Chương 6
Buổi chiều trên Thái Bình Dương, ở phía nam quần đảo Aleut, sóng bắt đầu lớn dần. Gió đông nam nổi lên từ vùng đất thấp châu Mỹ, mạnh dần và mỗi lúc một định hướng rõ rệt. Nước bắt đầu rùng rùng chuyển động ngoài khơi thoáng đãng, nặng nề vật vã, tung bọt trắng xoá, dồn dập tạo nên hết lớp sóng này đến lớp sóng khác. Đó là dấu hiệu báo trước nếu không có bão thì biển cũng sẽ động lâu.
Đối với tàu sân bay ‘Convention’, thứ sóng này giữa đại dương không có gì nguy hiểm. Nếu là lần khác, hẳn nó không tính đến chuyện thay đổi tọa độ của mình. Nhưng vì nó sắp sửa nhận cho hạ cánh hai chiếc máy bay chở hai tiểu ban đặc biệt đi xin ý kiến cấp thượng đỉnh đang vội quay trở về đây, cho nên nó bèn quay mũi ngược hướng gió để giảm sức đập của sóng bên mạn tàu. Mọi việc diễn ra bình thường. Lúc đầu, chiếc máy bay từ San Francisco hạ cánh, tiếp đến, chiếc máy bay từ Vlapostok.
Hai tiểu ban quay trở lại với đầy đủ thành viên, tất cả đều đăm đăm, im lặng. Mười lăm phút sau họ đã ngồi quanh bàn bắt đầu phiên họp kín. Rồi năm phút sau đó, bức điện mật mã hỏa tốc sau đây được truyền trên trạm quỹ đạo ‘Paritet’, để gửi tới Thiên Hà Chủ Nhân cho hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1:
“Gửi hai phi công vũ trụ-kiểm tra 1-2 và 2-1 ở trạm quỹ đạo ‘Paritet’. Hãy báo cho hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1 đang ở bên ngoài Thái Dương Hệ không được có bất cứ hành động gì. Họ phải ở tại chỗ, chờ chỉ thị đặc biệt của Trung tâm điều khiển”.
Sau đó, không bỏ lỡ một phút, hai tiểu ban có thẩm quyền đặc biệt bắt đầu trình bày các lập trường và đề nghị của mỗi bên về cách giải quyết cuộc khủng hoảng vũ trụ…
Tàu sân bay ‘Convention’ đậu ngược gió giữa các lớp sóng đuổi nhau bất tận trên Thái Bình Dương. Không một ai trên thế giới biết rằng, lúc ấy trên boong tàu, số phận của cả hành tinh đang được quyết định…
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Zarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.
Ở vùng này mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.
Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Còn hai giờ đi đường nữa thì đến nghĩa địa Ana-Bejit. Đám tang vẫn di chuyển trên thảo nguyên cỏ gai, Edigej-Bão Tuyết cưỡi lạc đà đi trước dẫn đường. Con Karanar vẫn sải từng bước dài không chút mỏi mệt, tiếp đến chiếc máy kéo có rờ mooc đặt thi hài Kazangap và kiên nhẫn ngồi bên cạnh là chồng của Ajzada, sau cùng là chiếc máy xúc ‘Belarus’. Con chó hung Zholbars ngực nở vẫn nghiêm túc và tự tin chạy bên hông, khi vọt lên trước, lúc lùi xuống phía sau, khi dừng lại đôi chút vì một lý do hệ trọng nào đó.
Mặt trời lên gần đỉnh đầu, tỏa ánh nắng gay gắt. Ba phần tư quãng đường đã lùi lại phía sau, vậy mà thảo nguyên cứ mỗi lúc lại trải rộng trước mắt những khoảng đất trống mới, chạy tuốt đến tận chân trời, đồng cỏ mênh mông bát ngát. Đã có thời kỳ đất này bị bọn Choang Choang đến xâm lấn và chiếm cứ. Từng sống ở miền này còn có các bộ tộc du mục khác, và họ thường gây chiến tranh với nhau để giành giật các bãi chăn, các giếng nước. Khi bộ tộc này chiến thắng, khi thì bộ tộc khác. Nhưng cả bộ tộc chiến thắng lẫn bộ tộc thất bại đều ở lại vùng cũ, có điều là phạm vi lãnh thổ hoặc bị thu hẹp, hoặc được mở rộng hơn. Elizarov bảo rằng miền thảo nguyên cỏ gai với tư cách là không gian sinh sống, xứng đáng được tranh giành như thế. Thời xưa, vào mùa xuân và mùa thu, miền này có nhiều mưa hơn bây giờ. Cỏ thừa đủ cho những đàn súc vật lớn và nhỏ, thời đó có nhiều thương nhân đã qua đây buôn bán. Nhưng sau đó hình như khí hậu thay đổi đột ngột - mưa ngừng rơi, các giếng nước cạn khô, cỏ tươi lụi dần. Thế là các bộ tộc, bộ lạc lần lượt bỏ đi nơi khác. Bọn Choang Choang cũng chuồn hẳn. Chúng kéo tới miền Edil, là tên gọi vùng Volga ngày ấy, rồi mất hút ở đó. Không ai biết chúng từ đâu tới, và cũng không ai biết chúng biến đi đâu. Nghe đâu chúng đã gặp hiểm họa khi tụ tập nhau vượt sông Volga (hồi xưa gọi là Edil), mặt sông đóng băng đột nhiên vỡ toác ra và tất cả bọn chúng cùng đàn súc vật đều chìm nghỉm…
