convention’: Stop. Đừng đọc vội, buổi liên lạc tạm ngừng. Các anh hãy chờ, một lát nữa chúng tôi sẽ gọi các anh. Cứ chuẩn bị sẵn sàng nhé!

‘Paritet’: Ôke!

Đến đây cuộc đối thoại giữa trạm quỹ đạo và trung tâm điều khiển tạm ngừng. Sau khi trao đổi ý kiến, hai vị tổng chủ nhiệm chương trình ‘Demiurge’ đề nghị tất cả mọi người, trừ hai chuyên viên trực song đôi, rời khỏi khối liên lạc vũ trụ. Chỉ sau đó buổi liên lạc hai phía mới được tiếp tục.

Sau đây là toàn văn bức thư hai phi công vũ trụ song đôi để lại trên quỹ đạo ‘Tramplin’:

“Thưa các đồng nghiệp kính mến, vì chúng tôi sắp rời trạm quỹ đạo ‘Paritet’ ít lâu, mà cũng có thể rất lâu, trong hoàn cảnh rất dị thường. Mọi việc sẽ phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố có liên quan tới việc làm chưa từng bao giờ có của chúng tôi, cho nên chúng tôi cho rằng mình có nghĩa vụ bắt buộc phải tường trình động cơ hành động của chúng tôi.

Chúng tôi nhận thức rõ ràng hành động của chúng tôi hiển nhiên không những bất ngờ, mà còn rõ ràng là trái phép, nếu xét từ yêu cầu kỷ luật sơ đẳng. Song một sự kiện đặc biệt mà chúng tôi gặp phải khi ở trên trạm quỹ đạo trong vũ trụ, một sự kiện vượt quá sức tưởng tượng của loài người, cho phép chúng tôi trông đợi ít ra vào sự cảm thông…

Trước đây ít lâu chúng tôi có bắt được - trong hằng hà sa số những xung vô tuyến, phát từ không gian vũ trụ và một phần đáng kể từ tầng điện ly của trái đất vốn tràn ngập tiếng ồn và nhiễu, - một tín hiệu vô tuyến trên một dãy tần số hẹp. Tín hiệu ấy, vì là rất hẹp nên rất dễ bắt, cứ thường xuyên tự báo tin về nó theo thời gian và thời khoảng định kỳ.

Lúc đầu chúng tôi không chú ý lắm. Nhưng nó cứ dai dẳng, kiên trì báo tin, luôn luôn phát đi từ một điểm xác định của Vũ Trụ, và định hướng chính xác về phía trạm quỹ đạo của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi đã biết rằng các sóng vô tuyến được định hướng nhân tạo ấy đã được tung vào không trung từ rất lâu, trước khi chúng tôi lên trực trên trạm quỹ đạo này - tốp chúng tôi là tốp trực thứ ba. Bởi vì ‘Paritet’ đã hoạt động trên quỹ đạo ‘Tramplin’ giữa vũ trụ xa xôi được hơn một năm rưỡi.

Khó giải thích tại sao, chắc hẳn hoàn toàn do tình cờ, chúng tôi lại là những người đầu tiên quan tâm đến tín hiệu ấy. Dẫu sao chúng tôi cũng bắt đầu quan sát, ghi nhận, nghiên cứu bản chất của hiện tượng đó. Và dần dần, với niềm tin ngày càng chắc chắn, chúng tôi đã đi tới kết luận về nguồn gốc nhân tạo của tín hiệu đó!

Nhưng không phải chúng tôi dễ dàng quen ngay với ý nghĩ ấy. Sự nghi ngờ luôn luôn ám ảnh chúng tôi. Làm sao chúng tôi có thể khẳng định sự tồn tại của một nền văn minh ngoài trái đất nếu chỉ dựa trên sự kiện một tín hiệu vô tuyến mà chúng tôi cho đó là tín hiệu nhân tạo phát đi từ vũ trụ sâu thăm thẳm? Chúng tôi lưỡng lự, bởi vì mọi cố gắng trước đây của khoa học muốn thực hiện một nhiệm vụ tối thiểu nhằm phát hiện một dấu hiệu nào đó dù nhỏ nhất của sự sống, dưới dạng đơn giản nhất, ngay cả ở các hành tinh đồng giới hạn, đều vô hiệu như ta đã biết. Việc tìm kiếm trí tuệ ở bên ngoài Trái Đất quá ít hy vọng, nếu không bị coi là hoang tưởng, bởi lẽ, với mỗi bước tiến mới trong công cuộc nghiên cứu khoảng không vũ trụ thì khả năng ấy, dù trên bình diện lý luận, càng trở nên ít hơn, nếu không nói là bằng zêro.

