Chương 5
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông….
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.
Ở vùng này mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.
Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Sáng sớm mọi việc đã xong xuôi. Thi hài Kazangap được liệm bằng vải len và được che mặt, đặt trong một cái rờ mooc máy kéo, bên dưới lót mạt cưa, vỏ bào và một lớp cỏ khô sạch sẽ. Phải khởi hành sớm để bốn, năm giờ chiều có thể về kịp đến nhà. Đi ba chục kilomet, đường về cũng ngần ấy, lại còn việc mai táng ở nghĩa địa, thành thử bữa cúng phải lui lại khoảng sáu giờ chiều. Tất cả đã sẵn sàng, Edigej cầm cương con lạc đà đã đóng yên, luôn miệng thúc giục mọi người. Tuy cả đêm qua không ngủ, sáng nay trông bác vẫn nhanh nhẹn, chăm chú, tuy hơi hốc hác. Edigej đã cạo râu tử tế và mặc bộ quần áo đẹp nhất - chiếc quần galiphe bằng vải nhung hơi rộng, thắt cà vạt màu đen bên ngoài sơ mi trắng, đầu đội mũ công nhân đường sắt, chân đi đôi ủng lót nỉ, ngực đeo tất cả các huân chương, huy chương chiến sĩ và cả các huy hiệu lao động xuất sắc. Tất cả những trang phục ấy đều hợp với bác và khiến bác thêm vẻ trịnh trọng. Có lẽ, trong ngày mai táng Kazangap, Edigej phải có bề ngoài như vậy.
Già trẻ trai gái ở Boranly đều tới đưa ma. Mọi người tập trung cạnh chiếc rờ mooc, chờ phút khởi hành. Edigej-Bão Tuyết nói:
- Bây giờ chúng tôi đến Ana-Bejit, nghĩa địa cổ được kính trọng nhất vùng Sarozek này, bác Kazangap xứng đáng được như vậy. Chính bác ấy đã dặn mai táng bác ở đó - Edigej nghĩ xem nên nói gì nữa, đoạn tiếp: - Như vậy là số nước và muối ấn định cho cuộc đời bác ấy đã cạn. Con người ấy đã làm việc ở ga này chẵn bốn mươi năm, có thể nói là suốt cả cuộc đời. Hồi bác ấy bắt đầu làm ở đây, ngay đến một trạm bơm nước cũng chưa có, người ta phải dùng xitẹc chở nước đến hàng tuần. Bấy giờ chưa có các máy dọn tuyết và các máy thiết bị khác như hiện nay. Thậm chí, một cái máy kéo mà hôm nay chúng ta dùng để chở thi hài bác ấy, cũng không có nốt. Dầu vậy, những chuyến tàu vẫn chạy và đường vẫn luôn luôn thông suốt. Bác ấy đã tận tuỵ phục vụ suốt đời ở ga Boranly-Bão Tuyết này, bác ấy là một người tốt, bà con ai cũng biết như vậy. Còn bây giờ chúng tôi đi đây, không đủ phương tiện và cũng không cần tất cả mọi người phải đi đưa. Vả lại chúng ta cũng không được bỏ mặc công việc của nhà ga, chúng tôi sẽ đi sáu người. Và đến đấy sẽ lo liệu chu đáo mọi việc, bà con hãy chờ chúng tôi về và sẵn sàng có mặt dự bữa cúng chiều nay. Tôi xin thay mặt con trai và con gái bác ấy - kia, họ đứng kia - kính mời bà con tới dự.
Tuy Edigej không dự kiến, nhưng sự việc lại diễn ra như một đám tang nhỏ. Rồi họ lên đường, bà con đi theo sau xe một quãng rồi dừng lại. Người đi còn nghe văng vẳng tiếng khóc của Ajzada và Ukubala…
Khi tiếng khóc đã lặn hẳn và sáu người đi mỗi lúc một xa đường tàu, mỗi lúc một sâu vào thảo nguyên, Edigej-Bão Tuyết mới thở dài nhẹ nhõm. Bây giờ chỉ còn có riêng họ, và bác biết cần phải làm những gì.
Mặt trời đã mọc, hào phóng tỏa ánh nắng xuống vùng thảo nguyên Sarozek. Trời vẫn trong mát, cả một vùng mênh mông chỉ thấy hai con diều hâu bay lượn trên cao và thỉnh thoảng vài con sơn ca từ dưới bụi cỏ vụt bay lên, miệng kêu chíp chíp. “Chúng nó sắp tụ họp thành đàn và nó bay về phương nam ấm áp rồi” - Edigej hình dung cảnh tuyết rơi và bầy chim bay giữa bức màn tuyết ấy. Và không hiểu sao bác lại chợt nhớ đến con cáo ở bên đường tàu đêm rồi, thậm chí bác còn nhìn trộm xung quanh, xem có vết chân con cáo hay không. Rồi bác nghĩ đến quả tên lửa đêm ấy cất cánh từ thảo nguyên bay lên vũ trụ…
Edigej-Bão Tuyết cưỡi con Karanar đi trước dẫn đường. Con Karanar sải từng bước dài, rộng, đều nhịp. Người am hiểu sẽ thấy nó có bước đi thật đẹp, chiếc đầu kiêu hãnh vươn lên trên chiếc cổ cong cong, cứ như bơi trong sóng mà vẫn bất động, còn bốn cái chân dài và gân guốc cứ chém đều đều không mỏi vào không khí. Edigej ngồi giữa hai cái bướu, rất chắc chắn, thoải mái và tự tin. Bác hài lòng vì con Karanar không đòi phải thúc giục, vẫn nhận biết dễ dàng và tinh tế các mệnh lệnh của chủ. Các tấm huân chương, huy chương trên ngực Edigej khẽ kêu lanh canh theo nhịp bước và lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Theo sau bác là chiếc máy kéo ‘Belarus’ có rờ mooc, Shabitzhan ngồi trong cabin, cạnh anh thợ lái máy trẻ tuổi Kalibek. Đêm qua Shabitzhan đã uống đầy rượu và huyên thuyên đủ chuyện, bây giờ anh ta ngồi im lặng, ủ rũ, ngật ngưỡng từ bên này sang bên kia. Edigej cứ ngại cặp kính của anh ta có thể bị rơi vỡ.
Chồng Ajzada ngồi trên rờmooc, cạnh thi hài bố vợ, vẻ buồn rầu. Anh ta nheo mắt nhìn trời, thỉnh thoảng ngó xung quanh. Con sâu rượu ấy lần này tỏ ra đứng đắn, không uống một hớp rượu nào. Anh ta cố gắng góp sức vào mọi việc và khi đưa thi hài người quá cố ra xe, đã ghé vai khiêng. Edigej bảo anh ta cùng cưỡi lên lạc đà cùng với mình, anh ta từ chối và nói: “Dạ, chú cứ để cháu ở bên ông nhạc cháu, đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng”. Câu ấy khiến cả Edigej lẫn bà con Boranly vừa lòng. Khi xe khởi hành, chính anh ta khóc to và nhiều hơn tất cả mọi người, hai tay cứ vuốt vuốt tấm nỉ bọc thi hài bố vợ. Edigej hy vọng: “Biết đâu hắn tỉnh ngộ và chừa rượu thì thật là may cho mẹ con Ajzada!”.
Đi cuối đám tang nhỏ và lạ giữa thảo nguyên hoang vu ấy là chiếc máy xúc bánh hơi ‘Belarus’. Ngồi trên cabin có Edibaj và Zhumagali, người lái là Zhumagali, một thanh niên lùn da đen, vẫn điều khiển chiếc máy ấy làm việc trên các cung đường khác nhau. Anh ta xuất hiện ở Boranly-Bão Tuyết cách đây không lâu, và khó nói trước là anh ta sẽ trụ được tại ga này bao lâu nữa. Edibaj ngồi bên cạnh, cao hơn hẳn một cái đầu. Suốt dọc đường họ trò chuyện rất sôi nổi.
Phải ghi nhận thiện chí của trưởng ga là Ospan, chính anh đã dành cho đám tang toàn bộ số xe hiện có ở ga. Anh trưởng ga trẻ tuổi đã lập luận đúng - nếu đi xa như vậy, rồi lại phải đào huyệt bằng xẻng, thì chắc khó kịp trở về vào chiều tối, bởi lẽ huyệt phải đào rất sâu và khoét thêm hàm ếch theo tục lệ của người Hồi giáo.