Những người gốc Sarozek - dân tộc Nomad Kazak - từ thời xưa không hề rời bỏ quê hương mình, họ vẫn trụ lại ở những chỗ có thể đào giếng mới để lấy nước. Nhưng thời kỳ sôi nổi nhất đối với miền Sarozek trùng với những năm sau chiến tranh. Những chiếc ô tô chở nước đã xuất hiện, mỗi chiếc xe như thế, nếu người lái thông thuộc địa hình, có thể phục vụ ba bốn bãi chăn theo mùa. Các đơn vị thuê bãi chăn súc vật ở miền này - các nông trang và nông trường thuộc tỉnh bạn - đã tính chuyện xây dựng những cơ sở thường trực ở đây để chăn nuôi theo mùa. Họ đo đạc, ước tính xem nên xây dựng những gì và tốn kém bao nhiêu. Và rất may là họ không vội vã. Quanh nghĩa địa Ana-Bejit đã xuất hiện một cách lặng lẽ, khó nhận ra, một thành phố không tên - tạm gọi là ‘Hộp Thư’. Người ta quen nói là tôi đi Hộp Thư, tôi đã ghé qua Hộp Thư… ‘Hộp Thư’ lớn dần, các công trình mọc lên và người lạ không được phép vào. Một con đường trải nhựa nối một đầu thành phố với sân bay vũ trụ, đầu kia với ga xe lửa. Vùng Sarozek bắt đầu có dân cư công nghiệp từ đấy. Ở phía kia, toàn bộ quá khứ chỉ còn lại nghĩa địa Ana-Bejit nằm trên hai cái gò song sinh nối tiếp nhau, như hai cái bướu lạc đà - gò Egis và gò Tiube - nơi mai táng danh dự nhất miền Sarozek này. Ngày xưa, đôi khi dân cư các vùng xa cũng đưa thi hài người thân đến chôn cất tại đây. Ở xa đến, họ phải ngủ qua đêm dọc đường, giữa thảo nguyên. Nhưng họ có quyền tự hào đã dành cho cha ông mình một vinh dự đặc biệt, nơi đây chôn cất những người đáng kính và nổi tiếng nhất trong nhân dân, những người sống lâu, biết rộng, tên tuổi rạng rỡ nhờ lời nói và việc làm. Elizarov là người biết mọi chuyện, đã gọi nơi này là đền Pantheon Sarozek.
Đám tang lạ lùng do lạc đà, máy kéo và có con chó hung hộ tống, đi từ ga xe lửa Boranly-Bão Tuyết, hôm nay cũng đang nhắm hướng Ana-Bejit tiến tới.
Nghĩa địa Ana-Bejit có lịch sử của nó. Truyền thuyết kể rằng bọn rợ Choang Choang chiếm cứ miền Sarozek ngày xưa đã đối xử vô cùng dã man với tù binh. Nếu chúng bán họ làm nô lệ cho miền khác, thì trường hợp đó được coi là kết cục may mắn cho người bị bắt, vì sớm hay muộn người bị bán làm nô lệ cũng có thể trốn về quê cũ. Số phận khủng khiếp chờ đợi những ai bị bọn Choang Choang giữ lại làm nô lệ cho chúng. Chúng thủ tiêu trí nhớ của người nô lệ bằng một cực hình là chụp da lạc đà lên đầu nạn nhân. Thông thường số phận này rơi vào những chàng trai bị bắt trong lúc chiến đấu. Thoạt nhiên chúng cạo trọc đầu họ, gọt nhẵn thín đến chân từng sợi tóc. Tiếp đó, những tên đồ tể giàu kinh nghiệm cắt tiết một con lạc đà khỏe mạnh, chúng lột lấy bộ da. Trước hết, lấy chỗ da cổ dày và dai nhất, cắt thành từng khoanh và chụp ngay khoanh da còn nóng hôi hổi ấy lên cái đầu cạo trọc của người bị bắt, trên đó đã bôi sẵn một lớp hồ bám dính ngay tức khắc. Trông y hệt một chiếc mũ bơi hiện đại. Thủ tục ấy gọi là chụp da đầu. Người nào trải qua thủ tục đó thì hoặc sẽ hấp hối vì không chịu nổi cực hình, hoặc sẽ suốt đời mất trí nhớ, biến thành mankur - một nô lệ không nhớ gì đến quá khứ của mình nữa. Khoảng da cổ của một con lạc đà đủ để bịt lên năm, sáu cái đầu người. Sau khi chụp da đầu, mỗi tù binh sẽ bị tròng vào cổ một cái gông bằng gỗ để họ không thể chạm đầu xuống đất. Tiếp đó họ bị điệu ra xa chỗ có