Chương 4
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.
Ở vùng này mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich…
Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Nói gì thì nói, đường đến nghĩa địa Ana-Bejit của bộ tộc Najman dầu sao cũng xa, tới ba mươi versta, phải luôn luôn dùng mắt lấy các bụi gai làm mốc để nắn đường đi cho thẳng.
Hôm nay Edigej-Bão Tuyết dậy sớm, vả lại bác cũng có ngủ nghê gì đâu, gần sáng mới thiếp đi một chút. Còn trước đó, bác bận chuẩn bị khâm liệm cho Kazangap. Thông thường người ta làm việc ấy vào ngày chôn cất, không lâu trước lúc khiêng quan tài ra, giữa khi tất cả đang cầu nguyện. Đằng này mọi việc phải hoàn tất trong đêm, để sáng ra có thể lên đường ngay không chậm trễ. Bác tự làm lấy tất cả, nếu không kể việc Edilbaj-Cò Hương bưng nước ấm tới để lau rửa. Edilbaj hơi ngần ngại, đứng cách xa người chết. Tất nhiên bác ta thấy sờ sợ, Edigej làm như vô tình bảo:
- Chú Edilbaj nhìn cho kỹ nhé, có lúc trong đời sẽ cần đến. Con người đã sinh ra thì sẽ có lúc phải chôn cất thôi.
- Vâng, tôi hiểu - Edilbaj rụt rè trả lời.
- Đúng thế, giả dụ ngày mai tôi chết. Chẳng lẽ không tìm được ai biết khâm liệm ư? Các chú cứ hất đại xác tôi xuống một cái hố nào chăng?
- Sao lại thế ạ! - Edilbaj lúng túng soi đèn cho Edigej và cố mon men đến cạnh tử thi. - Vắng bác thì ở đây chán lắm, vậy xin bác hãy sống đã. Còn cái hố cứ để nó chờ.
Việc khâm liệm chiếm gần một giờ rưỡi. Edigej rất hài lòng, bác lau rửa người quá cố chu đáo, đặt hai tay hai chân cho thẳng rồi quấn đai đúng thể thức, không hề tiếc vải. Vừa làm bác vừa chỉ dẫn cho Edilbaj. Xong xuôi, bác sửa sang lại bản thân mình cho tử tế. Bác cạo râu, sửa ria. Bộ ria của bác cũng dày rậm như lông mày và đã lấm tấm sợi bạc. Edigej không quên đeo các huy chương chiến sĩ, các huân chương và huy hiệu thi đua của mình lên ngực, chuẩn bị cho ngày mai.
Đêm đã qua. Và Edigej-Bão Tuyết ngạc nhiên với chính mình - tại sao bác lại làm tất cả những việc đó một cách đơn giản và bình tĩnh như vậy! Nếu trước đây có ai bảo bác phải làm cái việc đáng buồn ấy, chắc bác chẳng tin. Như vậy là định mệnh đã an bài, rằng người chôn cất Kazangap sẽ phải là bác. Cái số nó thế.
Đúng vậy, ai có thể ngờ chuyện này hồi hai người gặp nhau lần đầu tiên ở ga Kumbel. Sau khi bị chấn thương, vào cuối năm bốn mươi tư, Edigej được giải ngũ. Nhìn bề ngoài, dường như tất cả vẫn đâu vào đó - tay chân còn nguyên vẹn, cái đầu vẫn ở trên vai, có điều đúng là nó không phải của mình nữa. Hai tai cứ ù ù như có gió thổi, đi vài bước đã chông chênh, mắt mũi tối sầm, buồn nôn, mồ hôi vã ra như tắm. Thỉnh thoảng cái lưỡi bất tuân thượng lệnh, vất vả lắm mới nói được một tiếng. Edigej đã bị chấn thương thực sự bởi sóng nổ của một viên đạn trái phá Đức. Nó không giết chết anh, nhưng sống thế này thì phỏng có ích gì. Dạo ấy Edigej vô cùng chán nản. Trẻ trung, trông bề ngoài khỏe mạnh, nhưng nếu trở về quê hương - vùng biển Aral - thì anh sẽ làm gì, có ích gì đâu? May thay gặp được ông bác sĩ giỏi! Ông ấy thậm chí không điều trị cho anh, mà chỉ khám, chỉ nghe, chỉ kiểm tra. Bây giờ Edigej còn nhớ đấy là một người đàn ông tóc hung, vạm vỡ, mặc blu trắng, đội mũ trắng, mắt sáng, mũi to. Ông vui vẻ vỗ vai anh cười:
- Người anh em thấy đó, chiến tranh sắp chấm dứt rồi, nếu không thì tôi sẽ trả anh về đơn vị cũ để anh đánh đấm vài trận nữa. Nhưng thôi, thiếu anh, chúng ta cũng sẽ có cách đi tới chiến thắng. Có điều là anh đừng lo lắng gì cả, chỉ một năm nữa hoặc có thể sớm hơn, mọi việc sẽ đâu vào đấy, anh sẽ khỏe như vâm. Tôi nói thật đấy, sau này anh sẽ nhớ lại lời tôi nói hôm nay. Còn bây giờ thì anh thu xếp về quê đi và chớ có buồn, những người như anh phải sống đến trăm tuổi cơ…
Ông bác sĩ ấy hóa ra nói thật, sự việc đúng như vậy. Tuy rằng nói sau một năm thì dễ quá, chứ khi rời quân y viện, với chiếc áo va rơi nhàu nát, chiếc túi vải sau lưng và một cây nạng đề phòng bất trắc, anh bước ra đường phố mà cứ như lọt vào rừng rậm. Đầu váng, chân run, mặt mũi xây xẩm. Tại các nhà ga và trên các chuyến tàu hoả, cảnh tượng hỗn loạn, người đông như kiến, mạnh ai nấy lo, chen lấn xô đẩy nhau. Dẫu sao anh cũng lần về tới nhà. Sau một tháng trời vật vã, đêm ấy đoàn tàu dừng bánh ở ga Aralsk. Người ta đặt cho đoàn tàu ‘tuyệt vời’ ấy biệt hiệu ‘tàu năm lẻ bảy vui tính’ - mong sao đừng bao giờ có ai phải đáp những chuyến tàu như thế…
Nhưng hồi ấy được đi tàu đã phúc. Edigej dò dẫm trong bóng tối, bò xuống khỏi toa như tụt từ một quả núi xuống. Chung quanh tối đen như mực, chỉ le lói vài ánh đèn nhà ga. Trời gió mạnh, vậy là gió đã đón anh, thứ gió quê hương, gió biển Aral của anh! Hơi biển phả vào mặt. Hồi ấy ga đặt sát biển, sóng vỗ ì oạp ngay dưới chân đường tàu. Chứ bây giờ có ống nhòm cũng chả thấy biển đằng xa…
Anh nín thở - từ đồng cỏ đưa đến thoang thoảng mùi ngải cứu, hơi hướng mùa xuân sắp về với vùng ven biển Aral. Quê hương thân thiết đây rồi!
Edigej thông thuộc nhà ga và cái thị trấn cạnh ga, nằm trên bờ biển với những con đường nhỏ quanh co. Bùn lép nhép dính vào đôi ủng, anh tới nhà người quen định ngủ nhờ để sáng mai về làng chài Zhageldi của mình nằm cách ga khá xa. Anh không để ý rằng con đường đưa anh ra rìa thị trấn ăn sát bờ biển từ lúc nào. Không nén được, anh lần ra tận mép nước. Trong bóng đêm, chỉ đoán được biển qua những vệt sáng mờ mờ, qua các ngọn sóng trồi lên rì rào rồi lại hẫng xuống tức thì. Trăng gần sáng đã nhạt lắm, chỉ là một điểm trắng cô đơn nấp sau đám mây trên cao.
Thế là anh gặp lại biển.
- Chào Aral - Edigej thì thầm.
Anh ngồi ghé xuống một mỏm đá, châm thuốc, mặc dù các bác sĩ khuyên anh tuyệt đối không nên hút thuốc. Sau đó ít lâu anh mới bỏ hẳn thói quen tệ hại ấy, chứ hôm ấy anh rất xúc động - khói thuốc thì nghĩa lý gì, trong khi chưa rõ sẽ tiếp tục sống ra sao đây. Muốn đi biển hai tay phải rắn chắc, vùng thắt lưng phải khoẻ, và chủ yếu là cái đầu phải cứng để khỏi bị say sóng. Trước khi ra trận, anh là dân chài, còn bây giờ thì sao? Tàn phế chẳng ra tàn phế, nhưng nói chung là đồ vô tích sự. Mà trước hết là cái đầu không hợp với nghề đi biển nữa rồi, điều này đã rõ rành rành.