Khi trưởng ga khuyên nên dùng máy xúc đất đào huyệt, Edigej-Bão Tuyết hơi lo ngại. Bác không bao giờ nghĩ rằng ai đó lại tính chuyện đào huyệt không phải bằng xẻng, mà bằng máy xúc đất. Ngồi nói chuyện với Ospan, bác nhăn trán suy nghĩ rất lung. Nhưng Ospan đã tìm ra lối thoát và thuyết phục được bác:
- Bác ơi, tôi nói thật đấy. Nếu bác ngại ngùng, thì đầu tiên bác cứ dùng xẻng, nhưng đào ít đất thôi. Sau đó để máy xúc làm việc, loáng cái là xong. Đất thảo nguyên rắn như đá, bác biết rồi đấy. Dùng máy đào tới độ sâu cần thiết, rồi bác lại dùng xẻng mà sửa nốt cho đẹp. Vừa tiết kiệm thời gian, vừa theo đúng mọi thể thức…
Giờ đây, càng đi sâu vào thảo nguyên hoang vu, Edigej càng thấy lời khuyên của Ospan là hợp lý. Thậm chí bác ngạc nhiên sao chính mình không nghĩ ra điều đó. Đúng, khi tới nghĩa địa, bác sẽ làm như vậy. Sẽ chọn một chỗ thuận tiện để đặt thi hài người quá cố quay đầu về phía dòng Kaba vĩnh cửu, sẽ dùng xẻng đào trước một chút, sau đó dùng máy xúc đào đủ sâu, rồi lại dùng xẻng khoét hàm ếch và sửa sang đáy huyệt. Như thế sẽ nhanh và đúng hơn.
Khi ngoảnh nhìn lại cái ga nhỏ đã khuất hẳn sau lưng, Edigej kinh ngạc: mãi bây giờ bác mới nhìn thấy con chó hung Zholbars đang nghiêm trang chạy bên hông. Ơ hay, nó bám theo từ lúc nào nhỉ. Lúc lên đường, có thấy bóng dáng nó đâu. Biết nó giở trò ma lanh này, hẳn bác đã xích nó lại rồi. Con ranh khôn ngoan gớm! Hễ thấy Edigej cưỡi con Karanar đi đâu xa, nó liền chọn cơ hội bám gót theo chủ. Thì đấy, lần này có khác gì nó chui từ dưới đất lên không chứ! Thôi kệ nó, Edigej quyết định. Đuổi nó về thì đã muộn, mà cũng chả đáng tốn thời gian vì một con chó, cứ để nó chạy. Và tựa hồ đoán biết ý nghĩ của chủ, con Zholbars vượt qua chiếc máy kéo, tiến ngang hàng với Karanar. Edigej giơ roi dọa nó, nhưng nó lờ đi, ra cái ý dọa nạt bây giờ muộn rồi. Vả lại, cho nó tham gia việc này thì có gì là xấu kia chứ. Ngực nở, cổ to và xù lông, tai cụp và mắt thông minh, bình tĩnh, con Zholbars có cái vẻ đẹp riêng của nó.
Những ý nghĩ khác nhau cứ hiện ra trong óc Edigej trên đường đi Ana-Bejit. Nhìn mặt trời mọc cao dần, ước tính thời gian, bác vẫn luôn luôn hồi tưởng chuyện ngày xưa. Nhớ hồi bác và Kazangap còn trẻ khoẻ, còn là công nhân thường trực chủ yếu của ga Boranly-Bão Tuyết, những người khác không trụ được lâu ở Boranly-Bão Tuyết, họ tới rồi lại xin chuyển đi. Bác và Kazangap không có thời gian nghỉ, bởi vì muốn hay không, khi cần vẫn cứ phải làm toàn bộ công việc của nhà ga. Bây giờ nhắc lại chuyện đó không tiện - bọn trẻ chúng cười: đúng là hai ông già lẩm cẩm, tự chôn vùi cuộc đời mình. Để làm gì kia chứ? Ừ, mà thật ra là vì cái gì nhỉ? Nghĩa là hai bác đã làm vì một mục đích hẳn hoi.
Một lần hai bác phải dọn tuyết khỏi mặt đường suốt hai ngày đêm không ngơi tay. Đêm xuống đầu máy xe lửa phải bật đèn pha để chiếu sáng chỗ làm việc, tuyết vẫn cứ rơi đều và gió quay cuồng. Dọn được phía này, phía kia tuyết đã lại vun lên lấp đường ray. Nói là trời rét căm căm cũng chưa đúng: mặt mũi, chân tay tím tái, sưng lên. Chui vào đầu máy sưởi dăm phút cho đỡ lạnh, rồi lại nhảy xuống đường xúc tuyết, ngay cái đầu máy cũng đã bị phủ tuyết ngập cả bánh xe. Trong số công nhân mới đến, ngày hôm ấy đã có ba người bỏ đi. Họ nguyền rủa thậm tệ cuộc sống - “Chúng tôi không phải là tù khổ sai, ngay có ngồi tù cũng còn được ngủ”. Và sáng hôm sau, khi tàu chuyển bánh, họ đứng trên toa huýt sáo, nói chõ xuống:
- Vĩnh biệt các cha ngốc! Cứ ở lại cắn răng mà chịu đựng nhé!
Bác và Kazangap đã ẩu đả nhau hôm ấy, nhưng không phải vì bị ba tay kia nhiếc là đồ ngốc. Sự thể thế này: Đêm xuống, không tài nào làm việc nổi nữa, tuyết rơi dày, gió rú rít tứ phía và cứ bám lấy người nhằng nhằng như chó dữ, chẳng biết đường nào mà tránh. Đầu máy xe lửa rọi đèn pha, nhưng mọi vật chỉ lờ mờ như trong sương mù. Lúc ba tay kia đã bỏ đi, Edigei và Kazangap vẫn tiếp tục ở lại xúc tuyết vào bao, chất lên lưng hai con lạc đà để chúng chở ra xa đường ray. Nhưng hai con vật khổ sở cũng hết chịu nổi cái rét và thứ gió lồng lộn khủng khiếp. Tuyết hai bên vệ đường ngập tới ngực, Kazangap cầm môi lạc đà kéo chúng đi, còn Edigej dùng roi giục chúng phía sau. Họ vật lộn như thế đến nửa đêm, hai con lạc đà cuối cùng gục xuống tuyết, có giết chúng cũng chịu, hết dậy nổi. Làm thế nào bây giờ? Phải bỏ việc, chờ thời tiết dịu lại vậy, hai người đứng cạnh đầu máy để tránh gió.
- Đủ rồi bác Kazangap ạ, ta leo lên đầu máy chờ xem trời đất thế nào đã - Edigej vừa nói vừa đập đập hai cái bao tay cứng quèo vào nhau.
- Trời đất này chưa dịu đi đâu, dù sao công việc của ta vẫn là dọn đường. Phải dùng xẻng vậy, chúng ta không có quyền bó tay.
- Chúng mình không phải là người ư?
- Nếu không phải là người, mà là chó sói và các giống vật khác, thì đã chui vào hang cả rồi.
- À, đồ khốn kiếp! - Edigej nổi đóa - Anh cứ việc làm hùng hục để mà chết ở đây! - Và Edigej đẩy mạnh vào gò má Kazangap.
Thế là hai bên túm lấy nhau vật lộn, làm rách cả môi nhau. May mà anh thợ đốt lò kịp nhảy lại can ra đúng lúc.
Đó, Kazangap là người như thế đó. Bây giờ kiếm đâu ra những người như vậy, bác đang chở người cuối cùng đến nghĩa địa để mai táng đây. Đặt xuống huyệt, nói lời chia tay, thế rồi - Amen!
Nghĩ vậy, Edigej-Bão Tuyết thầm nhắc lại những câu kinh mà bác chỉ còn nhớ mang máng, để xác định trong trí óc trình tự những ý tưởng hướng tới Thượng đế cao siêu và vô hình mới có khả năng dung hòa trong ý thức con người sự đối chọi giữa khởi đầu và kết thúc, giữa cuộc sống và cái chết. Hẳn vì thế mà người ta soạn ra những câu kinh, bởi vì không thể kêu thấu tới Thượng đế để hỏi, chẳng hạn tại sao ông lại sắp đặt cho người ta sinh ra rồi chết đi? Từ thuở có thế gian này, người ta sống là để quy thuận, dù không đồng ý. Và những câu kinh ấy không hề thay đổi từ đời xưa, chúng được đọc lên để an ủi con người. Những lời cầu nguyện ấy được gọt dũa qua hàng ngàn năm, là những lời cuối cùng mà người sống phải nói trước người chết. Nghi thức nó thế.