người ở, để những tiếng kêu xé ruột của họ không vẳng đến tai mọi người. Họ bị quẳng ngoài đồng trống, ngay dưới trời nắng, chân tay bị trói chặt, không được ăn uống gì hết. Cực hình ấy hành hạ họ mấy ngày đêm liền. Bọn Choang Choang bố trí lực lượng canh gác ở một số chỗ đề phòng trường hợp những người cùng bộ lạc với đám tù binh tìm cách cứu họ thoát chết. Đề phòng thế thôi, chứ rất hiếm khi có khả năng giải thoát tù binh, bởi vì giữa đồng cỏ trống trải, mọi sự đi lại đều lồ lộ trước mắt. Và nếu sau đó có biết tin rằng ai đã bị bọn Choang Choang biến thành mankur, thì ngay những người thân thiết nhất cũng không muốn cứu thoát hoặc chuộc lại anh ta nữa, bởi vì bấy giờ anh ta chỉ là một thứ hình nộm khoác lốt người. Chỉ riêng có một bà mẹ người Najman, tương truyền tên là Ana-Najman, quyết không chấp nhận số phận nói trên của đứa con trai. Truyền thuyết vùng Sarozek có kể lại chuyện này. Và từ đó nghĩa địa mang tên Ana-Bejit, nghĩa là Lòng Mẹ.
Những người bị ném ra giữa đồng chịu cực hình phần lớn sẽ chết nắng. Trong số năm, sáu mankur, chỉ một, hai còn sống sót. Họ chết gục không phải vì đói và thậm chí không phải vì nóng, mà vì những cơn đau ghê gớm, khủng khiếp do khoanh da lạc đà chụp lên đầu khô dần và co ép lại. Dưới ánh nắng thiêu đốt, khoanh da ấy cứ tàn nhẫn co vào, thít chặt cái đầu trọc của người nô lệ như một chiếc đai sắt. Bước sang ngày thứ hai, những sợi tóc bị cạo của nạn nhân đã bắt đầu mọc. Những sợi tóc cứng và thẳng của dân châu Á đôi khi xuyên qua lớp da lạc đà bịt ngoài, còn phần lớn không tìm được lối thoát, bèn cong lại và chui ngược vào da đầu, gây thêm đau đớn. Hình phạt cuối cùng đi liền với tình trạng mất lý trí. Mãi sang ngày thứ năm, bọn Choang Choang mới tới xem có tù binh nào sống sót. Nếu chúng thấy dù chỉ một người trong số nạn nhân sống sót thì chúng coi đã đạt mục đích. Chúng cho người ấy uống nước, cởi trói và hồi phục dần dần sức lực cho anh ta. Anh ta đã trở thành một gã nô lệ - mankur - mất hết trí nhớ và do đó rất có giá trị, giá trị bằng mười nô lệ khỏe mạnh. Thậm chí có cái lệ như sau: trong các cuộc chém giết giữa các bộ lạc, nếu giết chết một gã nô lệ-mankur, thì phải bồi thường gấp ba so với khi giết một người của bộ lạc.
Gã mankur không biết mình là ai, thuộc bộ lạc nào, không biết tên mình là gì, không nhớ thời niên thiếu, không nhớ cha mẹ - tóm lại, gã mankur không nhận thức được rằng mình là một con người. Bị mất ý thức ‘cái tôi’, gã mankur có một loạt ưu điểm về phương diện kinh tế. Y là một thứ lao động không biết nói và do vậy tuyệt đối phục tùng chủ, tuyệt đối không nguy hiểm. Y không bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ trốn. Đối với chủ nô, điều đáng sợ hơn cả là sự nổi loạn của nô lệ. Mỗi người nô lệ là một người nổi loạn tiềm ẩn. Mankur là ngoại lệ duy nhất - y hoàn toàn xa lạ với các dự phóng nổi loạn hoặc bất phục tòng, y không biết đến ước vọng đó. Bởi vậy khỏi cần canh giữ y, càng không ngại gì những ý định thầm kín của y. Giống như loài chó, gã mankur chỉ công nhận chủ của mình, y không giao tiếp với những người khác. Mọi ý nghĩ của y chỉ tựu trung ở việc làm sao no bụng, y không hề lo những cái khác. Song đã giao việc gì y đều làm đến nơi đến chốn, làm một cách mù quáng, cần mẫn. Mankur thường bị giao làm những việc bẩn thỉu nhất, vất vả nhất, hoặc tẻ nhạt, buồn chán nhất, những việc đòi hỏi sự kiên nhẫn tột độ. Chỉ mankur mới có thể chịu đựng một mình cảnh hoang vắng rợn người giữa đồng cỏ, không rời bầy lạc đà mà y chăn thả một bước. Ở bãi chăn xa, một gã mankur có thể thay thế bằng mấy chục người. Mà chỉ cần cấp thức ăn cho gã, gã sẽ làm việc liên tục suốt mùa đông sang mùa hè, không một lời phàn nàn kêu ca. Đối với gã, lệnh của chủ là trên hết. Còn bản thân gã, ngoài thức ăn và manh áo che thân cho khỏi chết cóng giữa thảo nguyên, gã không đòi hỏi thứ gì hết…