Edigej định đứng dậy, không biết từ đâu trên bờ có một con chó trắng xuất hiện. Nó chạy chầm chậm dọc mép nước, thỉnh thoảng dừng lại, ngửi ngửi cát ướt một cách chăm chú. Edigej vẫy nó, nó tin cậy tiến đến gần và đứng lại bên cạnh, đuôi ve vẩy. Edigej vỗ nhẹ vào cái cổ đầy lông của nó:
- Mày ở đâu chạy đến vậy? Tên mày là gì? Arstan? Zholbars? Boribasar?[7]. À, tao hiểu rồi, mày đi kiếm cá ven bờ. Khá, khá lắm! Nhưng không phải ngày nào biển cũng ném cá chết lên bờ đâu. Làm sao đây! Phải chạy mãi nên mày mới ốm thế này. Còn tao, tao đi về quê đây. Từ xứ Kenigsberg cơ đấy, chỉ cách thành phố ấy vài kilomet nữa là tao bị đạn trái phá quật ngã, may mà sống sót. Bây giờ tao đang lo nghĩ sẽ làm việc gì. Sao mày nhìn tao ghê thế? Tao chả có gì cho mày đâu, toàn huân chương với huy chương thôi. Chiến tranh, chỗ nào cũng đói, anh bạn ạ. Thương tật… À mà hượm đã, tao có miếng đường, định đem về làm quà cho con trai tao đây, con trai tao nó biết chạy rồi, chắc thế…
Edigej vội cởi chiếc túi vải, trong đó có một nhúm đường phèn bọc bằng giấy báo, một tấm khăn cho vợ, mua ở một nhà ga, hai cục xà bông, mua của dân phe phẩy. Trong túi vải còn có một bộ đồ lót của lính, thắt lưng, mũ calo, một chiếc áo va rơi dự trữ và một cái quần - đó là toàn bộ hành trang.
Con chó liếm đường trên bàn tay anh, nó nhai rau ráu, ve vẩy đuôi và nhìn anh bằng ánh mắt trung thành, chăm chú, tin cậy, tươi tỉnh.
- Thôi, tạm biệt nhé! - Edigej đứng dậy, đi dọc bờ biển. Anh quyết định không phiền người quen ở ga nữa. Trời sắp sáng rồi, nên đi luôn về làng mình thôi.
Mãi trưa hôm ấy Edigej mới về tới Zhangeldi bằng con đường lần theo bờ biển. Trước kia, anh vượt khoảng cách ấy chỉ mất hai giờ. Đến nhà, anh bị ngay một đòn choáng váng - thì ra thằng con trai bé bỏng của anh đã chết từ lâu. Khi Edigej nhập ngũ, thằng bé mới được sáu tháng. Cái số nó chỉ sống được mười một tháng. Nó bị lên sởi và không chịu nổi cái nóng bên trong, đã lìa đời. Gia đình không muốn viết thư cho bố nó biết, gởi đi đâu và viết làm gì kia chứ? Ngoài mặt trận thiếu tin đó cũng có khối chuyện đau lòng rồi. Nếu còn sống trở về, biết chuyện sẽ đau khổ ít lâu rồi qua đi, bà con họ hàng lập luận như thế và khuyên Ukubala đừng báo tin cho chồng. Anh chị còn trẻ, họ nói, hết chiến tranh, tha hồ mà đẻ. “Một cành bị gãy, chưa phải là tai họa, cái chính là thân cây phải nguyên vẹn”. Ngoài ra, mọi người cũng nghĩ, tuy không nói ra, nhưng ai cũng hiểu ngầm: ví dụ, lỡ anh ấy có bề nào, chiến tranh là chiến tranh, tên rơi đạn lạc, thì vào giây phút cuối cùng từ giã cõi đời, hãy để anh ấy hy vọng rằng còn đứa con trai ở nhà, dòng họ đâu đến nỗi tuyệt tự…
Ukubala tự hành hạ mình về mọi chuyện, chị nức nở ôm chặt người chồng vừa trở về. Chị đã chờ đợi ngày hôm nay với bao hy vọng và đau đớn như một người có lỗi, chị vừa kể vừa khóc sướt mướt, khiến các bà già phải cản ngăn. Thằng bé bị bệnh sởi rất nặng, căn bệnh ấy nguy hiểm vô cùng, lẽ ra phải dùng chăn ấm nhồi lông lạc đà quấn chặt thằng bé, đặt trong buồng tối, thường xuyên cho uống nước lạnh và kệ nó. Nếu trời tha cho, nó chịu được các cơn sốt nóng thì sẽ sống. Đằng này Ukubala không chịu nghe lời các bà già trong làng, chị hỏi mượn hàng xóm một chiếc xe ngựa và chở con đến nhà bác sĩ ở tận dưới ga. Nhưng đến được Aralsk trên chiếc xe ngựa quá xóc thì muộn rồi, thằng bé đã chết dọc đường. Chị bác sĩ nhiếc móc người mẹ trẻ hết lời, chị ta bảo lẽ ra Ukubala phải làm theo lời khuyên của các bà lão…
Đấy, những tin như thế chờ sẵn Edigej ở nhà, khi anh bước qua ngưỡng cửa. Anh hóa đá, anh rầu rĩ vì đau khổ từ giờ phút ấy. Trước kia anh không bao giờ ngờ mình sẽ thương nhớ đứa con trai đầu lòng, mà anh chưa hề ẵm bế thực sự tới mức sâu xa như vậy. Do đó anh lại càng đau đớn về sự mất mát, không bao giờ anh có thể quên được nụ cười của đứa bé chưa có răng, một nụ cười tin cậy, tươi tắn, hễ nhớ đến lòng anh như thắt lại.
Tất cả bắt đầu từ đấy, Edigej thấy chán làng quê. Hồi trước ở đây, trên khu gò đất sát ven biển này có năm chục hộ chuyên làm nghề đánh cá ngoài biển Aral, mọi người sống trong hợp tác xã. Bây giờ chỉ còn mười ngôi nhà làm bằng đất, đứng dưới bờ dốc. Nam giới không còn một ai - chiến tranh đã quét sạch họ, cả người già lẫn trẻ con. Một số đã bỏ đi làm ăn ở các nông trang hoặc trại chăn nuôi nơi khác, để khỏi chết đói. Hợp tác xã tan vỡ, chẳng còn ai đi biển.
Ukubala cũng đã có thể bỏ về quê mình, chị vốn sinh ra ở các bộ tộc miền thảo nguyên. Người nhà của chị đã đến đây rủ chị về chốn cũ. Họ bảo, thời buổi khó khăn này, chị cứ trở lại quê cũ chờ đợi, nếu Edigej sống sót trở về, sẽ không ai dám giữ chân chị, chị cứ việc quay lại làng chài Zhangeldi. Nhưng Ukubala cự tuyệt - Tôi sẽ chờ chồng. Tôi đã mất đứa con. Nếu nhà tôi sống sót trở về, ít ra phải để anh ấy còn thấy người vợ của mình. Ở đây tôi không chỉ có một mình, còn người già, trẻ nhỏ, tôi sẽ giúp đỡ họ, cùng họ chịu đựng đến cùng.
Chị đã hành động đúng. Riêng Edigej từ ngày đầu tiên đã bảo rằng bây giờ anh không thể ở lại đây, ngay cạnh biển, mà lại không làm việc gì. Về điểm này, anh cũng đúng. Những người thân của Ukubala đến thăm Edigej nhân dịp anh trở về đã mời vợ chồng anh tới vùng quê họ.
- Anh chị hãy tới sống ít lâu với chúng tôi, bên các đàn cừu ở vùng thảo nguyên - họ nói. - Khi nào khỏe hẳn anh sẽ làm một việc gì đấy, chăn cừu chẳng hạn… Edigej cảm ơn nhưng không đồng ý, anh hiểu rằng mình sẽ là gánh nặng cho họ. Ở chơi vài ngày thì chẳng sao, nhưng sau đó, nếu anh không làm việc được thì ai còn cần đến anh?