Edigej còn nghĩ như vầy. Dù trên đời có hay hoàn toàn không có Thượng đế, song phần lớn người ta đều nhớ đến ông trời, đến Thượng đế khi thật cần thiết, thật khó khăn. Hẳn vì lẽ đó mà người ta bảo rằng người không theo đạo sẽ chưa nhớ đến Thượng đế, chừng nào đầu họ chưa bị đau. Chẳng biết có phải thế không, nhưng dầu sao cũng nên biết các câu kinh, các lời cầu nguyện.
Nhìn mấy người trẻ tuổi cùng đi chuyến này, Edigej thật sự lấy làm buồn và tiếc rằng không ai trong số họ biết lời cầu nguyện nào cả? Vậy họ sẽ chôn cất nhau ra sao? Họ sẽ dùng những lời nào thâu tóm sự khởi đầu và sự kết thúc của tồn tại, để tiễn con người vào cõi hư vô? “Vĩnh biệt đồng chí, chúng tôi sẽ nhớ…?”. Hay là một câu vớ vẩn nào nữa?
Một lần Edigej-Bão Tuyết dự một đám tang ở trên tỉnh. Bác ngạc nhiên vô cùng: ngoài nghĩa địa mà chẳng khác gì trong một cuộc họp. Đứng trước quan tài người quá cố, các diễn giả cứ cầm giấy đọc rất hùng hồn và cứ nói mỗi một chuyện giống nhau, nào người kia đã làm việc gì, đã từng giữ những chức vụ gì và giữ như thế nào, đã phục vụ ai và phục vụ như thế nào. Sau đó nhạc nổi lên và người ta phủ hoa đầy mộ, chẳng một ai nói lời nào về cái chết, tựa hồ như trước đó chưa có ai chết và sẽ không có ai phải chết. Những kẻ bất hạnh, họ đời đời bất tử! Vậy là họ tuyên bố bất chấp sự thật hiển nhiên: “Người ấy đã đi vào bất tử!”…
Edigej biết rõ địa thế. Hơn nữa, từ trên lưng con Karanar-Bão Tuyết, bác nhìn thấy một khoảng khá xa phía trước. Bác cố gắng nhắm hướng Ana-Bejit cho thật thẳng, chỉ đi vòng khi nào hai chiếc máy kéo cần tránh hố rãnh mà thôi.
Và tất cả vẫn diễn ra theo dự tính, không nhanh, không chậm, song họ đã đi được một phần ba đường… Con Karanar-Bão Tuyết chạy nước kiệu đều đều, cảm nhận tinh tế các mệnh lệnh của chủ. Xình xịch đằng sau là chiếc máy kéo rờ mooc, và đằng sau máy kéo là máy xúc bánh hơi ‘Belarus’.
Tuy nhiên, những tình thế ngoài dự kiến đang chờ họ ở phía trước. Nghe ra rất lạ lùng, song những tình thế ấy có mối quan hệ bên trong với các sự kiện diễn ra tại sân bay vũ trụ Sarozek…
Vào giờ đó, tàu sân bay ‘Convention’ đang ở tọa độ của nó tại một vùng trên Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Aleut, cách Vlapostok và San Fransisco một khoảng hoàn toàn bằng nhau theo đường chim bay.
Thời tiết trên đại dương không thay đổi. Suốt buổi sáng, mặt trời cứ tỏa ánh nắng chan hòa trên mặt nước mênh mông lấp lánh. Ở đường chân trời không có dấu hiệu gì chứng tỏ thời tiết sẽ thay đổi.
Còn ở ngay trên tàu thì mọi bộ phận đều đang ở trong tình trạng căng thẳng, sẵn sàng hoạt động cao nhất, kể cả khu máy bay đậu và bộ phận an ninh nội bộ, mặc dù bốn phía quanh tàu không có bất kỳ nguyên nhân cụ thể nào của tình hình đó. Các nguyên nhân nằm ở bên ngoài vũ trụ.
Những thông báo của hai phi công vũ trụ song đôi từ hành tinh Ngực Rừng qua quỹ đạo ‘Tramplin’ chuyển về tàu sân bay ‘Convention’ đã làm cho hai vị đồng chỉ huy trung tâm điều khiển và các uỷ viên hai tiểu ban đặc nhiệm hoàn toàn lúng túng. Lúng túng đến nỗi cả hai bên quyết định trước hết phải họp riêng để bàn bạc tình hình xảy ra, căn cứ vào lợi ích và lập trường của chính mình, rồi sau đó mới họp chung.
Thế giới vẫn chưa hay biết về sự phát hiện có một không hai trong lịch sử loài người - sự tồn tại của nền văn minh bên ngoài trái đất, trên hành tinh Ngực Rừng. Ngay đến chính phủ của hai bên nhận được thông báo tuyệt mật về sự kiện ấy cũng chưa biết thêm tin tức về diễn biến tiếp theo ra sao, người ta đang chờ quan điểm thống nhất của hai tiểu ban có thẩm quyền. Toàn bộ con tàu sân bay được đặt vào chế độ nghiêm ngặt - không một ai được quyền rời bỏ vị trí, không một ai được viện bất cứ lý do gì để rời bỏ con tàu và không một con tàu nào khác có thể tiếp cận ‘Convention’ trong bán kính năm chục kilomet. Những phi cơ bay qua khu vực này phải thay đổi đường bay, cách xa tàu ‘Convention’ ít nhất ba trăm kilomet.
Vậy là phiên họp chung của hai bên đã bị gián đoạn, và mỗi tiểu ban cùng với vị chủ nhiệm chương trình ‘Demiurge’ của mình đang thảo luận báo cáo của hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1 được truyền về từ hành tinh Ngực Rừng:
“Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe!
Chúng tôi đang thực hiện buổi truyền tin liên Thiên Hà cho Trái Đất!
Không thể giải thích tất cả những gì không có tên gọi ở Trái Đất. Tuy nhiên vẫn có nhiều điểm chung.
Họ là những sinh vật giống con người, họ cũng là người như chúng ta! Hoan hô sự tiến hóa của thế gian! Cả ở đây, sự tiến hóa cũng đã tạo nên mô hình hominid theo nguyên lý phổ quát! Đó là những kiểu hominid khác hành tinh tuyệt diệu. Da ngăm ngăm, tóc xanh, mắt tím và xanh lá cây, lông mi dài, trắng!
Chúng tôi đã nhìn thấy họ trong những bộ quần áo vũ trụ hoàn toàn trong suốt, khi họ kề sát trạm quỹ đạo của chúng ta. Từ mũi tàu vũ trụ, họ mỉm cười mời hai chúng tôi sang với họ.
Và chúng tôi đã bước từ nền văn minh này sang nền văn minh khác.
Thiết bị bay của họ tách khỏi trạm, và với tốc độ ánh sáng, tốc độ mà bên trong con tàu thực sự không hề cảm thấy. Chúng tôi đã vượt dòng thời gian, chuyển động vào Vũ Trụ. Điều đầu tiên khiến chúng tôi chú ý và nhẹ nhõm bất ngờ là không có trạng thái mất trọng lượng, đạt được như vậy bằng cách nào, hiện chúng tôi vẫn chưa thể giải thích nổi. Họ đã phát âm câu đầu tiên “Tinh cầu chúng tôi đã tới” - pha lẫn tiếng Anh và tiếng Nga. Và khi ấy chúng tôi hiểu rằng nếu có óc tinh tế một chút, chúng tôi đã có thể trao đổi ý nghĩ với nhau.
Các sinh vật tóc xanh ấy cao chừng hai mét, họ có năm người: bốn nam, một nữ. Nữ khác nam không phải qua chiều cao, mà qua bề ngoài thuần tuý của phụ nữ và qua nước da trắng hơn. Tất cả năm cư dân Ngực Rừng tóc xanh đều ngăm ngăm như người Ả Rập phía bắc trái đất ta. Từ phút đầu, chúng tôi đã cảm thấy tin cậy họ.