Chặt đầu tù binh hoặc hành hạ sao đó để họ kinh sợ còn dễ hơn cái việc làm cho con người mất hẳn trí nhớ, không còn trí tuệ, nhổ bật tận gốc những gì đồng hành với con người cho đến hơi thở cuối cùng, những gì là vốn liếng duy nhất người ấy mang theo xuống mồ mà không ai hay biết. Bọn Choang Choang du mục cũng đã hiểu được bản chất thầm kín ấy của con người, khi chúng tìm tòi thứ hình phạt dã man nhất từ trong lịch sử đen tối của chúng. Chúng đã tìm ra cách cướp đi của người nô lệ trí nhớ sống động của họ, qua đó gây tổn thất nặng nề nhất, trong số mọi tổn thất mà người ta có thể và không thể nghĩ ra, cho bản tính con người. Không phải ngẫu nhiên mà khi than khóc đứa con trai bị biến thành mankur, bà Ana-Najman đã thốt lên trong cơn đau khổ tuyệt vọng:
“Khi chúng huỷ hoại trí nhớ của con, khi chúng siết chặt đầu con, con yêu của mẹ, như dùng kìm sắt bóp vỡ hạt dẻ, để cho khoanh da lạc đà quắt lại thít quanh đầu con, khi cái đai sắt vô hình siết chặt đầu con tới mức đôi mắt con lòi ra ngoài tròng, khi trên đống lửa không có khói giữa đồng, con bị cơn khát cháy họng hành hạ mà không có một giọt nước trên trời rơi xuống thấm môi con, liệu còn có thấy vầng thái dương vẫn ban tặng sức sống cho mọi người kia trở nên đáng căm ghét nhất, là thiên thể đen tối nhất trong số mọi thiên thể trên thế gian này chăng?
Khi con bị cơn đau xâu xé, tiếng kêu thét vang vọng giữa đồng không mông quạnh, khi con quằn quại lạc giọng ngày đêm kêu trời, khi con uổng công chờ trời kia cứu giúp, khi thể xác quằn quại đau đớn nhầy nhụa những phân và nước tiểu vãi ra trong cơn co giật, khi con lịm dần giữa mùi hôi thối, mất cả lý trí, bị ruồi nhặng ăn thịt, liệu còn có gắng chút sức tàn mà nguyền rủa Thượng đế đã tạo ra hết thảy chúng sinh trong cái thế gian bị chính người ruồng bỏ hay không?
Khi bóng tối bao phủ cái lý trí đã bị cực hình tước bỏ vĩnh viễn, khi trí nhớ của con bị bạo lực huỷ hoại đã mất hết sợi dây liên hệ với quá khứ, khi trong cơn giãy giụa điên cuồng con đã quên đi ánh mắt người mẹ, tiếng suối róc rách dưới chân núi, nơi con vẫn chơi đùa vào những ngày hè, khi con quên biến tên mình và tên cha mình, khi khuôn mặt những người mà con từng lớn lên bên họ đã mờ đi và tên cô gái đáng yêu từng mỉm cười bẽn lẽn với con cũng bị quên biến, liệu con, trong lúc rơi xuống vực thẳm quên lãng, còn có nguyền rủa người mẹ của mình bằng những lời đáng sợ nhất vì người ấy đã thai nghén con trong bụng và sinh ra con để con phải chịu cảnh này?”…
Câu chuyện trên thuộc về thời kỳ bọn Choang Choang sau khi bị xua đuổi khỏi ranh giới phía Nam của châu Á du mục, đã tràn lên phương Bắc. Và khi đã chiếm cứ lâu dài miền Sarozek, chúng tiến hành những cuộc chiến tranh liên miên nhằm mở rộng đất đai và bắt thêm nô lệ. Thời gian đầu, nhờ lối tấn công bất ngờ vào những vùng kế cận, chúng đã bắt được nhiều người, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em. Chúng biến họ thành nô lệ. Nhưng sự chống trả bọn xâm lấn ngày càng lớn dần, những cuộc đụng độ ác liệt lần lượt nổ ra. Bọn Choang Choang không định rời bỏ Sarozek, mà ngược lại, chúng cố bám trụ tại miền đồng cỏ bao la rất thuận lợi cho việc chăn nuôi này. Các bộ lạc địa phương không cam chịu cảnh mất mát và họ coi việc đánh đuổi bọn xâm lược, dù sớm hay muộn, là quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Những trận đánh lớn và nhỏ đạt thắng lợi mỗi lần một giòn giã hơn. Tuy nhiên, giữa các cuộc chiến ấy cũng có những ngày thanh bình.