Thế rồi mùa xuân năm ấy hai vợ chồng ra đi. Họ còn trẻ, hiện thời chưa có gì níu chân họ. Thời gian đầu, họ ngủ ở các nhà ga khác nhau. Nhưng công việc thích hợp thì vẫn chưa tìm được, chỗ ăn ngủ lại càng gay go. Gặp đâu sống đấy, tình cờ kiếm được việc gì trên tuyến đường sắt thì làm việc đó. Dạo ấy Ukubala đã giúp anh đắc lực - chị trẻ, khoẻ, giành phần lớn công việc để làm. Edigej trông bề ngoài là một người đàn ông khỏe mạnh, xin nhận khoán công việc bốc giỡ hàng hoá, anh nhận việc là chính, còn làm thì Ukubala gánh vác cả.
Cứ thế, một hôm - đã là giữa mùa xuân, họ tới một cái ga đầu mối - ga Kumbel. Họ giỡ than, các toa chở than được dồn vào đường dự phòng tới sát sân sau của đềpô. Ở đấy người ta hất than xuống đất để giải phóng nhanh sàn toa. Sau đó, dùng xẻng xúc than, và Ukubala lại như một con ngựa thồ, tận lực đẩy chiếc xe nặng nề quá sức phụ nữ, chạy lên đống than cao. Trời mỗi ngày một nóng, cái nóng hòa với bụi than bay mù khiến Edigej choáng váng, xây xẩm. Anh cảm thấy sức lực mình giảm dần, chỉ muốn gục ngay xuống bãi than và không bao giờ đứng dậy nữa. Nhưng anh cay đắng hơn cả khi nhìn người vợ phải thay mình làm việc giữa đám bụi than đen ngòm, từ đầu đến chân chị chìm trong bụi than, chỉ còn thấy đôi lòng trắng con mắt và hàm răng. Cả người chị đầm đìa mồ hôi, mồ hôi chảy thành từng dòng đen xuống cổ, xuống ngực, trên lưng. Giá anh khỏe mạnh như ngày xưa, đời nào anh để vợ phải chịu cảnh này! Anh sẽ tự tay xúc hàng chục toa than đáng nguyền rủa kia, chỉ cốt sao khỏi chứng kiến nỗi cực khổ của vợ.
Khi hai vợ chồng rời cái làng tiêu điều, xơ xác của mình ra đi, họ hy vọng rằng Edigej, một thương binh, sẽ tìm được việc làm thích hợp, song điều họ không tính đến là số người như anh đầy nhan nhản khắp nơi. Và tất cả bọn họ đều buộc phải thích nghi trở lại cuộc sống. Edigej còn đủ chân tay là may lắm: bao nhiêu người què chân, cụt tay, chống nạng khập khiễng, lang bạt trên các tuyến đường sắt. Những đêm dài, khi đã thu xếp được một chỗ nằm ở một góc nhà ga chật chội, hôi hám, đông nghịt nào đấy trong lúc chờ trời sáng, Ukubala vẫn thầm cảm ơn Thượng đế về chuyện chồng chị chưa bị chiến tranh làm cho tàn phế tới mức đáng sợ và bế tắc hoàn toàn. Bởi vì những gì chị thấy ở các nhà ga đã khiến chị rùng mình, đau khổ. Những người què cụt, những thân hình ốm yếu, khoác trên người loại áo ca-pốt tả tơi hoặc đủ thứ giẻ rách, ngồi trên xe đẩy, người cụt cả hai chân, hoặc chống nạng hoặc lê lết trên hai tay, những người bơ vơ không nhà không cửa cứ lang bạt trên các chuyến tàu và nhà ga, chen chúc ở các nhà ăn công cộng, rên rỉ và than khóc thảm thiết… Cái gì chờ họ ở phía trước, cái gì bù đắp lại cái không thể bù đắp? Và chỉ vì tai họa ấy đã không giáng xuống đầu chị, chỉ vì chồng chị đã trở về, tuy có bị chấn thương nhưng không tàn phế, Ukubala sẵn sàng làm tất cả những việc nặng nhọc nhất trên đời. Chị không than vãn, không bó tay, không để lộ sự mệt mỏi ngay cả những lúc tưởng chừng sức chịu đựng đã dốc cạn.
Nhưng Edigej không vì thế mà thấy nhẹ nhõm hơn. Phải quyết một việc gì đây, trước khi xác định vững chắc hơn vị trí của mình trong cuộc sống. Không thể lang thang phiêu bạt suốt đời. Một ý nghĩ bắt đầu luôn luôn ám ảnh: hay là cứ liều một phen, định cư ở một thành phố nào đó, biết đâu chẳng gặp may? Chỉ mong sức khỏe được phục hồi, chỉ mong vượt qua cái tình trạng chấn thương đáng nguyền rủa này, lúc ấy mới có thể phấn đấu, mới có thể bảo vệ mình… Mọi chuyện, dĩ nhiên, có thể thay đổi ở thành phố, cũng có khi sẽ thích nghi dần dần và sẽ thành dân đô thị như nhiều người khác…
Nhưng số phận hóa ra lại được quyết định theo chiều hướng khác…
Cái độ vợ chồng anh đang xúc than khổ cực ở ga Kumbel, thì bỗng một hôm cạnh bãi than xuất hiện một người Kazak cưỡi lạc đà. Chắc hẳn người ấy từ phía thảo nguyên tới đây lo công chuyện gì đó, ít ra cũng là ấn tượng ban đầu. Người ấy thả con lạc đà gặm cỏ trên bãi trống bên cạnh, còn mình thì lo ngại nhìn quanh, rồi bước tới chỗ Edigej với cái bao tải cắp nách.
- Người anh em ơi - anh ta gọi, - làm ơn trông hộ con lạc đà một lát, để bọn trẻ khỏi trêu chọc nó nhé. Bọn trẻ có thói quen xấu là hay trêu chọc và đánh lạc đà, nhiều khi chỉ để chơi vui. Mình chỉ đi đằng này một lát thôi.
- Anh cứ đi đi, tôi trông giùm cho - Edigej hứa, tay vẫn xúc than, cái khăn lau mồ hôi vắt vai đã đen nhẻm.
Mồ hôi trên mặt chảy ròng ròng! Edigej vừa xúc than lên xe cút kít vừa thỉnh thoảng để mắt về phía con lạc đà, canh chừng bọn trẻ khu ga nghịch ngợm quá đáng. Có lần anh thấy chúng trêu tức con vật tới mức nó hậm hực gầm lên, phun nước bọt, phì phì đuổi theo bọn trẻ. Chính điều đó khiến chúng thích thú, và như bầy thợ săn thời nguyên thuỷ, chúng cứ reo hò vây quanh con lạc đà mà ném đá hoặc quật gậy vào mình nó. Con vật đáng thương đến là khổ mãi tới lúc chủ nó xuất hiện…
Và lần này, không hiểu từ đâu cả một bọn trẻ rách rưới rủ nhau kéo tới đá bóng. Chúng bắt đầu sút bóng thật mạnh về phía con lạc đà, cứ nhằm hai bên sườn mà thi nhau sút, xem đứa nào khỏe hơn, khéo hơn. Đứa nào sút trúng thì khoái trá như thể vừa làm bàn. Con lạc đà luống cuống né tránh…
- Này các cháu ra chỗ khác chơi đi, đừng làm thế! - Edigej vung cái xẻng dọa chúng. - Nếu không đừng trách!
Bọn trẻ rút lui vì cho rằng anh là chủ của con lạc đà, hoặc vì sợ cái bề ngoài gớm ghiếc của anh thợ xúc than, lỡ anh ta lại say rượu nữa thì khốn. Chúng không biết rằng lẽ ra chúng có thể tiếp tục trò chơi tai ác ấy đến chán chê. Edigej chỉ giơ xẻng dọa thế thôi, chứ thực tình anh không còn hơi sức nào xua đuổi bầy trẻ được nữa. Mỗi xẻng than đổ vào xe cút kít đòi hỏi ở anh bao nhiêu nỗ lực, chưa bao giờ anh nghĩ rằng làm một kẻ bệnh hoạn lại nhục nhã ê chề đến thế. Đầu óc lúc nào cũng quay cuồng, mồ hôi tuôn ra như tắm. Edigej kiệt sức dần, đã thế lại khó thở vì bụi than, ngực cứ tức anh ách như bị đóng đai. Lắm lúc Ukubala đảm nhận phần lớn công việc để anh được ngồi nghỉ một lát, chị vừa xúc than, vừa đẩy xe cút kít. Song Edigej không nỡ nhìn vợ làm quần quật, anh lại đứng dậy, lảo đảo bắt tay vào việc…
Người nhờ anh trông dùm con lạc đà, chẳng mấy chốc đã trở lại với bao tải hàng trên lưng. Sau khi xếp hàng lên mình lạc đà và chuẩn bị lên đường, anh ta mới bước lại chỗ Edigej nói vài câu chia tay. Nhưng câu chuyện đôi bên không dứt được ngay. Người ấy chính là Kazangap, hiện công tác ở ga Boranly-Bão Tuyết…
Hóa ra họ là đồng hương, Kazanggap kể rằng anh ta cũng sinh trưởng ở một làng ven biển Aral. Điều đó khiến hai người trở nên gần gũi.