Ba người trong số họ điều khiển thiết bị bay, còn người đàn ông thứ tư và chị phụ nữ thì thông thạo tiếng nói của Trái Đất, hệ thống hóa các từ ngữ tiếng Anh và tiếng Nga, soạn ra cuốn từ vựng Trái Đất. Đến lúc gặp chúng tôi, họ đã nắm vững hơn hai ngàn rưỡi từ và thuật ngữ. Nhờ vốn từ ngữ ấy, sự tiếp xúc giữa đôi bên đã bắt đầu. Dĩ nhiên, họ nói chuyện riêng với nhau bằng thứ ngôn ngữ mà chúng tôi hoàn toàn không hiểu, nghe như giông giống tiếng Tây Ban Nha.
Sau khi rời trạm ‘Paritet’ mười một giờ bay, chúng tôi đã vượt ra ngoài giới hạn hệ Mặt Trời.
Bước chuyển từ thái dương hệ của chúng ta sang một hệ khác đã diễn ra lặng lẽ, không có điều gì đặc biệt, vật chất của Vũ Trụ ở mọi nơi đều như nhau. Nhưng trên đường bay, phía trước thấy ánh hồng sáng lên dần dần (chắc do vị trí và khoảng cách giữa các thiên thể vào giờ phút đó như vậy). Ánh hồng ấy cứ lớn dần, trải rộng ở đằng xa thành một không gian ánh sáng vô tận. Lúc đó chúng tôi đã vượt ngang qua mấy hành tinh nửa sáng nửa tối, vô số mặt trời và mặt trăng đã lướt qua trong khoảng không bao la.
Chúng tôi như được đưa từ đêm sang ngày. Và tất nhiên chúng tôi bay vào một vùng sáng mênh mông tinh khiết, tỏa ra từ một vầng Thái Dương khổng lồ tại một bầu trời xưa nay chưa từng thấy.
- Chúng ta đang ở trong Thiên Hà của chúng tôi! Chủ Nhân của chúng tôi đang tỏa sáng đấy! - chị phụ nữ tuyên bố. - Sắp tới Ngực Rừng của chúng tôi rồi.
Quả vậy, trên độ cao thăm thẳm của không gian vũ trụ mới, chúng tôi đã nhìn thấy một Mặt Trời Mới - một thiên thể mà chị kia gọi là ‘Chủ Nhân’. Chủ Nhân có độ sáng và kích thước lớn hơn Mặt Trời của chúng ta, tiện thể nói thêm rằng chính vì thế mà một ngày đêm trên hành tinh Ngực Rừng kéo dài hai mươi tám giờ.
Từ trên cao nhìn xuống, hành tinh Ngực Rừng giống Trái Đất chúng ta, cũng có các đám mây không khí bao quanh. Nhưng khi đến gần, cách bề mặt của nó khoảng năm sáu ngàn mét - tổ lái đã thực hiện một đường bay vòng quanh cho chúng tôi ngắm cảnh - chúng tôi thấy hiện ra một cảnh tượng tuyệt đẹp: núi non, gò đồi đều phủ màu xanh mượt mà, xen giữa chúng là các sông hồ, biển cả. Còn ở một số vùng, chủ yếu ở hai cực, là những hoang mạc rộng lớn không có sức sống, chỉ thấy bão cát. Nhưng gây ấn tượng mạnh nhất với chúng tôi là các đô thị và thị trấn, những công trình thiết kế ấy nổi bật giữa cảnh quan Ngực Rừng, chứng tỏ mức độ đô thị hóa rất cao. Ngay đến Manhattan[9] cũng không thể nào so sánh được với nghệ thuật xây dựng đô thị của các sinh vật Ngực Rừng.
Bản thân các sinh vật Ngực Rừng theo ý chúng tôi, là một hiện tượng độc đáo trong số những sinh vật có lý trí trong Vũ Trụ. Thời gian thai nghén của họ là mười một tháng, tuổi thọ rất cao, dù vậy họ tự coi vấn đề chính yếu của xã hội và ý nghĩa tồn tại là việc kéo dài tuổi thọ. Họ sống trung bình một trăm ba mươi đến một trăm năm mươi tuổi, có người sống đến hai trăm tuổi. Dân cư của hành tinh tới hơn mười tỉ người.
Lúc này chúng tôi không thể trình bày một cách tương đối hệ thống tất cả những gì liên quan đến lối sống của những sinh vật tóc xanh và các thành tựu nền văn minh của họ. Bởi vậy, chúng tôi xin thông báo những gì khiến chúng tôi ngạc nhiên hơn cả ở hành tinh này.
Họ biết cách khai thác năng lượng của mặt trời, hay nói đúng hơn, của Chủ Nhân, biến nó thành nhiệt năng và điện năng với hệ số sử dụng cao hơn các phương thức kỹ thuật thuỷ lực của chúng ta. Và điều rất quan trọng là họ tổng hợp năng lượng từ độ chênh lệch giữa nhiệt độ ban ngày và ban đêm của không khí.
Họ biết cách điều khiển khí hậu. Khi chúng tôi bay vòng quanh hành tinh, thiết bị bay của chúng tôi đã dùng bức xạ phá tan các đám mây và sương mù ngay tức khắc ở nơi chúng tích tụ. Chúng tôi được biết rằng họ có thể tác động đến sự chuyển dịch của các khối không khí và các dòng hải lưu. Bằng cách đó, họ điều tiết độ ẩm và chế độ nhiệt trên bề mặt hành tinh; hơn thế nữa, họ còn biết điều khiển lực hấp dẫn trong các chuyến bay liên hành tinh.
Tuy nhiên trước mắt chúng tôi là một vấn đề, mà theo chỗ chúng tôi biết, chúng ta vẫn chưa vấp phải bao giờ ở Trái Đất. Họ không bị hạn hán, bởi vì họ có khả năng điều khiển khí hậu. Hiện thời họ chưa biết thế nào là thiếu thực phẩm, đấy là họ có số đàn ông gấp hơn hai lần dân số Trái Đất. Nhưng một phần đáng kể của hành tinh đang dần dần mất sức sống, mọi sinh vật ở đó đều bị chết dần chết mòn. Hiện tượng này gọi là sự lụi tàn từ bên trong. Trong lúc bay vòng quanh hành tinh, chúng tôi nhìn thấy những trận bão bụi ở phần đông nam của Ngực Rừng. Do những phản ứng nào đó trong lòng hành tinh - có thể điều đó giống như các quá trình núi lửa của chúng ta, nhưng có lẽ đấy là một hình thức phún xuất tia chậm rãi nào đó - mà lớp đất trên bề mặt bị phá huỷ biến dạng, mất dần các chất dinh dưỡng. Ở phần đông nam Ngực Rừng, rộng bằng Sahara, sa mạc mỗi năm cứ lấn dần vào không gian sống của cư dân tóc xanh. Đối với họ, đó là tai họa lớn nhất.
Họ chưa biết cách điều khiển những quá trình diễn ra trong lòng hành tinh, họ đã ném những lực lượng ưu tú và rất nhiều phương tiện khoa học, vật chất vào cuộc đấu tranh chống hiện tượng lụi tàn đáng sợ này. Trong hệ sao của họ không có Mặt Trăng, nhưng họ biết Mặt Trăng của chúng ta và đã ghé thăm nó, họ ước đoán rằng Mặt Trăng của chúng ta có lẽ đã trải qua tình trạng tương tự. Khi biết chuyện đó, chúng tôi chợt nghĩ và hơi lo - từ Mặt Trăng tới Trái Đất chẳng xa xôi gì cho cam. Chúng ta đã sẵn sàng đón nhận tình trạng ấy chưa? Và những hậu quả bên trong lẫn bên ngoài rồi sẽ ra sao? Liệu mọi người có biết nghĩ rằng họ đã đánh mất nhiều thứ trong sự phát triển trí tuệ của mình chỉ vì những mâu thuẫn muôn thuở ở Trái Đất?
Hiện tại trong các giới khoa học của Ngực Rừng đang diễn ra cuộc tranh luận rộng rãi - nên tăng cường nỗ lực khám phá bí mật của sự lụi tàn trong lòng hành tinh và tìm cách ngăn chặn thảm họa tiềm ẩn ấy, hay là nên tìm sẵn trong Vũ Trụ một hành tinh mới, đáp ứng nhu cầu sống còn của họ, để sau này tiến hành di dân đồng loạt tới đó, mang theo và hồi phục nền văn minh Ngực Rừng?