Vào một trong những ngày thanh bình ấy, những nhà buôn chở hàng tới vùng đất của bộ tộc Najman. Trong lúc ngồi uống trà có kể chuyện, rằng họ đã vượt miền Sarozek mà không gặp trở ngại đáng kể nào từ phía bọn Choang Choang. Giữa thảo nguyên họ gặp một chàng trẻ tuổi chăn một đàn lạc đà lớn, họ muốn nói chuyện với anh ta, nhưng hóa ra anh ta là mankur. Nhìn bề ngoài khỏe mạnh, không ai ngờ anh ta lại từng bị cực hình như thế. Có lẽ trước đây anh ta cũng mau mồm mau miệng và sáng dạ cũng chẳng thua kém ai. Anh ta còn trẻ lắm, râu mới lún phún, mặt mũi trông dễ coi, thế nhưng về khoản nói năng thì lại ngượng nghịu như thể mới sinh ra đời ngày hôm qua. Anh ta chẳng nhớ, chẳng biết tên mình, tên cha, tên mẹ là gì, không hiểu bọn Choang Choang đã làm gì mình, gốc gác quê hương ở đâu cũng chẳng biết nốt. Hỏi gì cũng câm lặng, chỉ trả lời hai tiếng “có”, “không”, tay lúc nào cũng khư khư giữ rịt cái mũ đội chặt trên đầu. Tuy cười sự tật nguyền của người khác là có tội, nhưng mọi người không nhịn được. Khi kể đến đấy, họ cười cái việc thì ra, có những gã mankur bị da lạc đà mọc ăn vào cả da đầu. Đối với một gã mankur như thế, không cực hình nào khủng khiếp bằng việc dọa lột mũ của gã. Gã sẽ lồng lên như ngựa bất kham, quyết không cho ai chạm tới đầu gã. Những gã bị như vậy không bao giờ bỏ mũ ra, ngay cả khi nằm ngủ… Tuy nhiên - các vị khách kể tiếp, - tuy ngớ ngẩn thật đấy, nhưng gã mankur ấy, làm việc rất chu đáo - gã chăm chăm canh giữ đàn lạc đà suốt thời gian đoàn nhà buôn chưa đi xa. Một nhà buôn lúc chia tay có thử trêu gã mankur:
- Đường chúng tôi đi còn dài lắm. Cậu có muốn chuyển lời thăm hỏi tới ai, cho cô gái ở phương nào hay không? Cậu cứ nói, đừng ngại. Cậu nghe rõ chứ? Có lẽ cậu muốn chuyển một chiếc khăn tặng ai chăng?
Gã mankur im lặng hồi lâu nhìn nhà buôn kia, đoạn thốt ra:
- Hằng đêm tôi nhìn mặt trăng, và nó nhìn tôi. Nhưng đôi bên không nghe thấy tiếng của nhau… Trên ấy có người ngồi chơi…
Trong số người nghe câu chuyện của tốp nhà buôn, có một phụ nữ luôn tay rót trà mời khách. Đấy là bà Ana-Najman, bà đã đi vào truyền thuyết vùng Sarozek dưới cái tên đó.
Ana-Najman không biểu lộ thái độ trước mặt khách, chẳng ai nhận thấy cái tin ấy đột nhiên khiến sắc mặt bà thay đổi hẳn đi như thế nào. Bà rất muốn hỏi kỹ các nhà buôn về gã mankur trẻ tuổi nọ, nhưng bà kinh sợ chính điểm đó - bà sợ biết nhiều hơn những gì họ kể. Và bà đã im lặng, nén chặt trong lòng nỗi lo canh cánh đang muốn trỗi dậy… Lúc ấy câu chuyện chuyển sang đề tài khác, chẳng ai còn lưu tâm đến gã mankur bất hạnh - thiếu gì chuyện lạ trên cõi đời này. Riêng bà Ana-Najman, cố khắc phục cơn sợ hãi đang xâm chiếm lòng bà, cố giữ cho tay khỏi run lẩy bẩy, tựa hồ bà phải dằn lòng bóp chết con chim bị thương đang muốn cất tiếng kêu thảm thiết, bà kéo sụp chiếc khăn tang màu đen xuống che bớt mặt - chiếc khăn bà chít từ lâu trên mái tóc chớm bạc của mình.
Hôm sau đoàn thương khách lên đường đi tiếp. Trong cái đêm thao thức ấy, Ana-Najman hiểu rằng sẽ không bao giờ yên lòng khi chưa tìm được giữa thảo nguyên gã mankur nọ và chưa quả quyết rằng đó không phải là con trai bà. Cái ý nghĩ nặng nề, đáng sợ ấy lại làm nổi dậy trong trái tim người mẹ nỗi nghi ngờ vẫn lẩn khuất lâu nay trong linh cảm lờ mờ về việc con trai bà đã chết trận… Và dĩ nhiên, thà phải chôn nó hai lần còn đỡ khổ hơn là cứ luôn luôn trăn trở, kinh sợ, nghi ngờ như thế này.