Bấy giờ không ai trong số họ nghĩ rằng cuộc gặp gỡ này sẽ quyết định toàn bộ đường đời về sau của Edigej và Ukubala. Đơn giản là Kazangap đã thuyết phục vợ chồng anh đến sống và làm việc ở ga Boranly-Bão tuyết. Có những người gây được thiện cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Ở Kazangap, không có gì đặc biệt; ngược lại, chính sự giản dị chứng tỏ anh là một người thông thái nhờ sự từng trải đắng cay. Nhìn bề ngoài Kazangap là một người Kazak hết sức bình thường với bộ quần áo bạc màu, sờn rách, chiếc quần may bằng da dê rất tiện cho việc cưỡi lạc đà. Nhưng anh biết giá trị của các vật dụng - cái mũ lưỡi trai của công nhân đường sắt tương đối mới được dành cho những dịp đi xa, trang điểm cho cái đầu hơi to của anh, và đôi ủng da đã đi nhiều năm, được vá víu ở nhiều chỗ và được lau chùi cẩn thận. Có thể nhận ra anh là một người lao động cần mẫn ở vùng thảo nguyên, qua khuôn mặt sạm nắng gió và đôi tay gân guốc, rắn rỏi. Đôi vai lực lưỡng bị còng vì lao động quá sớm làm cho cái cổ có vẻ ngẳng ra như cổ vịt, tuy vóc dáng anh thuộc loại tầm thước. Cặp mắt anh thật kỳ lạ - chăm chú, thấu hiểu mọi lẽ, tươi cười, mỗi khi nheo lại như tỏa ra tia sáng từ các nếp nhăn bên khoé mắt.
Hồi ấy Kazangap đã ngót bốn mươi. Có thể anh còn ít tuổi hơn, nhưng ria ngắn và bộ râu màu hung làm cho nét mặt anh thêm khắc khổ và từng trải. Song cái khiến người ta tin cậy anh, trước hết là lời lẽ hợp tình hợp lý của anh. Ukubala lập tức kính trọng Kazangap. Anh bảo, nếu cơ thể đã bị chấn thương thì không nên làm hại sức khỏe thêm nữa:
- Mình thấy ngay rằng cậu làm việc này là quá sức cậu, Edigej ạ. Cậu chưa hồi phục hoàn toàn đâu. Hiện giờ cậu cần ở một nơi thoáng khí, phải được uống sữa tươi đầy đủ. Chẳng hạn, ở ga của mình đang rất cần công nhân sửa đường. Đồng chí trưởng ga mới về, hễ gặp mình lại bảo: Cậu là thổ công ở đây, cậu hãy mời những người thích hợp tới làm việc cho ga mình. Nhưng đào đâu ra những người như thế cơ chứ? Tất cả đang ở ngoài mặt trận, còn những người đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, thì cũng khối việc làm ở nơi khác rồi. Dĩ nhiên, sống ở chỗ bọn mình chả sung sướng gì. Đấy là một nơi rất khó khăn, xung quanh là hoang mạc nước nôi hết sức thiếu thốn. Mỗi tuần người ta chỉ chở đến một xitec nước mà lắm khi cũng chả nhớ chở đến nữa, lúc đó đành phải đi tìm những giếng nước rất xa giữa thảo nguyên, lấy nước vào bao da đem về. Sáng đi tối mới về đến nhà… Nhưng dẫu sao - Kazangap nói, - ở đấy có khổ cũng còn hơn cứ lang bạt thế này mãi. Sẽ có chỗ che đầu, có việc làm thường xuyên, bọn mình sẽ hướng dẫn những việc cần thiết, lại có thể làm kinh tế phụ gia đình. Nếu muốn thì làm thôi, có vợ chồng bên nhau hai cô chú thừa sức kiếm đủ ăn. Ở đấy sức khỏe sẽ chóng phục hồi, khi nào chán thì xin đổi đi nơi khác tốt hơn…
Edigej suy nghĩ một lát rồi đồng ý, và ngay hôm ấy vợ chồng anh theo Kazangap đến ga Boranly-Bão Tuyết. Việc thu xếp hành lý chẳng lâu la gì so với thời bấy giờ, có lâu chỉ là suy nghĩ để quyết định thử đi tìm vận may thôi. Sau này mới biết cái số vợ chồng anh nó thế.
Suốt đời Edigej vẫn nhớ chặng đường từ Kumbel vượt qua thảo nguyên tới ga Boranly-Bão Tuyết. Đầu tiên họ đi dọc đường tàu, nhưng dần dần tiến xuống vùng đất trũng cách xa đường tàu. Kazangap giải thích rằng họ sẽ đi tắt được mười cây số, bởi vì đường sắt ở đây phải vòng tránh một vùng xưa kia vốn là đáy hồ nước mặn nay đã cạn khô. Ngày nay từ dưới lòng hồ, muối và bùn thỉnh thoảng vẫn trồi lên. Cứ xuân sang, vùng đất mặn này lại thức dậy, nhão nhoẹt bùn, khó đi lại, đến mùa hè có một lớp muối trắng phủ bên trên, đất cứng lại như đá cho đến mùa xuân năm sau. Về chuyện nơi đây xưa vốn là một cái hồ nước mặn rộng mênh mông, thì Kazangap kể theo lời một nhà địa chất học tên là Elizarov mà sau đó Edigej-Bão Tuyết đã kết làm bạn thân, một người thông minh.
Còn Edigej, lúc ấy chưa phải Edigej-Bão Tuyết, mới chỉ là một người Kazak quê vùng biển Aral, một thương binh chưa ổn định cuộc sống, tình cờ gặp được Kazangap và đã tin Kazangap, cùng vợ đến ga Boranly-Bão Tuyết tìm nơi sinh sống và làm việc, không ngờ rằng mình sẽ ở lại đó suốt đời.
Không gian mênh mông, bao la của miền thảo nguyên chỉ nảy mầm xanh vào mùa xuân làm cho Edigej choáng ngợp. Xung quanh biển Aral cũng có nhiều đồng cỏ, chẳng hạn như cao nguyên Ustiur, nhưng miền đất rộng lớn nhường này thì anh mới thấy lần đầu. Và sau này, Edigej hiểu rằng chỉ người nào có khả năng làm cho tinh thần của mình tương xứng với sự kỳ vĩ của thảo nguyên hoang vu, mới có thể ở lại đối mặt với sự câm lặng của nó. Phải, vùng đất hoang cằn cỗi mênh mông thật, nhưng tư tưởng sống động của con người đủ sức bao quát tất cả. Elizarov quả là thông minh, anh ấy biết giải thích rõ những điều đang còn lờ mờ trong tiềm thức.
Ai biết Edigej và Ukubala sẽ nghĩ gì khi dấn sâu vào miền đất hoang vu, nếu không có Kazangap tự tin dắt con lạc đà đi trước dẫn đường. Edigej cưỡi trên lưng lạc đà bên cạnh. Dĩ nhiên, người được cưỡi đáng lẽ phải là Ukubala, nhưng Kazangap và nhất là Ukubala cố thuyết phục, gần như bắt buộc Edigej đừng đi bộ: “Tôi với cô ấy khỏe mạnh, còn chú cần giữ sức, chớ tranh cãi nữa mà chậm trễ, đường còn dài… ”. Con lạc đà chưa thật cứng cáp để chở nặng, nên hai người đi bộ bên cạnh người cưỡi. Bây giờ con Karanar của Edigej đủ sức chở cả ba người và chỉ đi khoảng gần bốn tiếng là về đến nhà, còn hôm đó, họ về đến ga Boranly-Bão Tuyết thì đêm đã khuya.