Chúng tôi không định tranh cãi với tư tưởng đã được khẳng định về tính chất độc nhất vô nhị của sự sống như một hiện tượng sinh học chỉ tồn tại duy nhất trên hành tinh Trái Đất. Chúng tôi cho rằng mình không nhất thiết phải chia sẻ những sự nghi ngờ của mình, bởi vì trong chương trình công tác của chúng tôi trên trạm quỹ đạo không hề có nhiệm vụ quan sát đó. Thật tình chúng tôi không muốn, ngoài mọi lẽ ra, lâm vào tình thế của nhà du hành vũ trụ nọ đã một lần hoa mắt nhìn thấy con bò trên cánh đồng và đàn cừu gặm cỏ ven sông. Từ đấy anh ta bị mọi người tặng cho biệt hiệu ‘Nhà du bò’.

Giờ đây chúng tôi đã trải qua một bước nhảy vọt, một bước ngoặt, một sự cải biến ý thức trong quan niệm về cấu tạo thế giới, và đột nhiên phát hiện rằng mình đã bắt đầu tư duy bằng những phạm trù hoàn toàn khác so với trước đó. Nhận thức hoàn toàn mới về cấu tạo của vũ trụ, việc phát hiện không gian có sự sống mới, sự tồn tại của một khu vực năng lượng trí tuệ cực mạnh… đã đưa chúng tôi tới kết luận rằng chưa nên báo tin cho Trái Đất biết phát hiện này. Chúng tôi đã quyết định như vậy vì lợi ích của chính xã hội hiện đại.

Bây giờ xin trình bày thực chất vấn đề.

Một bữa, vì tò mò, chúng tôi đã quyết định phát tín hiệu vô tuyến trả lời, cùng trong dải băng tần với tín hiệu nọ, hướng nó về cái điểm của Vũ trụ, nơi từ đó thường xuyên có các xung vô tuyến bí ẩn truyền đến chúng tôi.

Điều thần kỳ đã xảy ra! Tín hiệu của chúng tôi được tiếp nhận tức thời! Nó được bắt và được hiểu. Đáp lại, trên dải tần số tiếp nhận của chúng tôi liền thêm một tín hiệu, rồi thêm một tín hiệu nữa bên cạnh tín hiệu cũ. Có thể gọi đó là bè Trio chào mừng, đó là ba tín hiệu vô tuyến đồng thời từ Vũ Trụ, suốt mấy giờ được truyền đi như hành khúc thắng lợi, đem theo cái tin hân hoan về những sinh vật có trí tuệ ở bên ngoài hệ Thiên Hà của chúng ta, những sinh vật có năng lực cao nhất, tiếp xúc với những sinh vật giống mình, tại các khoảng cách siêu xa.

Đó là cuộc cách mạng trong quan niệm của chúng tôi về sinh học vũ trụ, trong nhận thức về cấu tạo của thời gian, không gian, khoảng cách… Chẳng lẽ chúng ta đơn độc trên thế gian, không phải là độc nhất vô nhị giữa vũ trụ bao la vô tận, chẳng lẽ kinh nghiệm của con người trên Trái Đất không phải là sự hiện hữu tinh thần duy nhất trong Vũ Trụ?…

Để kiểm tra tính hiện thực của việc phát hiện nền văn minh bên ngoài Trái Đất, chúng tôi đã phát đi tín hiệu vô tuyến bằng công thức về khối lượng của địa cầu, về những gì là khởi nguyên và đang là nền tảng của sự sống chúng ta. Chúng tôi nhận được giải mã - đến lượt mình - họ đã phát đi công thức về khối lượng hành tinh của họ. Qua công thức ấy chúng tôi rút ra kết luận, rằng hành tinh kia tương đối lớn và có sức hút đáng kể.