Con trai bà đã bị giết trong một trận chiến đấu với bọn Choang Choang ở phía Sarozek. Chồng bà hy sinh trước đó một năm, ông là một người nổi tiếng oanh liệt của bộ tộc Najman. Sau đó, con trai bà lần đầu ra trận để trả thù cho cha. Đã có lệ không được bỏ xác đồng đội ngoài bãi chiến trường, các chiến hữu phải mang xác con bà về, nhưng hóa ra họ không thể làm nổi việc đó. Trong trận đánh ác liệt đó, nhiều người nhìn thấy lúc xông tới sát kẻ thù, con trai bà đã ngã sấp xuống bờm ngựa và con ngựa hoảng hốt trước âm thanh trận đánh, đã phóng vọt đi. Lúc ấy, con bà rớt khỏi yên, nhưng một chân còn vướng chặt vào bàn đạp nên cứ treo lơ lửng bên hông ngựa, còn con ngựa thấy vậy càng kinh hoảng thêm, đã mang theo thi thể của chủ phóng như điên ra thảo nguyên. Tai hại thay, nó lại lao về phía căn cứ của kẻ thù. Mặc dù trận đánh xáp lá cà đang lúc hăng máu nhất, mọi người đều phải chiến đấu, song hai chiến sĩ đã phải tách ra đuổi theo cho kịp con ngựa để lấy thi hài đồng đội về. Tuy nhiên, có một tốp địch mai phục dưới một cái khe đã phái mấy tên Choang Choang phi ngựa chặn đường. Một trong hai chiến sĩ Najman bị giết bằng cung tên ngay trên mình ngựa, còn người thứ hai bị thương nặng, phải quay ngựa trở lại và vừa về kịp với đồng đội thì ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Trường hợp ấy đã giúp đội quân Najman phát hiện kịp thời bọn Choang Choang mai phục dưới khe để đánh vào sườn họ vào giờ phút quyết định nhất. Đội quân Najman vội rút lui để tổ chức lại lực lượng rồi tiếp tục xông lên. Và dĩ nhiên không một ai còn bụng dạ nào để ý đến chuyện gì xảy ra với người chiến binh trẻ, con trai bà Ana-Najman… Anh chiến sĩ bị thương, người đã kịp phóng về với đồng đội, sau đó kể rằng họ đuổi theo con ngựa được một quãng thì mất hút, không rõ nó chạy theo hướng nào…
Suốt mấy ngày liền đội quân Najman đã đi tìm xác con bà. Nhưng họ không thể phát hiện cả anh chiến sĩ tử trận lẫn con ngựa, cả vũ khí của anh lẫn bất kỳ dấu tích nào khác. Không một ai nghi ngờ việc anh đã chết. Dù chỉ bị thương, thì sau mấy ngày vừa rồi anh cũng sẽ chết giữa thảo nguyên vì khát và vì mất máu. Mọi người khóc than một hồi, cầu nguyện cho người chiến binh trẻ bị chết mất xác ngoài thảo nguyên hoang vắng. Thật là vết nhục cho hết thảy mọi người, chị em phụ nữ ở khu lều trại của bà Ana-Najman vừa khóc vừa trách móc chồng con và anh em mình: “Quạ sẽ rỉa xác cậu ấy, chó sói sẽ xâu xé thi hài cậu ấy thành nhiều mảnh. Để xảy ra chuyện đó mà các người còn vỗ ngực ta là đàn ông nữa ư!”…
Từ đó bắt đầu những ngày dài lê thê đối với bà Ana-Najman. Bà hiểu rằng trong chiến trận phải có người ngã xuống, nhưng cứ nghĩ đến con trai bà bị chết mất xác ngoài thảo nguyên, không được chôn cất tử tế, bà lại đau đớn khôn nguôi. Những ý nghĩ nặng nề, triền miên hành hạ bà. Bà chẳng biết thổ lộ với ai cho vơi nỗi đau khổ, cũng chẳng có ai để than vãn, ngoài chính ông trời…
Để ngăn mình nghĩ đến chuyện đó, bà phải chính mắt nhìn thấy con trai bà đã chết. Lúc ấy thì còn ai tranh cãi với số phận được nữa? Điều khiến bà phân vân nhất là con ngựa của con trai bà đã biến mất hút. Ngựa không bị thương, ngựa chỉ kinh sợ bỏ chạy. Như mọi con, ngựa có đàn, sớm muộn gì nó cũng phải trở về chốn cũ, đem theo người chủ bị mắc chân ở bàn đạp. Và khi đó, dù đáng sợ đến mấy chăng nữa, bà cũng sẽ thét lên, gục đầu rên rỉ trên thi thể còn sót lại của đứa con. Bà sẽ cào cấu mặt mũi mình, sỉ vả bản thân sao cho ông trời trên kia cũng phải xấu hổ, nếu ông ta hiểu nổi những lời bóng