Hiện thời chưa rõ họ đang nhắm đi đâu, tới hành tinh nào. Ít ra, họ vẫn còn có thể sống ở Ngực Rừng hàng triệu năm nữa, nhưng kỳ lạ thay, ngay từ bây giờ họ đã nghĩ đến tương lai xa xôi và say sưa hoạt động như thể vấn đề trên có liên quan trực tiếp đến cư dân thời nay. Chẳng lẽ không một kẻ nào nảy ra cái ý nghĩ khốn nạn: “Sau này muốn ra sao thì ra, sống chết mặc bay”?! Chúng tôi cảm thấy xấu hổ vì chính mình đã nghĩ đại loại như thế, khi được biết rằng một phần đáng kể tổng thu nhập của cả Ngực Rừng được bỏ vào chương trình ngăn chặn sự tàn lụi trong lòng hành tinh. Họ cố dựng chướng ngại vật trải dài hàng vạn kilomet - men theo giới hạn của sa mạc đang lấn dần - bằng cách khoan những lỗ khoan siêu sâu, phun vào lòng hành tinh những chất trung hòa có tác dụng lâu dài mà họ cho rằng sẽ phát huy tác động cần thiết tới các phản ứng dưới đó.
Tất nhiên họ cũng có và phải có các vấn đề tồn tại xã hội, những cái đã bao đời làm cho trí tuệ phải trăn trở, phải lao tâm khổ tứ - những vấn đề luân lý, đạo đức, lý trí… Hiển nhiên là sự chung sống của hơn mười tỉ người diễn ra không đơn giản, dù họ đã đạt tới mức phồn vinh bao nhiêu chăng nữa. Nhưng điều lạ nhất là họ không biết đến khái niệm nhà nước, không biết thế nào là vũ khí, không biết đến chiến tranh. Có các nhà nước, có tiền tệ và mọi phạm trù quan hệ xã hội đồng hành với chúng? Nếu phải giải thích thực chất những cuộc chiến tranh liên miên ở Trái Đất chúng ta, không biết họ sẽ thấy đó là trò vô nghĩa hoặc là một phương thức dã man để giải quyết vấn đề hay chăng?
Toàn bộ cuộc sống của họ được tổ chức trên những nền tảng hoàn toàn khác, mà chúng tôi chưa hiểu rõ hoặc không thể hiểu nổi, vì lối tư duy khuôn mẫu ở Trái Đất chúng ta.
Họ đã đạt tới mức độ ý thức tập thể toàn hành tinh, một ý thức kiên quyết loại trừ chiến tranh như một phương thức đấu tranh, thành thử chúng tôi phải cho rằng nền văn minh Ngực Rừng là hình thái tiên tiến nhất trong giới hạn không gian có thể tưởng tượng được của Vũ Trụ. Có lẽ họ đã vươn tới một trình độ phát triển khoa học, khi mà việc nhân đạo hóa thời gian và không gian trở thành ý nghĩa hoạt động sống chủ yếu của các sinh vật có lý trí và, do đó là sự tiến hóa kế tiếp của thế gian trong giai đoạn mới, cao nhất, vô tận.
Chúng tôi không định so sánh những cái không thể so sánh được với nhau. Với thời gian, trên Trái Đất chúng ta, con người cũng sẽ tiến đến trình độ cao như thế, và ngay bây giờ chúng ta cũng đã có cái để tự hào, song dẫu sao chúng tôi vẫn bị ám ảnh bởi một ý nghĩ nặng nề: điều gì sẽ xảy ra, nếu Trái Đất phạm sai lầm bi thảm, cho rằng hình như lịch sử loài người là lịch sử của các cuộc chiến tranh? Sự thể sẽ ra sao, nếu con đường phát triển ấy ngay từ đầu đã là sai lầm và bế tắc? Điều đó sẽ dẫn chúng ta tới đâu? Và nếu thế, liệu loài người có kịp dũng cảm thừa nhận sai lầm và tránh được ngày tận thế?
Được số phận run rủi cho mình là những người đầu tiên chứng kiến đời sống xã hội bên ngoài Trái Đất, chúng tôi cảm thấy những tình cảm phức tạp - vừa lo sợ cho tương lai của con người Trái Đất, vừa hy vọng, bởi lẽ trên thế gian hiện đã có một tấm gương về sự chung sống vĩ đại, một sự chung sống luôn luôn tiến lên, ở bên ngoài những hình thức mâu thuẫn phải giải quyết bằng chiến tranh…
Các sinh vật Ngực Rừng biết về sự tồn tại của Trái Đất từ đời xa xưa trong lịch sử của họ. Họ tha thiết được tiếp xúc với người Trái Đất không phải chỉ vì sự tò mò, mà theo họ, trước hết là vì thắng lợi của hiện tượng trí tuệ, vì sự trao đổi kinh nghiệm giữa hai nền văn minh, vì kỷ nguyên mới trong sự phát triển tư tưởng và tinh thần của những sinh vật có trí tuệ trong Vũ Trụ.
Về tất cả chuyện đó, họ nhìn xa trông rộng hơn ta rất nhiều. Họ chú ý tới người Trái Đất còn là vì họ cho rằng việc liên kết nỗ lực chung của hai nhánh trí tuệ trong thế gian là con đường cơ bản bảo đảm sự tồn tại vĩnh viễn của sự sống trong tự nhiên, ngụ ý rằng mọi năng lực bất kỳ đều nhất thiết bị phân huỷ và mọi hành tinh đều không thoát cảnh huỷ diệt trong tương lai… Họ quan tâm đến ‘ngày tận thế’ trước hàng tỉ năm và ngay bây giờ họ đã soạn thảo một dự án tổ chức nơi sinh sống mới cho mọi sinh vật trong Vũ Trụ…
Có những thiết bị bay với tốc độ ánh sáng, họ đủ khả năng ngay bây giờ đến thăm Trái Đất chúng ta. Nhưng họ không muốn làm việc đó khi chính người Trái Đất chưa đồng ý, họ không muốn thâm nhập Trái Đất như những vị khách không mời mà đến. Họ tỏ cho biết rằng từ lâu họ đã tìm cách làm quen, từ khi các trạm vũ trụ của chúng ta biến thành những tổ hợp hoạt động dài hạn trên quỹ đạo, họ hiểu rằng thời gian gặp gỡ đang tới gần. Họ đã chuẩn bị kỹ càng, chờ cơ hội thuận tiện. Cơ hội ấy đã rơi vào tay chúng tôi bởi vì chúng tôi có mặt ở môi trường trung gian - ở trên trạm quỹ đạo…
Việc chúng tôi tới thăm hành tinh của họ, rất dễ hiểu, đã thành một sự kiện thời sự nóng hổi. Nhân dịp này, họ đã đưa vào hoạt động một hệ thống tiếp xúc toàn cầu từ xa, chỉ sử dụng vào những dịp lễ hội lớn nhất. Trong không khí sáng tỏ xung quanh chúng tôi, chúng tôi thấy hiển hiện ngay trước mắt những khuôn mặt và những vật dụng cách xa hàng ngàn, hàng vạn kilomet, mà đôi bên đều có thể trao đổi với nhau - nhìn thấy mặt nhau, mỉm cười, bắt tay nhau, trò chuyện vui vẻ, tưởng chừng trong cuộc tiếp xúc trực tiếp. Các sinh vật Ngực Rừng mới đẹp làm sao, và họ cũng rất khác nhau, thậm chí màu tóc cũng xanh với những sắc thái khác nhau, còn các cụ già thì hóa ra cũng bạc đầu y như người già ở Trái Đất. Họ cũng khác nhau về các chủng tộc.
Về tất cả những điều đó và nhiều điều khác không kém phần ngạc nhiên, chúng tôi sẽ kể khi trở về trạm ‘Paritet’ hoặc trở về Trái Đất. Còn bây giờ xin đề cập điều chủ yếu nhất. Người Ngực Rừng đề nghị chúng tôi chuyển qua hệ thống tin ‘Paritet’ nguyện vọng của họ được đến thăm Trái Đất khi nào chúng ta thấy thuận tiện. Trước đó, họ đề nghị phối hợp chương trình, bố trí một trạm trung gian liên hành tinh, trạm này đầu tiên sẽ là nơi tổ chức các cuộc gặp gỡ sơ bộ, sau trở thành địa điểm thường trực trên con đường đôi bên qua lại thăm nhau. Chúng tôi đã hứa sẽ báo tin cho đồng loại của mình biết các đề nghị ấy. Tuy nhiên về mặt này, có một điều khiến chúng tôi lo ngại.