Dọc đường, Kazangap kể về sinh hoạt ở đây, kể chuyện mình đã tới Sarozek làm việc như thế nào. Thì ra anh chưa nhiều tuổi mấy, mới hơn ba mươi lăm. Quê vùng biển Aral, làng Beshagach của anh cách làng Zhangeldi ba mươi cây số đường ven biển. Và mặc dù Kazangap rời quê hương đã nhiều năm, chưa bao giờ anh về thăm quê cũ. Điều đó có nguyên nhân của nó, cha anh đã bị đi đày trong thời kỳ thủ tiêu bọn culac như thủ tiêu một giai cấp, và đã chết trên đường trở về khi được minh oan - thì ra ông không hề bóc lột ai và người ta đã đối xử không đúng, nói chính xác hơn là đối xử sai lầm với những người trung nông như ông. Ông được trả tự do, nhưng đã muộn. Gia đình, các anh chị em của Kazangap đã phiêu bạt mỗi người một nơi, cốt sao rời khỏi quê hương chẳng bao giờ ló mặt về nữa. Dạo đó Kazangap còn trẻ lắm, những phần tử cốt cán cứ ép buộc anh phải ra nói trước cuộc họp lên án ông bố, rằng anh tán thành đường lối, rằng cha anh bị kết tội là đúng lắm, rằng anh từ bỏ người cha như vậy, và rằng những kẻ thù giai cấp, đại loại như bố anh không có chỗ đứng trên mặt đất và nhất thiết phải chết, dù ở bất cứ đâu…
Kazangap đành bỏ đi thật xa để tránh khỏi nỗi nhục nhã đó. Anh đã làm việc sáu năm trời ở Betpak-Dal - Thảo Nguyên Đói Khát, gần Samarkan. Vùng đất hoang vu ấy bấy giờ bắt đầu được khai khẩn thành các nông trường trồng bông, cần rất nhiều lao động. Mọi người sống trong các lán trại, Kazangap đã làm thợ đào đất, lái máy trắc tơ, làm đội trưởng, được bằng khen về thành tích lao động xuất sắc. Anh cũng đã lấy vợ ở đó, hồi ấy người từ khắp nơi đổ về Thảo Nguyên Đói Khát để tìm miếng ăn. Một người con gái tên là Bukej từ vùng Khiva đã theo gia đình người anh tới đây tìm việc làm, số phận run rủi hai bên gặp nhau. Cưới nhau xong, hai vợ chồng quyết định trở về quê Kazangap, ở vùng biển Aral. Nhưng họ suy tính chưa rốt ráo, họ đáp xe lửa đi rất lâu, chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, và khi chuyển tàu ở ga Kumbel, thì tình cờ Kazangap gặp mấy người đồng hương. Qua câu chuyện họ nói, anh hiểu rằng mình không nên trở về quê để làm gì. Hóa ra nhà cầm quyền ở làng vẫn là những phần tử cốt cán nọ. Nếu vậy, Kazangap phải bỏ ý định trở về, chẳng phải vì anh sợ cái gì, trong túi anh có bằng khen của nước công hòa Uzbekistan hẳn hoi. Anh không muốn thấy mặt những kẻ đã xúi bẩy anh làm những điều ngu xuẩn, hiện thời bọn họ vẫn chưa bị xử phạt, sau một việc xấu đã làm, họ vẫn cứ nhởn nhơ như không!
Kazangap không muốn nhớ lại chuyện cũ và anh không hiểu rằng, ngoài anh ra, người ta đã quên chuyện đó từ lâu. Sau rất nhiều năm sống ở Boranly, chỉ có hai lần anh nhắc người ta rằng đối với anh không có điều gì bị quên lãng. Một lần đứa con trai làm anh giận, lần thứ hai là do Edigej nói đùa không khéo.
Một hôm Shabitzhan về chơi, tất cả ngồi uống trà nghe kể chuyện trên thành phố. Trong câu chuyện, Shabitzhan vừa cười vừa nói rằng những người Kazak và người Kirgij bỏ chạy sang tỉnh Thẩm Dương hồi tập thể hoá, nay mới trở về. Ở bên ấy, Trung Quốc đã kìm kẹp họ trong các công xã - người ta bị cấm ăn cơm ở nhà, già trẻ lớn bé đều phải cầm bát xếp hàng ăn chung ba lần mỗi ngày ở bếp tập thể. Dân Trung Quốc đã đối xử với họ tới mức họ phải vứt bỏ toàn bộ tài sản để chạy trốn. Họ rập đầu van xin được về quê cũ.
- Hay lắm sao mà mày cười? - Kazangap sa sầm mặt, môi bác run run vì tức giận. Điều này hiếm khi xảy ra với bác, có thể nói hầu như không bao giờ bác nặng lời với đứa con trai mà bác vẫn yêu quý, vẫn dạy dỗ, vẫn chăm chút cho nó đủ thứ với hy vọng nó sẽ thành người giỏi giang. - Tại sao mày giễu cợt chuyện đó? - Bác lạnh lùng nói thêm và thấy máu nóng bốc lên đầu mỗi lúc một mạnh. - Đấy là tai họa của con người.
- Thế con phải nói thế nào kia? Lạ nhỉ! - Shabitzhan cãi. - Có sao con nói vậy.
Ông bố không trả lời, gạt chén trà sang một bên. Thái độ im lặng của ông trở nên căng thẳng.
- Và nhìn chung thì bực tức với ai kia chứ? - Shabitzhan nhún vai nói. - Con chưa hiểu. Xin nhắc lại lần nữa: Bực tức với ai? Giận dỗi với thời gian thì nó là cái không thể nắm bắt được. Giận dỗi với chính quyền thì ta không có quyền.
- Mày nên biết việc của tao là những gì hợp với sức tao. Việc của người khác, tao không chõ mũi vào. Nhưng mày, Shabitzhan, mày nên nhớ, tao nghĩ mày đã đủ trí thông minh, vậy mày hãy nhớ lấy: Không thể giận ông trời, nếu ông ấy đã sai thần chết tới, tức là sống như thế đủ rồi, đã có sinh ắt có tử. Còn về mọi điều khác trên trái đất ta đều có và phải có trách nhiệm! - Kazangap đứng dậy, không nhìn một ai, giận dữ bỏ ra khỏi nhà…
Còn lần thứ hai, bấy giờ đã nhiều năm trôi qua sau ngày gặp nhau ở Kumbel, khi Edigej đã bám rễ chắc chắn ở Bonranly-Bão Tuyết, vợ chồng Edigej đã sinh mấy đứa con và chúng khôn lớn cả. Một buổi chiều xuân, lúc lùa cừu vào chuồng. Edigej nhìn bầy cừu đông đúc, nói đùa:
- Bác Kazangap ơi, tôi với bác giàu to rồi, khéo không người ta quy tội chúng mình là bọn Culăk!
Kazangap ném đi cái nhìn gay gắt về phía Edigej, và bộ ria của bác ta thậm chí rung rung.
- Chú chớ có nhắc lại chuyện ấy nữa đấy!
- Ơ hay, tôi nói đùa thôi mà, bác không hiểu ư?
- Người ta không đùa như vậy!
- Ôi dào. Chuyện đã qua từ đời nảo đời nao mà bác vẫn….
- Chính thế đấy. Người ta cướp tài sản của chú - chú không chết, chú vẫn sống. Nhưng uất hận trong lòng thì không bao giờ xóa được…
Nhưng cái hôm ba người đi từ Kumbel tới Boranly-Bão Tuyết thì chuyện ấy không hề được nhắc đến. Và chưa ai biết vợ chồng Edigej tới ga Boranly-Bão Tuyết sẽ như thế nào, liệu trụ vững ở đó lâu hay chóng, liệu có sống được hay sẽ phải bỏ đi nơi khác. Họ chỉ nói những chuyện sinh hoạt hàng ngày, và Edigej có hỏi tại sao Kazangap không ra trận, vì bệnh tật gì chăng?