gió. Nhưng rồi lòng bà sẽ thanh thản và bà sẽ chuẩn bị tiếp nhận cái chết của chính bà với lý trí lạnh lùng, bà chờ nó đến bất cứ giờ nào, không cần bám lấy cuộc sống trần thế dù trong ý nghĩ. Nhưng xác con bà không hề tìm thấy, và con ngựa cũng chẳng trở về. Nỗi ngờ vực cứ hành hạ bà mẹ, mặc dù bà con xung quanh đã bắt đầu quên dần chuyện nọ, bởi lẽ mọi mất mát đều phôi pha và bị quên lãng với thời gian… Chỉ riêng bà mẹ là không thể yên lòng và lãng quên. Các ý nghĩ của bà cứ xoay quanh một chuyện ấy. Con ngựa nó ra sao, yên cương và vũ khí đâu, căn cứ vào mấy điều ấy có thể gián tiếp xác định điều gì đã xảy ra với con trai bà. Bởi vì có thể bọn Choang Choang bắt được con ngựa đâu đó ngoài thảo nguyên khi nó đã kiệt sức, thêm một con ngựa với đủ bộ yên cương cũng là một chiến lợi phẩm. Nếu vậy, bọn địch sẽ xử con trai bà bị kéo lê theo bàn đạp như thế nào? Chúng sẽ chôn hay vứt cho quạ rỉa, sói tha? Còn nếu nó sống, nó còn sống nhờ một phép mầu nào đó? Chúng sẽ đánh con bà đến chết và bằng cách ấy chấm dứt mọi nỗi đau đớn của nó hay là chúng ném nó ra đồng cỏ, hay là…? … Lỡ chúng…?
Sự nghi ngờ triền miên không dứt. Khi các thương khách vui miệng kể chuyện về gã mankur trẻ tuổi mà họ gặp ngoài thảo nguyên, họ đâu ngờ đã khoét sâu vào trái tim đau thương của bà Ana-Najman. Lòng bà tê tái vì một linh cảm bất thường, và cái ý nghĩ rằng gã mankur ấy rất có thể là đứa con mất tích cứ mỗi lúc một choán thêm tâm trí bà. Người mẹ hiểu rằng mình không tài nào yên tâm khi chưa tìm ra, nhìn thấy gã mankur nọ và tin rằng gã không phải là con trai mình.
Ở vùng chân núi, nửa là đồng cỏ này, nơi bộ tộc Najman đóng trại mùa hè, có mấy dòng suối chảy qua. Suốt đêm bà Ana-Najman lắng nghe tiếng suối chảy róc rách, cái tiếng nước suối róc rách, ít hòa điệu với tâm trạng bồn chồn của bà ấy, nói gì với bà? Bà muốn yên lòng. Bà muốn nghe cho đã tiếng nước chảy mạnh, trước khi lên đường ra thảo nguyên Sarozek hoang vu. Bà mẹ biết rằng lặn lội một mình ra đó là liều lĩnh và nguy hiểm, nhưng bà không muốn nói cho ai biết dự định của mình. Sẽ chẳng ai hiểu nổi, ngay những người gần gũi nhất cũng sẽ không tán thành dự định của bà. Sao lại đi tìm một đứa con đã bị giết từ lâu? Và nếu như do một sự tình cờ nào đó nó còn sống và bị biến thành mankur, thì việc tìm kiếm nó, tan nát cõi lòng vì nó lại càng là điều vô nghĩa, vô ích. Bởi lẽ mankur chỉ là cái vỏ ngoài, cái lốt của con người trước đó mà thôi…
Đêm ấy, trước khi lên đường, bà mẹ ra khỏi khu lều trại mấy lần. Bà căng mắt, lắng tai, cố tập trung tư tưởng để suy nghĩ. Vầng trăng khuya lơ lửng trên bầu trời không một gợn mây, tỏa ánh sáng trắng đều nhàn nhạt màu sữa. Vô số căn lều trắng nằm rải rác dưới chân đồi, trông như một đàn chim lớn đậu lại, ngủ đêm ở đây, trên bờ mấy dòng suối rì rào. Cạnh khu lều trại, ở các dãy chuồng cừu và xa hơn. Trên bãi cỏ, nơi đàn ngựa đang nhẩn nha gặm cỏ, văng vẳng tiếng chó sủa và giọng nói lao xao của nhiều người. Nhưng gây xúc động hơn cả đối với bà Ana-Najman là tiếng hát của các cô gái cạnh dãy chuồng cừu gần đó, chính bà có thời đã hát những bài ca ban đêm như vậy… Từ hồi bà về đây làm dâu, mùa hè nào, bộ tộc bà cũng đến đây đóng trại ở vùng này. Cả cuộc đời bà đã trôi qua ở đây: từ thời gia đình bà còn đông vui, đã dựng ở đây một lúc bốn căn lều, một làm bếp, một làm phòng khách và hai làm buồng ngủ - và sau đó, khi bị bọn Choang Choang tấn công, bà chỉ còn độc một mình…