Liệu chúng ta, loài người ở Trái Đất, đã sẵn sàng có những cuộc gặp gỡ liên hành tinh như thế chưa, liệu chúng ta đã đủ trưởng thành, với tư cách là các sinh vật có trí tuệ, để gặp họ chưa? Với những sự bất đồng và mâu thuẫn hiện nay của chúng ta, liệu chúng ta có khả năng thống nhất quan điểm, tự cho phép mình thay mặt toàn bộ loài người, thay mặt cả Trái Đất để gặp họ hay chưa? Chúng tôi kính mong các vị chuyển giao quyền giải quyết vấn đề này cho Liên Hiệp Quốc để tránh một sự cạnh tranh mới về vai trò đại diện. Chúng tôi đề nghị ở đây không nên lạm dụng quyền phủ quyết, và có lẽ lần này nên bãi bỏ quyền đó như một ngoại lệ. Chúng tôi rất đau lòng nghĩ đến những chuyện đó khi ở ngoài Vũ Trụ xa xăm này, nhưng là cư dân của Trái Đất, chúng tôi hiểu khá rõ tính nết của những con người sống ở hành tinh chúng ta.
Cuối cùng, một lần nữa xin nói về bản thân hành động của chúng tôi, chúng tôi nhận thức việc chúng tôi biến mất khỏi trạm quỹ đạo đã gây ra tình trạng hoang mang và dẫn tới những biện pháp khẩn cấp như thế nào. Chúng tôi rất tiếc rằng mình đã gây nên bao sự lo lắng, song đây là trường hợp độc nhất trong thực tiễn thế giới, khi chúng tôi không thể và không có quyền khước từ, vì sự nghiệp vĩ đại nhất của đời mình. Vốn là những người theo đúng những qui định nghiêm ngặt, chúng tôi có nghĩa vụ phải làm trái qui định chỉ vì mục đích nói trên.
Hãy cứ để lương tâm chúng tôi tự phán xét và chúng tôi sẽ gánh chịu hình phạt thích đáng, nhưng tạm thời xin các vị hãy quên đi điều đó. Xin hãy tạm bỏ qua! Chúng tôi đã truyền tín hiệu từ Vũ Trụ về, chúng tôi thông báo cho các vị từ một hệ sao xưa nay chưa hề biết đến - từ thiên thể Chủ Nhân. Những cư dân tóc xanh ở Ngực Rừng là những sinh vật sáng tạo nên một nền văn minh hiện đại cao cả nhất. Sự tiếp xúc với họ có thể tạo nên sự thay đổi toàn cầu trong toàn bộ cuộc sống của chúng ta, trong vận mệnh của cả loài người. Liệu chúng ta có dám chấp nhận như vậy, trong khi vẫn tôn trọng lợi ích trước hết của Trái Đất…?
Các cư dân hành tinh Ngực Rừng không hề đe dọa gì chúng tôi, ít ra thì đó cũng là cảm giác của chúng tôi. Nhưng, nếu học tập kinh nghiệm của họ, chúng ta sẽ có thể tạo nên một cuộc cách mạng, bắt đầu từ cách khai thác năng lượng thế giới vật chất xung quanh, cho đến cách chung sống không cần vũ khí, bạo lực và chiến tranh. Điều sau cùng các vị nghe có vẻ chướng tai, nhưng chúng tôi xin trịnh trọng khẳng định rằng, cuộc sống của các sinh vật có trí tuệ ở hành tinh Ngực Rừng được tổ chức đúng theo cách đó, họ đã vươn tới chính sự hoàn thiện này tại một không gian sinh địa hệt như ở Trái Đất. Với một kiểu tư duy vũ trụ văn minh cao, họ sẵn sàng tiếp xúc công khai với những người anh em cùng có trí tuệ như mình, với loài người Trái Đất, thông qua những hình thức đáp ứng nhu cầu và tư thế của cả hai bên.
Tuy rất say sưa và sửng sốt trước việc phát hiện nền văn minh ngoài Trái Đất, song chúng tôi chỉ mong trở về sớm để kể cho mọi người tất cả những gì chúng tôi đã chứng kiến khi ở hệ Thiên hà này, tại một hành tinh của hệ thiên thể Chủ Nhân.
Chúng tôi dự định sau đây hai mươi tám giờ, nghĩa là đúng một ngày đêm, sau buổi truyền tin này, sẽ lên đường trở về trạm ‘Paritet’. Khi về đến nơi, chúng tôi lại xin hoàn toàn phục tùng sự chỉ huy của Trung tâm điều khiển.
Xin phép tạm biệt. Trước khi bay trở lại Thái Dương Hệ, chúng tôi sẽ báo tin thời gian về tới trạm ‘Paritet’.
Đến đây chúng tôi chấm dứt bản tin đầu tiên từ hành tinh Ngực Rừng. Hẹn sớm gặp lại, tha thiết đề nghị các vị báo tin cho gia đình chúng tôi để họ khỏi lo lắng…
PHI CÔNG VŨ TRỤ SONG ĐÔI 1-2
PHI CÔNG VŨ TRỤ SONG ĐÔI 2-1″
Phiên họp riêng rẽ của hai tiểu ban có thẩm quyền đặc biệt, trên tàu sân bay ‘Convention’, để thẩm xét sự cố đặc biệt trên trạm quỹ đạo ‘Paritet’, đã kết thúc ở chỗ cả hai tiểu ban với đủ mọi uỷ viên, đều bay về hỏi ý kiến cấp cao hơn. Một phi cơ cất cánh từ tàu sân bay về hướng San Francisco; chiếc thứ hai cất cánh sau đó vài phút, về hướng ngược lại - Vlapostok.
Còn tàu ‘Convention’ vẫn đậu tại vị trí cũ, ở khu vực thường trú của nó, trên Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Aleut… Một chế độ nghiêm ngặt được thiết lập trên tàu… Mỗi người đều lo phận sự của mình, mọi người đều cảnh giác… Và tất cả đều giữ vẻ im lặng…
- - -
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông.
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa…
- - -
Đã đi được một phần ba quãng đường tới nghĩa địa Ana-Bejit. Mặt trời lúc đầu lên cao rất nhanh, bây giờ tựa hồ đứng sững lại một điểm phía trên thảo nguyên cỏ gai. Nghĩa là ngày đã thành ngày thật sự, trời bắt đầu nóng cái nóng ban ngày.
Edigej-Bão Tuyết lúc xem đồng hồ, lúc nhìn trời, lúc nhìn thảo nguyên trống trải phía trước, cho rằng mọi việc hiện thời vẫn diễn ra bình thường. Bác vẫn cưỡi lạc đà dẫn đường, máy kéo rờ mooc vẫn chạy phía sau, tiếp đến chiếc máy xúc ‘Belarus’ bánh lốp, còn con chó hung Zholbars vẫn chạy bên cạnh.
“Thì ra đầu óc con người không thể ngừng suy nghĩ một giây. Ngớ ngẩn thật - muốn hay không muốn, ý nghĩ này vẫn cứ đẻ ra ý nghĩ nọ, và sự việc cứ thế tiếp diễn mãi tới khi anh chết!”. Edigej rút ra kết luận buồn cười đó khi bác nhận thấy dọc đường lúc nào mình cũng nghĩ đến một chuyện gì đấy, các ý nghĩ cứ nối tiếp nhau như các làn sóng biển. Hồi bé bác đã đứng quan sát hàng giờ cảnh mặt biển Aral những lúc trời nổi gió, cuộn lên những con sóng trắng, dồn từ xa tới như những cái bờm dựng ngược, đợt này kế tiếp đợt kia. Trong sự vận động ấy diễn ra đồng thời cả sự sinh ra, sự mất đi, rồi lại sinh ra và tàn lụi xương thịt của biển. Và hồi ấy cậu bé Edigej muốn biến thành chim hải âu bay lượn trên sóng, trên bọt nước lóng lánh để nhìn xuống sức mạnh vĩ đại của nước.