- Không, rất may là tôi khỏe như vâm - Kazangap đáp, - chả bệnh tật gì hết, và nếu tôi có ra trận đánh đấm, chắc cũng không kém người khác. Đầu đuôi câu chuyện thế này…
Sau khi Kazangap bỏ ý định về quê cũ, làng Beshagach, vợ chồng anh cứ loay hoay ở Kumbel chưa biết đi đâu. Quay trở lại thảo nguyên Đói Khát thì đường đất quá xa, và mình đã từ giã nơi ấy rồi. May có ông trưởng ga, một người tốt bụng, để ý thấy họ là dân tử tế, mới hỏi họ từ đâu đến và định làm gì, rồi gửi hai vợ chồng Kazangap lên một chuyến tàu hàng đến ga Boranly-Bão Tuyết. Ở đằng ấy, ông trưởng ga nói, đang cần những người như hai cô cậu. Ông viết thư giới thiệu với trưởng ga Boranly, và ông đã không lầm. Dù hoàn cảnh ở Boranly gay go đến mấy, gay go hơn cả ở Thảo Nguyên Đói Khát, dù sống ở Boranly thật đáng sợ, vợ chồng Kazangap vẫn quen dần, thích nghi hẳn và bắt đầu ăn nên làm ra. Tuy còn nghèo, nhưng mình vẫn làm chủ cuộc đời mình. Cả hai đều là công nhân sửa đường theo biên chế, nhưng họ phải làm tất cả mọi việc cần thiết của một nhà ga. Cuộc sống gia đình của Kazangap với người vợ trẻ của anh đã bắt đầu như vậy, tại ga xép Boranly-Bão Tuyết hiu quạnh. Thực tình trong những năm ấy, đã hai lần họ định chuyển đi nơi khác gần ga chính hoặc thành phố hơn, sau khi dành dụm được một số tiền, nhưng chiến tranh bùng nổ, nên lại thôi.
Rồi những chuyến tàu bắt đầu nối đuôi nhau chạy qua ga Boranly-Bão Tuyết, chở bộ đội sang phía tây, chở người sơ tán sang phía đông, chở bánh mì sang phía tây, chở thương binh sang phía đông. Ngay ở một ga xép hẻo lánh như Boranly-Bão Tuyết cũng có thể thấy rõ cuộc sống biến chuyển đột ngột đến mức nào…
Các đầu máy xe lửa cứ theo nhau kéo còi xin đường, ở phía ngược chiều cũng ngần ấy tiếng còi xe lửa… Các thanh tà-vẹt không chịu nổi tình trạng tải, bị biến dạng vì các toa tàu quá tải. Vừa kịp thay đoạn đường này thì đã phải gấp rút sửa chữa ở đoạn khác…
Công việc cứ dồn dập, dồn dập, không hiểu người ta lấy đâu ra sức lực để lao động bất tận như thế. Các chuyến tàu cứ nối đuôi nhau suốt ngày đêm lao ra mặt trận, tuần này kế tuần khác, tháng này sang tháng kia, năm này tiếp năm nọ. Và tất cả đều lao về phía tây, nơi hai thế giới đang quật nhau một mất một còn…
Ít lâu sau cũng tới lượt Kazangap, anh được gọi ra trận. Giấy gọi gửi từ Kumbel, trưởng ga Boranly ôm đầu rên rỉ - người ta lấy của ông một công nhân ưu tú nhất, người như anh ở đây không có đến con số hai. Nhưng ông ta có thể làm gì được, ai chịu nghe ông ta giải thích rằng khả năng thông đường của ga Boranly rất là quan trọng… Các đầu máy kéo còi giục giã… Người ta sẽ cười vào mũi, nếu ông bảo rằng cần phải có ngay một đường tránh nữa. Lúc này ai còn bụng dạ nào lo việc ấy - Kẻ thù đã tràn tới ngoại ô Mátxcova rồi….
Bấy giờ đã bước vào mùa đông đầu tiên của chiến tranh, một mùa đông đến sớm, vội vã, u ám, rét mướt. Tối hôm trước tuyết rơi, cả đêm vẫn rơi, lúc đầu còn nhẹ, sau ào ào từng bông lớn. Và một màu trắng tinh khiết trùm kín cả vùng thảo nguyên khô cằn, mênh mông im ắng. Rồi những đợt gió thảo nguyên bắt đầu nổi, thoạt nhiên còn rụt rè, thử sức, sau đó quay cuồng, rú rít, lồng lên như ngựa chứng. Và khi ấy, điều gì sẽ xảy ra với con đường xe lửa như một sợi chỉ vắt ngang thảo nguyên úa vàng mênh mông thuộc miền Đất Giữa? Cái mạch máu ấy vẫn chảy - các đoàn tàu vẫn liên tục chạy về hai phía…
Sáng hôm sau Kazangap lên đường ra trận. Anh đi một mình, không có ai tiễn chân. Lúc hai vợ chồng ra khỏi nhà, Bukej dừng lại, nói rằng chị bị nhức đầu chóng mặt vì tuyết. Kazangap liền đỡ lấy đứa con nhỏ đang được ủ ấm trên tay vợ. (Dạo đó, Ajzada đã ra đời). Hai vợ chồng bước đi, có thể là lần cuối cùng anh để lại dấu chân trên tuyết, bên cạnh vợ. Nhưng không phải vợ anh tiễn anh, mà là anh đưa vợ anh ra tới chòi bẻ ghi, trước khi nhảy lên chuyến tàu hàng chạy về phía Kumbel. Từ nay Bukej làm thợ bẻ ghi thay chồng, hai người chia tay nhau ở đấy. Tất cả những điều cần nói đã được nói trong nước mắt hồi đêm, đầu tàu đã tới bên cạnh họ, người lái tàu nhấn còi giục Kazangap lên tàu. Và khi Kazangap vừa leo lên, đầu máy liền kéo một hồi còi dài, tăng dần tốc độ, hơi nghiêng bánh xe chạy qua đường ghi nơi Bukej vừa bẻ ghi cho nó. Bukej đứng đó, đầu bịt khăn, dây thắt lưng ngang bụng, chân đi đôi ủng của chồng, một tay cầm cờ, tay kia ẵm con. Hai vợ chồng vẫy tay lần cuối cùng, khuôn mặt, ánh mắt, bày tay, cột tín hiệu lướt qua…
Đoàn tàu lao ầm ầm giữa thảo nguyên phủ tuyết trắng xoá, im lìm như đang thiêm thiếp ngủ trong mơ. Gió tràn vào buồng lái, đem theo mùi tuyết thảo nguyên trong lành, tinh khiết, át mùi xỉ than khen khét trong buồng đốt… Kazangap cố giữ lâu trong phổi cái hơi hướng mùa đông của thảo nguyên ấy và hiểu rằng từ nay mảnh đất này đã trở nên thân thiết với anh…
Những người mới nhập ngũ tập trung ở Kumbel, họ đứng thành hàng để điểm danh và nghe chỉ định toa tàu phải lên. Lúc ấy xảy ra một chuyện lạ, khi Kazangap cùng với tốp của mình bắt đầu lên tàu, thì một cán bộ huyện vội đuổi theo anh.
- Asanbaev Kazangap! Ai là Kazangap hãy ra khỏi hàng! Đi theo tôi!
- Có tôi, Asanbaev Kazangap!
- Giấy tờ!… Đúng là Kazangap. Theo tôi.
Và hai người quay trở vào ga, tới địa điểm tập trung, người ấy nói:
- Kazangap này, anh hãy về nhà đi. Về nhà, anh hiểu chưa?
- Hiểu rồi - Kazangap trả lời tuy chưa hiểu gì cả.
- Nếu vậy thì đi đi, đừng lẩn quẩn ở đây nữa. Anh được tự do.
Kazangap đứng giữa đám đông ồn ào toàn những người ra đi và những người đưa tiễn, lòng vô cùng bối rối. Thoạt nhiên anh mừng vì được ra về, nhưng sau đó anh chợt nóng bừng cả người bởi một ước đoán thoáng qua trong óc, thì ra là vậy! Thế rồi anh len qua đám đông về phía cửa phòng tập trung.
- Đi đâu mà chen dữ vậy? - những người cũng đang muốn vào phòng đó gặp đồng chí phụ trách, la to ra ý trách.
- Tôi có việc hỏa tốc! Tàu sắp chuyển bánh rồi, có việc rất gấp! - Rồi anh chen tiếp.
Trong căn phòng mờ mịt khói thuốc, đằng sau chiếc bàn la liệt máy điện thoại và các thứ giấy tờ, giữa vòng người vây quanh, đồng chí phụ trách ngẩng lên lúc Kazangap nhào vô:
- Anh hỏi chuyện gì?
- Tôi không đồng ý.
- Không đồng ý cái gì?
- Cha tôi đã được minh oan, cha tôi không phải là culăk! Các đồng chí hãy kiểm tra toàn bộ hồ sơ ở chỗ các đồng chí! Cha tôi đã được minh oan là trung nông.
- Hượm đã, hượm đã! Anh cần gì nào?