Đôi bên đã trao đổi những kiến thức đầu tiên về các qui luật vật lý, và lần đầu tiên chúng tôi đã tiếp xúc với những sinh vật có trí tuệ ở bên ngoài Trái Đất theo cách đó.

Các sinh vật ấy tỏ ra là những người đối thoại tích cực với nghĩa củng cố và làm gần lại các quan hệ liên lạc với chúng tôi. Nhờ cố gắng của họ, sự tiếp xúc giữa đôi bên nhanh chóng mang thêm nội dung ngày càng mới mẻ. Chẳng bao lâu, chúng tôi được biết rằng họ có những thiết bị bay ngang với vận tốc ánh sáng. Tất cả những điều chúng tôi biết được là nhờ khả năng trao đổi ý kiến, lúc đầu bằng các công thức toán học và hóa học, sau đó họ tỏ cho chúng tôi hiểu rằng họ còn biết nói thành lời.

Thì ra, đã nhiều năm, kể từ khi con người vượt qua sức hút của Trái Đất đi vào vũ trụ và hoạt động khá ổn định trên đó, các sinh vật của hành tinh kia đã nghiên cứu các ngôn ngữ của chúng ta bằng thiết bị nghe vũ trụ cực mạnh. Do bắt được sóng liên lạc vô tuyến có hệ thống giữa vũ trụ và Trái Đất, họ đã khôn ngoan giải mã - thông qua so sánh và phân tích - mà hiểu được ý nghĩa các từ ngữ và câu nói của chúng ta. Tự chúng tôi tin như vậy, khi họ thử đối thoại với chúng tôi bằng tiếng Anh và tiếng Nga. Lại thêm một phát hiện chưa từng có, đầy sửng sốt…

Bây giờ xin đề cập đến điều chủ yếu.

Chúng tôi đã đánh bạo quyết định tới thăm hành tinh nọ, mà tên gọi của nó tạm giải mã là Ngực Rừng. Các sinh vật Ngực Rừng mời chúng tôi, đó là sáng kiến của họ. Và chúng tôi đã quyết định, sau khi suy xét kỹ lưỡng. Họ giải thích với chúng tôi rằng thiết bị bay của họ, với vận tốc ánh sáng, sẽ bay tới trạm quỹ đạo của chúng ta sau hai mươi sáu, hai mươi bảy giờ. Bất cứ lúc nào chúng tôi muốn, họ cam kết sẽ đưa chúng tôi trở lại trạm cũng bằng ngần ấy thời gian. Về chuyện lắp ghép, họ giải thích rằng không có gì đáng ngại bởi vì thiết bị bay của họ có khả năng ráp kín vào bất kỳ vật nào, với hình dạng và cấu tạo tuỳ ý, chắc đó phải là một đặc tính nào đó của việc lắp ráp điện từ. Chúng tôi quyết định tốt nhất là thiết bị bay của họ sẽ tiếp cận cửa bước ra vũ trụ của trạm, để chúng tôi có thể chuyển từ trạm sang thiết bị của họ. Cũng bằng con đường ấy, chúng tôi dự kiến sẽ trở về trạm. Tất nhiên, nếu chuyến tham quan Ngực Rừng hoàn tất mỹ mãn.

Vậy chúng tôi để lại trong trạm ‘Paritet’ bức thông điệp này, hoặc gọi nó là tờ giải trình, là thư ngỏ, là lời kêu gọi cũng được. Thực chất không phải ở đó… Chúng tôi khá tỉnh táo để hiểu mình đi đâu và tự gánh lấy trách nhiệm nặng nề như thế nào… Chúng tôi nhận thức rằng số phận đã dành cho chính chúng tôi cái khả năng có một không hai được phục vụ nhân loại, một sự phục vụ mà chúng tôi cho là cao quý hơn hết thảy…