Thảo nguyên sắp sang thu với vẻ trống trãi buồn bã, hoang vu, tiếng dậm chân đều đều của con lạc đà gợi ra trong lòng Edigej những suy tưởng dọc đường, và bác cứ để mặc các suy tưởng ấy dâng lên. May mà đường còn dài và chưa có gì ngăn cản bước đi của họ. Như mọi bữa đi xa, con Karanar càng đi càng hăng và mùi mồ hôi khỏe mạnh của nó bắt đầu tỏa ra, nhất là từ bờm và cổ. Edigej hài lòng cười thầm: “À, à, nghĩa là mày toát mồ hôi hột! Bở hơi tai rồi à! Con quỷ! Mày là con vật gớm ghiếc lắm kia mà! Mày tệ, tệ quá!”.
Edigej nghĩ lan man cả những chuyện cũ, những công việc và sự kiện hồi Kazangap còn trẻ khoẻ, và trong chuỗi ký ức chợt trỗi dậy, một cách không đúng lúc, nỗi cay đắng xa xưa. Và lời cầu nguyện cũng không giúp bác xua nó đi, bác lẩm bẩm cầu nguyện mấy lần, để xua đuổi, để đè bẹp nỗi đau ấy xuống. Nhưng lòng bác không nguôi, Edigej-Bão Tuyết bực bội, chốc chốc lại quật roi vào hai bên sườn con lạc đà đang cố gắng sải bước thật đều, bác kéo cái mũ sụp xuống trán và không buồn ngoảnh nhìn hai chiếc xe đằng sau nữa. Cứ mặc họ theo sau, đừng có tụt hậu. Họ, cái bọn trẻ xanh rờn ấy, họ biết quái gì đến chuyện cũ, một câu chuyện mà ngay đến vợ bác, bác cũng chẳng hé răng; nhưng bác lại được nghe cách lập luận sáng suốt và thẳng thắn - như trong tất cả mọi chuyện - của Kazangap. Chỉ riêng Kazangap mới có khả năng lập luận như thế, chứ không thì Edigej đã bỏ cái ga Boranly-Bão Tuyết này mà đi từ lâu rồi…
Năm ấy, năm năm mươi mốt, vào mùa đông, có một gia đình chuyển đến ga này. Hai vợ chồng và hai đứa con trai. Thằng lớn, Daul lên năm; còn thằng bé, Ermek, ba tuổi. Bố của chúng, Abutalip Kuttybaev, cùng tuổi với Edigej. Trước chiến tranh, Abutalip đã dạy học một năm ở trường làng; mùa hè năm bốn mươi mốt, anh được gọi ra trận ngay trong đợt đầu tiên. Anh cưới Zaripa đâu vào cuối chiến tranh hoặc ngay sau khi chiến tranh kết thúc gì đó. Trước khi chuyển đến đây, Zaripa cũng làm giáo viên tiểu học. Số phận dồn đẩy họ đến Boranly-Bão Tuyết, giữa miền thảo nguyên cỏ gai này.
Việc họ đến vùng đất hoang vu xa xôi này không phải từ một cuộc sống êm đẹp thì ai cũng thấy rõ ngay. Abutalip và Zaripa hoàn toàn có thể công tác tốt ở những nơi khác, nhưng rõ ràng hoàn cảnh đã khiến họ không còn lối thoát nào hơn. Thoạt đầu, bà con ở Boranly tưởng rằng vợ chồng Abutalip sẽ không trụ được, không chịu đựng lâu ở nơi này, đến lại bỏ đi chỗ khác. Những người thua kém họ về năng lực còn bỏ đi nữa là họ. Cả Edigej lần Kazangap cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, mọi người lập tức có thái độ tôn trọng đối với gia đình Abutalip. Vợ chồng họ là những người đứng đắn, có văn hoá. Họ nghèo, cả hai vợ chồng đều làm việc như tất cả mọi người. Cũng vác tà vẹt, cũng dọn tuyết khỏi đường tàu. Nói chung, họ làm tất cả những công việc của người công nhân đường sắt. Và phải nói rằng gia đình họ rất tốt, hòa thuận, tuy gặp nhiều bất hạnh, vì một lẽ là Abutalip trước đây có bị bọn Đức cầm tù. Hồi ấy, những chuyện lạ của thời chiến dường như đã không còn được chú ý. Đối với những quân nhân bị địch bắt làm tù binh, người ta đã không còn coi họ như bọn phản bội hay kẻ thù nữa. Về phần bà con ở Boranly, thì họ chả bận tâm nghĩ ngợi làm gì. Ừ thì người ta bị địch bắt đã sao, chiến tranh đã kết thúc thắng lợi, thiếu gì chuyện đau khổ người ta từng chịu đựng trong cuộc thế chiến khủng khiếp ấy. Vậy mà nay nhiều người vẫn phải lang bạt khắp nơi như những kẻ có tội, bóng ma chiến tranh vẫn cứ bám theo gót chân họ… Vì lẽ đó, bà con ở Boranly không hề lục vấn những người mới đến về vụ nọ; người ta đã đau đớn khổ sở quá nhiều, còn đầu độc tâm hồn họ làm gì!
Dần dà hóa ra Edigej thân thiết với Abutalip lúc nào không rõ, Abutalip là một người thông minh. Điều lôi cuốn Edigej là trong hoàn cảnh đầy tai họa, Abutalip vẫn tỏ ra cứng cỏi, không hề oán trách số phận. Vợ anh, Zaripa hẳn cũng rõ như vậy. Trong thâm tâm, họ chấp nhận sự trừng phạt như một tất yếu, họ tìm ý nghĩa cuộc sống qua sự nhạy cảm và gắn bó nhau một cách lạ thường. Về sau Edigej mới hiểu, họ đã sống, đã tự vệ bằng cách đó, họ che chở cho nhau trước cơn gió hung hãn của thời đại. Đặc biệt là Abutalip.
Anh không thể sống rời gia đình mình dù chỉ một ngày, hai đứa con trai đối với anh là tất cả, mọi phút rỗi rãi anh đều dành cho con. Anh dạy chữ, anh sáng tác những câu chuyện cổ tích, những câu đó, anh nghĩ ra các trò chơi cho chúng. Hồi đầu, khi hai vợ chồng đi làm, họ để con ở lại trong dãy lán. Nhưng Ukubala không thể thản nhiên nhìn cảnh đó, chị liền đưa chúng về nhà mình. Nhà vợ chồng Edigej ấm áp hơn, tiện nghi sinh hoạt đến thời kỳ ấy cũng đã khá hơn nhiều so với hoàn cảnh của người mới dọn tới. Điều nói trên đã khiến hai gia đình thân nhau, bởi hồi đó hai đứa con gái của Edigej cũng đang cùng lứa tuổi với hai đứa con trai của Abutalip.
Một hôm đi làm về, Abutalip ghé vào đón con và đề nghị:
- Anh Edigej này, nhân tiện để tôi dạy hai cháu của anh luôn thể. Lâu nay tôi dạy bọn trẻ không phải là vì không có việc làm. Các cháu đã thân nhau, cùng chơi đùa với nhau. Ban ngày chúng ở bên nhà anh, buổi tối hãy để chúng sang bên tôi. Cuộc sống mới ở nơi hẻo lánh này có nhiều thiếu thốn, vì thế càng cần hướng dẫn chúng. Một đứa bé ngày nay phải biết không ít hơn một thanh niên trước đây. Nếu không sẽ khó lòng trở thành người có học vấn, anh ạ!
Mãi sau đó, khi tai họa xảy ra, Edigej mới hiểu hết ý nghĩa những cố gắng ấy của Abutalip. Ở địa vị Abutalip, đó là điều duy nhất anh có thể lo liệu cho các con. Biết được cái gì, anh vội truyền thụ cho con càng nhiều càng tốt, anh muốn bằng cách đó khắc họa bản thân mình trong trí nhớ các con, tiếp tục sống trong các con. Buổi tối, sau khi đi làm về, hai vợ chồng anh tổ chức một cái gì giống như một trường học-nhà trẻ cho con mình và con của Edigej. Bọn trẻ học đánh vần, học vẽ, chơi đùa, thi xem đứa nào giỏi hơn, nghe kể chuyện, đọc sách, thậm chí cùng nhau học hát. Những việc ấy thú vị đến mức chính Edigej cũng bắt đầu ghé sang xem chúng học hành và chơi đùa như thế nào. Cả Ukubala thỉnh thoảng cũng chạy qua, làm như có công chuyện gì, song thực tình chỉ để ngó hai đứa con gái ra sao? Edigej-Bão Tuyết rất vui lòng. Những người có học vấn, những nhà giáo họ tốt như thế đó! Thật sung sướng nhìn cái cảnh họ khéo léo hướng dẫn bọn trẻ, họ biết làm trẻ con trong khi vẫn là người lớn. Tối tối, Edigej cố gắng không cản trở họ, mà chỉ ngồi yên ở một góc. Còn khi mới bước sang nhà Abutalip, bao giờ Edigej cũng bỏ mũ, nói từ ngoài cửa:
- Xin chào! Cậu học trò thứ năm của vườn trẻ đã có mặt đấy ạ!