- Các đồng chí không cho tôi ra trận vì lý do ấy là không đúng.
- Này anh đừng có nói năng vớ vẩn. Culăk hay trung nông thì bây giờ còn ai xét chuyện đó nữa! Anh từ đâu tới? Anh là ai?
- Tôi là Kazangap, từ ga Boranly-Bão Tuyết tới.
Đồng chí phụ trách ngó vào danh sách.
- Sao không nói luôn như thế, lại cứ làm rối lên. Culăk, bần nông, trung nông! Anh được miễn, người ta gọi nhầm. Đã có lệnh của chính đồng chí Stalin - không được gọi nhập ngũ công nhân đường sắt, tất cả ở vị trí cũ. Thôi, anh đừng cản trở công việc ở đây nữa! Hãy về ga của anh và làm việc đi!…
Hoàng hôn ập xuống khi ba người về gần đến Boranly-Bão Tuyết. Lúc này họ lại men theo đường xe lửa, đã nghe văng vẳng tiếng còi tàu và đã có thể nhìn thấy các toa. Từ xa, trông chúng như một thứ đồ chơi. Mặt trời lặn dần, những tia sáng cuối cùng rải đều trên các gò đống, rồi không gian tím thẫm như ôm lấy mặt đất ẩm ướt đã mang hơi hướng của mùa xuân.
- Kìa, Boranly của chúng ta kia kìa! - Kazangap chỉ tay, ngoảnh nhìn Edigej ngồi trên lưng lạc đà và Ukubala đang rảo bước bên cạnh. - Gần đến nơi rồi, lạy trời. Hai bạn sẽ tha hồ nghỉ ngơi.
Phía trước, nơi đường xe lửa hơi cong, trên vùng đất bằng phẳng có mấy ngôi nhà nhỏ, còn trên đoạn đường tránh có một đoàn tàu đang chờ tín hiệu thông xe. Xa hơn nữa, ở hai bên đường tàu trải ra mênh mông, hút tầm mắt là cảnh thảo nguyên trơ trụi và câm lặng…
Edigej lặng người đi - chính anh cũng là dân vùng thảo nguyên, đã quen nhìn không gian bao la ven biển, song không ngờ nơi đây rộng đến thế. Tránh cái vùng biển xanh luôn luôn thay lòng đổi dạ, nơi anh đã sinh trưởng, lại gặp cái biển chết này! Rồi cuộc sống ở đây sẽ ra sao không biết?!
Ukubala đưa tay nắm bàn chân của Edigej và cứ để nguyên như thế đi mấy bước. Anh hiểu ý vợ muốn nói: “Không lo anh ạ, chủ yếu là sức khỏe trở lại với anh. Rồi sống thế nào hãy hay… ”
Vậy là họ đang đến gần nơi mà sau này mới biết là họ sẽ sống toàn bộ cuộc đời còn lại.
Lát sau, mặt trời lặn, và khi trong đêm tối, trên bầu trời thảo nguyên đã hiện rõ chi chít các vì sao, họ tới Boranly-Bão Tuyết.
Vợ chồng Edigej ở nhờ nhà Kazangap mấy hôm. Sau đó họ được phân phối một phòng ở dãy nhà gỗ dành cho công nhân đường sắt, và cuộc sống của họ ở nơi mới bắt đầu từ đấy.
Trong hoàn cảnh đầy rẫy khó khăn và quá ít dân cư - một điều đặc biệt nặng nề đối với Edigej vào thời gian đầu - có hai yếu tố rất thuận lợi cho anh là không khí và sữa lạc đà. Không khí ở đây cực kì trong lành, thật khó tìm được nơi nào trên thế giới còn trinh trắng đến thế. Về chuyện sữa, Kazangap thu xếp tặng Edigej một trong hai con lạc đà cái để vắt sữa. Kazangap nói:
- Vợ chồng mình đã bàn với nhau, cậu hãy mang con Belogolova - con Bạch - về nuôi và lấy sữa. Con này còn trẻ, nhiều sữa, mới đẻ một lần. Vợ chồng cậu hãy tự săn sóc và sử dụng nó, chỉ lưu ý đừng để núm vú nó bị bẩn. Nó là của vợ chồng cậu, vợ chồng mình đã quyết định như vậy. Mình chia sẻ với cậu trong bước đầu khó khăn, nếu cậu biết cách chăm chút thì sẽ có cả một đàn quanh mình. Còn đột nhiên cậu muốn đi nơi khác, thì bán nó đi cũng được tiền đấy.
Cách đấy hai tuần Con Bạch mới đẻ một chú lạc đà con, đầu đen, hai bướu đen nhỏ xíu. Cặp mắt chú to, lồi, ướt, dịu dàng và tò mò, thơ ngây đến mức cảm động. Thỉnh thoảng chú tập chạy, tập nhảy cẫng lên, quấn quýt bên mẹ trông thật nhộn. Khi bị nhốt trong chuồng, chú gọi mẹ bằng giọng ảo não gần như giọng người. Ai có thể ngờ đó sẽ là Karanar-Bão Tuyết gớm ghê sau này, một chàng lạc đà cao, to, nổi danh khắp vùng! Nhiều sự kiện trong đời Edigej-Bão Tuyết sẽ có liên quan tới nó. Mọi lúc rỗi rãi nó đều ở bên anh. Từ hồi ở Aral, anh đã quen săn sóc lạc đà, bây giờ điều đó thật đắc dụng. Đến mùa đông con Karanar đã lớn trông thấy, nó được chủ may cho một tấm chăn phủ ấm áp, che kín bụng, trông nó rất ngộ - chỉ có đầu, cổ, bốn chân và hai cái bướu lộ ra ngoài. Suốt mùa đông và đầu xuân nó cứ đóng bộ như thế tung tăng suốt ngày đêm ngoài thảo nguyên.
Mùa đông năm đó Edigej cảm thấy sức lực đã dần dần bình phục, thậm chí anh không để ý mình hết bị chóng mặt từ hồi nào. Tiếng ù ù trong tai cũng biến dần, khi làm việc mồ hôi không vã ra nhiều nữa. Giữa mùa đông, khi tuyết rơi dài xuống đường tàu, anh đã có thể đi dọn tuyết không thua một ai. Sau đấy anh khỏe hẳn, vì tuổi trẻ, và anh vốn cường tráng từ nhỏ. Lời dự đoán của ông bác sĩ tóc hung đã thành hiện thực.
Những lúc rỗi rang, Edigej thường ôm cổ chú lạc đà con, vuốt ve và đùa với nó:
- Tao với mày như hai anh em sinh đôi cùng bú chung một bầu sữa. Sữa mẹ Bạch đã thổi mày lớn lên và chữa cho tao khỏi chấn thương, lạy trời cho tao khỏi bệnh hẳn, chỉ khác nhau ở chỗ mày thì mút vú mẹ, còn tao vắt ra làm món nước subat thôi.
Nhiều năm sau, khi con Karanar-Bão Tuyết đã nổi danh khắp vùng thảo nguyên, chiến tranh bấy giờ đã bị lãng quên, các con Edigej đã đi học, ở Boranly đã có giếng bơm nước riêng và Edigej đã dựng được một ngôi nhà lợp tôn. Tóm lại, khi cuộc sống đã ổn định, bình thường… thì xảy ra một chuyện mãi sau này Edigej vẫn còn nhớ.
Một tốp phóng viên nhiếp ảnh, theo lời tự giới thiệu, đã kéo tới thăm Edigej. Dĩ nhiên đây là việc hiếm có, nếu không phải là trường hợp duy nhất trong lịch sử Boranly-Bão Tuyết. Ba tay phóng viên nhiếp ảnh nhanh nhẹn, mau mồm mau miệng, sẵn sàng hứa hẹn đủ điều. - Chúng tôi về đây chụp ảnh Karanar-Bão Tuyết và chủ nhân của nó để đăng lên tất cả các tờ báo và tạp chí… Con Karanar không thích sự ồn ào nhốn nháo ở xung quanh, nó cứ bực tức nhe răng, kêu è è và nghểnh đầu thật cao đòi người ta để cho nó được yên. Ba tay phóng viên đành luôn miệng nhờ Edigej vỗ về nó, bắt nó quay bên nọ bên kia cho hợp kiểu ảnh. Còn Edigej, đến lượt mình, lần nào cũng gọi bầy trẻ, các chị em phụ nữ và cả Kazangap cùng đứng chụp ảnh chung, để không chỉ có một mình bác trên ảnh, như thế tốt hơn. Tốp phóng viên bằng lòng, cứ bấm máy lia lịa. Pô đẹp nhất là lúc tất cả bọn trẻ đều thượng trên lưng con Karanar-Bão Tuyết, hai đứa ôm cổ nó, năm đứa trên lưng, còn Edigej ngồi ở giữa. Ý nói, đã thấy con lạc đà chở khỏe chưa! Không khí thật là vui nhộn! Nhưng sau đó tốp phóng viên thú thực rằng họ cần chụp riêng con lạc đà. Thì cứ chụp riêng có sao đâu!