Dầu vậy, điều khổ tâm nhất đối với chúng tôi là phải nén đi ý thức nghĩa vụ, tinh thần kỷ luật, sự gắn bó, và cuối cùng… nén đi tình cảm đã được bồi đắp trong mỗi chúng ta, bởi các truyền thống lâu đời, bởi các qui tắc, tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Chúng tôi rời trạm ‘Paritet’ mà không báo tin cho hai vị chỉ huy trung tâm điều khiển và nói chung, tất cả mọi người Trái Đất. Không phối hợp các mục đích và nhiệm vụ của mình với bất cứ ai dưới bất kỳ hình thức nào, không phải chúng tôi coi thường qui tắc đời sống xã hội Trái Đất. Đối với chúng tôi, đó từng là đề tài phải suy nghĩ nặng nề nhất. Chúng tôi buộc phải hành động như vậy, bởi vì có thể dễ dàng hình dung những tâm trạng, mâu thuẫn, ý muốn nào sẽ xuất hiện tràn lan ngay khi các thế lực bắt đầu hành sự, những thế lực thậm chí coi việc thắng thêm một trái khúc côn cầu là thắng lợi chính trị và là điểm ưu việt của hệ thống nhà nước của mình. Than ôi, chúng tôi biết quá rõ thực tế ở Trái Đất chúng ta! Ai có thể đoán chắc, rằng khả năng tiếp xúc với nền văn minh bên ngoài Trái Đất sẽ không trở thành một cái cớ nữa để gây chiến tranh thế giới tàn sát con người?

Ở Trái Đất rất khó hoặc gần như không thể né tránh cuộc đấu tranh chính trị. Nhưng khi ở lâu - nhiều ngày và nhiều tuần - trong vũ trụ xa xôi, nơi từ đó nhìn về Trái Đất chỉ thấy nó chẳng lớn hơn một cái bánh xe ô tô, chúng tôi đau đớn và giận dữ bất lực nghĩ rằng cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay đang đẩy xã hội tới chỗ tuyệt vọng, điên cuồng, khiến vài nước nào đó muốn sử dụng bom nguyên tử - thực ra chỉ là một vấn đề kỹ thuật lớn mà thôi. Ví thử các nước ấy có thể thỏa thuận với nhau…, rằng điều quan trọng hơn….

Vì lo ngại gây xáo động, làm phức tạp thêm tình hình vốn chứa đầy nguy cơ của Trái Đất, chúng tôi mạnh dạn nhận lãnh một trách nhiệm chưa từng có là nhân danh toàn bộ loài người mà tiếp xúc với những sinh vật có trí tuệ ở bên ngoài Trái Đất, phù hợp với các xác tín và lương tâm của mình. Chúng tôi hy vọng và tự tin rằng mình sẽ hoàn thành sứ mệnh tự nguyện một cách xứng đáng…

Và xin nói điểm cuối cùng.

Trong các suy nghĩ, nghi ngại và phân vân của mình, chúng tôi đã lo lắng không ít về việc làm sao không gây thiệt hại cho chương trình ‘Demiurge’ - một sự khởi đầu vĩ đại trong lịch sử địa chất vũ trụ của loài người trải qua nhiều năm đau khổ vì nghi ngờ, hết tăng lại giảm sự hợp tác lẫn nhau. Tuy nhiên, lý trí đã thắng - và chúng tôi tự nguyện phục vụ sự nghiệp chung tuỳ theo sức lực và khả năng của mình. Nhưng sau khi đối sánh mọi lẽ, và không muốn thử thách chương trình ‘Demiurge’ do những lo ngại trên, chúng tôi đã chọn phương án của mình. Chúng tôi chỉ tạm thời rời trạm ‘Paritet’, để khi trở về sẽ báo cáo với loài người về kết quả tham quan hành tinh Ngực Rừng. Nếu chúng tôi mất tích vĩnh viễn, hoặc nếu ban chỉ huy thấy chúng tôi không còn xứng đáng tiếp tục làm việc trên trạm ‘Paritet’ nữa, thì việc thay thế chúng tôi sẽ không đến nỗi phức tạp, bao giờ cũng sẽ tìm được những người làm việc không kém gì chúng tôi.

Chúng tôi đi sâu vào chốn chưa ai biết tới. Điều dẫn chúng tôi tới đó là khát vọng hiểu biết và ước mơ ngàn đời của con người muốn phát hiện những sinh vật có trí tuệ giống mình ở các thế giới khác, để trí tuệ được liên kết với trí tuệ. Song chưa ai biết kinh nghiệm của nền văn minh ngoài Trái Đất tiềm ẩn thiện chí hay ác ý đến với loài người, chúng tôi sẽ cố gắng khách quan trong cách đánh giá. Nếu cảm thấy phát hiện của mình có thể chứa đựng một chút gì đe dọa, phá hoại Trái Đất, chúng tôi xin thề sẽ ứng xử xứng hợp để không gây bất kỳ tai họa nào cho hành tinh của chúng ta.