Và bọn trẻ cũng quen với sự có mặt của Edigej, hai đứa con gái của Edigej sung sướng lắm. Trước mắt bố, chúng nó càng cố gắng thêm, vợ chồng Edigej thay phiên nhau nhóm lò để buổi tối bọn trẻ được sưởi ấm ở dãy lán gỗ.
Một gia đình như thế đã sống ở ga Boranly-Bão Tuyết. Nhưng lạ thay, những người tốt như vậy thường không gặp may.
Tai họa của Abutalip Kuttybaev là ở chỗ anh không những bị bọn Đức cầm tù, mà còn - chẳng biết là may hay rủi - cùng một nhóm tù binh trốn thoát khỏi trại tập trung ở Nam Bavaria, rồi tham gia chiến đấu trong hàng ngũ du kích Nam Tư từ năm bốn mươi ba cho tới ngày kết thúc chiến tranh. Tại đó anh đã bị thương và đã được chạy chữa, anh được thưởng các huân chương chiến đấu của Nam Tư. Các tờ báo của du kích có viết bài về anh và đăng ảnh của anh. Điều đó đã giúp anh rất nhiều, khi người ta bắt đầu xét hồ sơ của anh tại tiểu ban kiểm tra-thanh lọc người trở về Tổ Quốc năm bốn mươi lăm. Có bốn người sống sót trong số mười hai người chạy trốn khỏi chạy tập trung. Cả bốn người đều gặp may với cái nghĩa là tiểu ban kiểm tra của Liên Xô đã trực tiếp đến chiến khu của quân giải phóng Nam Tư, và các cán bộ chỉ huy của Nam Tư đã cấp giấy nhận xét về các thành tích chiến đấu và phẩm chất đạo đức của những chiến sĩ Xô Viết trong thời gian tham gia hàng ngũ du kích Nam Tư chống phát xít.
Nói chung, sau gần hai tháng trải qua vô số lần kiểm tra, hạch hỏi, đối chất, chờ đợi, hy vọng và thất vọng. Abutalip Kuttybaev đã trở về xứ sở Kazastan của mình mà không bị mất quyền công dân; song cũng không được hưởng mọi ưu tiên dành cho quân nhân giải ngũ bình thường. Abutalip không hề tự ái, vốn là giáo viên Địa Lý trước chiến tranh, anh lại trở về công tác cũ của mình. Và tại một trường huyện, anh đã gặp cô giáo trẻ Zaripa. Thường có những trường hợp hạnh phúc cho cả đôi bên như thế. Tuy hiếm, những vẫn gặp trong đời.
Những năm chiến thắng đầu tiên đã lắng dần. Tiếp sau khúc khải hoàn hoan hỉ, không gian bắt đầu lác đác những bông tuyết ‘chiến tranh lạnh’. Rồi tuyết rơi dài, và những sợi lò xo ý thức hậu chiến bị dồn nén đó đây chỉ chực bừng lên…
Trong một giờ Địa Lý, sợi lò xo như thế đã bật ra. Sớm hay muộn, việc đó cần phải xảy ra, không phải với anh thì cũng với người như anh.
Khi kể cho các em học sinh lớp tám về khu vực Châu Âu của thế giới, Abutalip Kuttybaev vui miệng nhắc lại chuyện ngày trước, anh và các đồng chí của mình bị dẫn từ trại tập trung đến chân dãy Alpes ở miền Nam Bararia để khai thác đá, và họ đã khôn khéo tước vũ khí của bọn linh áp giải rồi trốn thoát, tìm đến với du kích Nam Tư. Anh đã đi qua nửa Châu Âu trong thời kỳ chiến tranh, từng ở bên bờ biển Adriatique và Địa Trung Hải, biết khá rõ phong cảnh tự nhiên và đời sống của nhân dân địa phương, những điều không thể miêu tả cặn kẽ trong sách giáo khoa. Thầy giáo cho rằng, kể như vậy tức là làm phong phú môn học bằng những quan sát sống động của người đã từng tai nghe mắt thấy.
Cây thước kẻ trong tay anh di động trên tấm bảng đồ Châu Âu ba màu, xanh dương, xanh lá cây và nâu - treo trên bảng ; lần theo các vùng cao nguyên, đồng bằng, các dòng sông, thỉnh thoảng dừng lại ở những vùng mà ngày nay, đêm đêm anh vẫn nằm mơ thấy diễn ra từng trận đánh, từ mùa hè sang mùa đông. Và, có lẽ cây thước cũng đã chạm tới một điểm nhỏ lo ti khó phân biệt, nơi máu anh đã đổ, khi một khẩu tiểu liên của địch bất ngờ xả cả một tràng ở bên sườn, và anh lăn thong thả nhiều vòng trên một sườn dốc, máu nhuộm đỏ các bụi cỏ và đất đá - dòng máu đỏ thắm ấy có thể thấm đẫm tấm bản đồ Châu Âu này. Và trong giây lát anh tưởng như dòng máu đỏ thắm ấy đang loang trên bản đồ, mắt anh hoa lên, tối sầm lại, núi đồi nghiêng ngửa đổ ụp, còn anh thì thét gọi người bạn Ba Lan đã cùng chạy trốn trong mùa hè trước với anh khỏi công trường đá Bavaria: “Cứu mình với! Kazimir! Kazimir!”. Nhưng Kazimir không hề nghe thấy tiếng kêu của anh, bởi vì thực ra anh chẳng phát ra được một tiếng nào, và anh chỉ tỉnh lại ở bệnh viện của đội du kích sau khi được tiếp máu.
Abutalip Kuttybaev lấy làm ngạc nhiên rằng sau tất cả những gì đã trải qua, mình lại có thể nói một cách khô khan, xa lạ về những gì có liên quan tới môn địa lý phổ thông sơ đẳng.
Bỗng từ dãy bàn trên cùng, một cánh tay giơ lên ngắt lời anh:
- Thưa thầy, vậy là thầy đã bị địch bắt?
Một cặp mắt lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt anh. Mặt chú bé hơi vênh lên, nó đứng nghiêm, và suốt đời Abutalip không hiểu sao cứ nhớ mãi cái hàm răng sít lại quái dị của nó - hàm răng dưới lại chĩa ra, che gần hết hàm răng trên.
- Phải, nhưng sao kia?
- Tại sao thầy không tự sát?
- Tại sao lại phải tự giết mình? Lúc ấy thầy cũng đã bị thương nặng rồi.-
- Tại vì không được phép để địch bắt làm tù binh, đã có lệnh như vậy!
- Lệnh của ai?-
- Của cấp trên.
- Nhờ đâu em biết như vậy?
- Em biết hết. Chỗ em có những người từ Alma-Ata, từ trận Moskva về chơi. Nghĩa là thầy đã không thi hành mệnh lệnh của cấp trên, phải không?
- Thế cha em có ở ngoài mặt trận hay chưa?
- Chưa, cha em lo việc gọi người ra trận.
- Nếu thế thì thầy khó giải thích với em. Thầy chỉ có thể nói, rằng lúc ấy thầy không có lối thoát nào khác.
- Dầu sao thầy vẫn phải thi hành mệnh lệnh chứ!
- Tại sao cậu lại bám lấy chuyện đó? - một học sinh khác đứng dậy. - Thầy giáo của chúng mình đã cùng chiến đấu bên cạnh những người du kích Nam Tư. Cậu còn đòi gì nữa?
- Dầu sao thầy vẫn phải thi hành mệnh lệnh! - cậu kia khăng khăng cãi.
Thế là cả lớp nhao nhao lên, không khí im lặng như tờ liền bị phá vỡ: “Phải thi hành!”, “Không phải thi hành!”, “Thầy có thể!”, “Không thể!”, “Thầy đúng!”, “Không đúng!”… Thầy giáo đấm mạnh xuống bàn:
- Thôi ngay! Đang giờ Địa Lý kia mà! Tôi đã chiến đấu như thế nào và điều gì xảy ra với tôi, thì có người được biết và nơi cần biết.