Thế là các phóng viên bắt đầu chụp ảnh Karanar-Bão Tuyết, họ ngắm hai bên sườn, đằng trước, đằng sau đủ kiểu, rồi với sự giúp đỡ của Edigej và Kazangap, họ đo chiều cao, đo vòng ngực, đo bắp chân, đo chiều dài và vừa ghi chép vừa thán phục:
- Một con giống tuyệt diệu! Gien của nó sẽ ra gien! Một chủng cổ điển! Ức nở ơi là nở! Ngoại hình quá đẹp!
Dĩ nhiên Edigej rất vừa lòng khi nghe những tiếng trầm trồ đó, nhưng bác đành phải hỏi ý nghĩa của những chữ khó hiểu như chữ “gien” chẳng hạn.
- Chủng cổ điển là gì?
- Là giống lạc đà hai bướu có từ thời cổ xưa, tên khoa học gọi như vậy. Một con vật thuần chủng, quý như kim cương.
- Thế các anh đo đạc để làm gì?
- Để làm tư liệu khoa học bác ạ.
Về chuyện đăng lên tất cả các loại báo chí thì tốp phóng viên dĩ nhiên ba hoa như thế cho thêm phần long trọng thôi, nhưng nửa năm sau họ có gửi về một quyển sách giáo khoa viết cho sinh viên các khoa kỹ thuật chăn nuôi lạc đà, ngoài bìa in ảnh con Karanar-Bão Tuyết thuần chủng. Còn ảnh thì họ gửi cho một xấp, trong đó có cả ảnh màu. Chỉ cần nhìn ảnh cũng có thể biết đấy là thời kỳ sung sướng, vui vẻ. Những nỗi cực nhọc của thời kỳ hậu chiến đã lùi dần, trẻ con giữ được vẻ thơ ngây, người lớn khỏe mạnh, người già còn có niềm vui.
Hôm ấy, nhân dịp có khách, Edigej đã ngả một con cừu làm bữa tiệc to mời tất cả bà con Boranly. Subat, vốtka, đồ nhắm, thứ gì cũng nhiều. Hồi ấy thỉnh thoảng vẫn có một toa hàng lưu động dừng ở ga, bán đủ thứ, hễ có tiền mua gì cũng được. Về thực phẩm thì nào cua hộp, trứng cá màu đen, màu đỏ, các loại cá, rượu cô nhắc, giò chả, kẹo bánh. Và rất lạ là khi tất cả có sẵn, người ta lại không mua mấy, trữ thêm làm gì nhỉ? Ngày nay, loại cửa hàng lưu động trên đường như thế biến mất cả rồi…
Bữa ấy mọi người tiệc tùng vui vẻ, thậm chí uống mừng cả cho con Karanar. Khi vào chuyện mới hay rằng khách biết con Karanar là nhờ Elizarov, Elizarov có kể cho tốp phóng viên rằng ở vùng này, ông có người bạn thân là Edigej-Bão Tuyết, chủ của một con lạc đà đẹp nhất thế gian - con Karanar-Bão Tuyết! Elizarov, chà Elizarov? Một người tuyệt diệu, am hiểu vùng đất này, một nhà bác học… Mỗi dịp Elizarov tới Boranly-Bão Tuyết, họ lại cùng ngồi với Kazangap và cả ba cứ trò chuyện thâu đêm.
Bữa ấy chủ đã kể cho khách nghe - khi thì Kazangap, lúc thì Edigej, vừa kể vừa bổ sung cho nhau - truyền thuyết về tổ tiên của loài lạc đà vùng này, về con lạc đà đầu trắng nổi danh - Akmai - và bà chủ không kém phần nổi danh của nó là Ana Najman đang yên nghỉ tại nghĩa địa Ana-Bejit. Nòi giống của Karanar-Bão Tuyết là thế đó! Dân Boranly hy vọng có thể một tờ báo nào đó sẽ đăng câu chuyện cổ đấy. Khách chăm chú nghe, nhưng cho rằng chắc đó là một truyền thuyết của địa phương, được kể từ đời này sang đời khác thôi. Thế nhưng Elizarov từng có ý kiến khác hẳn, Elizarov đã cho rằng truyền thuyết về con Akmai hoàn toàn có thể phản ánh những gì từng xảy ra trong thực tế lịch sử ngày xưa, đấy là nói theo lời ông. Elizarov rất thích nghe những chuyện như vậy và chính ông cũng thuộc không ít chuyện cổ tích cùng truyền thuyết của miền thảo nguyên…
Chiều tối khách ra về, Edigej hài lòng và tự hào. Vì thế bác đã nói một câu thiếu suy nghĩ, tại bác uống hơi nhiều. Nhưng điều đã nói thì trót buộc miệng mất rồi.
- Bác Kazangap ơi, bác thú thực đi, bác có tiếc là đã tặng cho tôi con Karanar hồi nó còn bé xíu không?
Kazangap nhếch mép cười nhìn Edigej. Một câu hỏi bất ngờ. Sau một phút im lặng, Kazangap trả lời:
- Tất cả chúng ta đều là người, dĩ nhiên. Nhưng chú biết không, ông cha ta thường nói: Man iexi cud-aican[8]. Đấy là việc của trời, tiền định mà. Con Karanar phải thuộc về chú, và chính chú phải là chủ của nó. Nếu giả dụ nó rơi vào tay người khác, thì không biết nó sẽ ra sao và có thể chẳng sống oanh liệt được đến bây giờ, có khi đã sa xuống vực. Nó phải thuộc về chú. Trước kia tôi cũng đã từng nuôi lạc đà và có những con không kém cỏi gì, cũng do con Bạch đẻ ra. Thế nhưng con Karanar là con duy nhất được như bây giờ… Lạy trời để nó phục vụ chú đủ trăm năm, chú đừng nên nghĩ là tôi tiếc.
- Xin lỗi bác, bác tha lỗi cho tôi - Edigej ngượng ngùng nói, và ân hận là đã thở ra câu hỏi vừa rồi.
Các cụ già kể rằng mẹ của con Akmai đẻ được bảy con: bốn cái, ba đực. Và từ đấy, mọi con cái sinh ra đều trắng đầu. Mọi con đực, ngược lại, đều đen đầu. Vì thế, con Karanar mới có màu như vậy. Mẹ đầu trắng đẻ ra con đầu đen, đấy là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ nó thuộc giống Akmai. Và từ ngày ấy đến nay, không biết đã bao lâu, hai trăm, ba trăm, năm trăm năm hay lâu hơn, giống lạc đà Akmai không hề tuyệt tự. Song thỉnh thoảng mới xuất hiện một con trứ danh như Karanar-Bão Tuyết. Vậy là Edigej gặp may, con Karanar sinh ra để đem lại may mắn cho Edigej…
Đến giai đoạn cần phải thiến, hoặc dùng dây xích buộc chân, bởi vì nó bắt đầu gây náo động dữ dội, không cho mọi người lại gần, cứ bỏ chạy đâu không rõ hằng mấy ngày đêm liền. Kazangap bảo thẳng Edigej:
- Đấy là việc của chú, muốn sống yên lành thì thiến nó đi. Còn muốn vinh quang thì đừng động đến nó, nhưng có điều gì xảy ra chú hãy gánh lấy toàn bộ trách nhiệm. Nếu chú còn đủ sức lực và kiên nhẫn thì cứ để thế ít lâu, nó làm loạn vài ba năm rồi sẽ vâng lời chú thôi.
Edigej đã không động chạm tới con Karanar-Bão Tuyết. Không, bác không dám, không nỡ thiến nó. Nhưng có những lúc bác phải đổ máu mắt vì nó…
CHÚ THÍCH[6] Nghĩa tiếng Nga: sự đồng đều, nguyên tắc bình đẳng.
[7] Sư tử? Cọp? Chó săn sói?