Thêm một điểm cuối cùng nữa, chúng tôi sắp từ biệt trạm.

Qua cửa sổ, chúng tôi nhìn thấy một phía của Trái Đất rạng rỡ như một viên ngọc lung linh giữa biển không gian đem thẳm. Trái Đất đẹp tuyệt vời bởi màu xanh hiếm thấy và trông yếu ớt, mong manh như mái đầu trẻ thơ. Từ đây, chúng tôi cảm thấy mọi người đang sống trên đời, hết thảy họ đều là anh chị em của chúng tôi, và chúng tôi không dám tưởng tượng rằng mình có thể sống thiếu họ, tuy chúng tôi biết rằng ở dưới Trái Đất lại hoàn toàn chưa phải như vậy…

Chúng tôi sắp từ giã địa cầu. Vài giờ nữa chúng tôi sẽ rời khỏi quỹ đạo ‘Tramplin’, và khi đó sẽ không thể nhìn thấy Trái Đất nữa. Các sinh vật Ngực Rừng đang trên đường tới đón chúng tôi, họ đã gần đến quỹ đạo của chúng ta. Chỉ ít phút nữa thôi, chúng tôi đang chờ.

Cuối cùng chúng tôi xin gửi lại thư cho gia đình chúng tôi, tha thiết đề nghị tất cả những ai có quan hệ tới việc này hãy chuyển giúp thư của chúng tôi tới đúng địa chỉ.

Tái bút: Chỉ dẫn những ai sẽ lên thế chỗ chúng tôi trên trạm ‘Paritet’: trong sổ trực, chúng tôi có ghi rõ kênh thu-phát và tần số những sóng vô tuyến mà nhờ đó chúng tôi đã tiếp xúc với các sinh vật Ngực Rừng. Nếu cần, chúng tôi sẽ liên lạc và truyền tin về theo kênh đó. Theo chỗ chúng tôi đã xác định được từ các buổi trao đổi vô tuyến với hành tinh Ngực Rừng, thì cách liên lạc thuận tiện và duy nhất là hệ thống của trạm tự động. Bởi vì các tín hiệu vô tuyến mà Vũ Trụ phát thẳng về phía Trái Đất không thể tới được bề mặt Trái Đất, vì chướng ngại sừng sững là tầng điện ly dày đặc trong khí quyển bao quanh Trái Đất.

Xin ngừng bút ở đây. Vĩnh biệt. Chúng tôi đã tới lúc ra đi.

Toàn văn thông điệp này được viết bằng hai thứ tiếng Anh và Nga.

PHI CÔNG VŨ TRỤ SONG ĐÔI 1-2

PHI CÔNG VŨ TRỤ SONG ĐÔI 2-1

Trạm quỹ đạo ‘Paritet’

Đợt trực ban thứ ba. Ngày thứ 94″

- - -

Đúng thời hạn qui định, vào lúc mười một giờ theo giờ Viễn Đông, hai chiếc máy bay phản lực chở hai tiểu ban có thẩm quyền đặc biệt, một của Mỹ, một của Liên Xô, đã lần lượt hạ cánh xuống tàu sân bay ‘Convention’.

Các uỷ viên của hai tiểu ban được đón tiếp đúng theo nghi thức. Họ lập tức được thông báo rằng họ sẽ dùng bữa trưa trong nửa giờ, liền sau đó sẽ phải có mặt tại phòng sĩ quan để dự phiên họp kín do tình hình đặc biệt trên trạm quỹ đạo ‘Paritet’.

Nhưng phiên họp vừa khai mạc thì đột ngột bị gián đoạn. Hai phi công vũ trụ-kiểm tra đang ở trên trạm ‘Paritet’ vừa truyền về Trung tâm điều khiển ở tàu ‘Convention’ bản tin đầu tiên mà họ nhận được của hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1, từ hệ Thiên Hà láng giềng, hành tinh Ngực Rừng…