Giờ đây bà vừa rời khỏi căn lều cô đơn của mình, bà đã chuẩn bị lên đường từ lúc tối. Bà mang theo thức ăn và nước uống, cố đem nhiều nước. Bà đựng nước trong hai chiếc bao da, phòng trường hợp chưa tìm ra giếng nước giữa thảo nguyên…
Từ tối qua, con lạc đà cái Akmai đã được buộc gần căn lều. Nó là niềm hy vọng, là bạn đường của bà. Liệu bà có dám lần ra giữa thảo nguyên hoang vắng, nếu không trông cậy ở sức lực và bước đi nhanh nhẹn của con Akmai! Năm nay con Akmai đang giai đoạn nghỉ sau hai lần đẻ và đang sung sức cho các cuộc đi dài. Hơi gầy, hai cặp chân dài và chắc, đệm chân nây nẩy, chưa bị chai cứng vì tuổi già hoặc vì phải chở nặng quá sức. Với hai cái bướu vững chãi, cái đầu cân đối trên cái cổ gân guốc đẹp đẽ, hai lỗ mũi thanh thanh, linh động như hai cánh bướm, hít đầy không khí trong lúc chạy, con Akmai có giá trị lớn bằng cả một đàn. Người ta sẵn sàng đánh đổi hàng chục lạc đà con để lấy con lạc đà cái đi giỏi, bước nhanh này làm giống. Đây là của báu cuối cùng, giá trị như vàng trong tay bà Ana-Najman, là ký ức cuối cùng về sự giàu có trước đây của bà. Mọi thứ khác đều đã đội nón ra đi dễ dàng, nào trả các khoản nợ, nào làm ma chồng con dịp bốn mươi ngày và cúng giỗ hàng năm… Cách đây ít lâu, vì quá đau khổ, bà đã bỏ hết số tiền dành dụm được làm một bữa giỗ đứa con trai, thật to, mời tất cả bà con thuộc bộ tộc Najman trong vùng tới dự.
Rạng sáng, bà Ana-Najman ra khỏi căn lều, sẵn sàng lên đường. Bà dừng ở cửa, đưa mắt nhìn từ biệt khu lều trại còn đang say ngủ. Ana-Najman vẫn còn giữ được vẻ đẹp và sự cân đối ngày trước. Bà thắt một cái dây lưng đúng như khi lên đường đi xa, đi ủng, mặc quần sharova rộng ống, áo kamzol không có tay choàng bên ngoài áo dài, cuối cùng là chiếc áo khoác quàng vai. Bà chít một chiếc khăn vuông trắng, thắt nút sau gáy. Đêm qua bà đã quyết định như vậy trong khi nghỉ ngơi - nếu còn hy vọng đứa con sống sót thì không nên chít khăn tang màu đen, còn nếu hết hy vọng, thì có thừa thời gian để chít lại tấm khăn đen muôn thuở. Ánh bình minh còn chưa tỏ, tạm giấu những sợi tóc bạc và những nếp nhăn đau khổ hằn sâu trên khuôn mặt người mẹ. Cặp mắt bà bỗng nhòe ướt, bà thở dài não nuột. Bà đâu ngờ sẽ phải chịu đựng cảnh này, nhưng rồi bà lấy lại tinh thần. Bà thì thầm câu đầu tiên trong bài nguyện: ‘Ashvadan lia illa hil-alla’[10], rồi quả quyết tiến lại chỗ con lạc đà, bắt nó quỳ xuống. Con Akmai hục hặc một chút cho ra vẻ, miệng khẽ hí vài tiếng, rồi thong thả quỳ xuống. Bà Ana-Najman vắt ngay cái túi qua yên, leo lên lưng, thúc khẽ vào sườn nó, và Akmai đứng dậy, đưa bà chủ lên cao hẳn khỏi mặt đất. Bây giờ con Akmai đã hiểu rằng nó phải đi xa…
Không ai trong bản biết chuyến đi của bà Ana-Najman, trừ cô em họ ngái ngủ giúp việc trong nhà chốc chốc lại ngáp dài, không ai tiễn chân bà vào giờ này. Tối qua bà bảo cô em họ rằng bà sẽ đi thăm mấy người bạn gái thời trẻ, và nếu tiện đò giang, thì bà cũng sẽ cùng với họ hành hương đến vùng đất Kinchak để cúng thánh Iassavi…
Bà đi sớm để khỏi bị ai căn vặn. Sau khi rời bản một quãng xa, bà rẽ về hướng Sarozek - về phía thảo nguyên hoang vắng im lìm, xa tít tắp đằng trước mặt…
Những chuyến tàu ở vùng này chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông.
Trải rộng hai bên đường tàu ở vùng này là những hoang mạc mênh mông - miền Sarozek và các thảo nguyên úa vàng thuộc miền Đất Giữa.
Ở vùng này, mọi khoảng cách bất kỳ đều được đem so với con đường sắt, như so với kinh tuyến Greenwich.
Những chuyến tàu vẫn chạy từ Đông sang Tây và từ Tây sang Đông…
Từ tàu sân bay ‘Convention’ lại thêm một bức điện mật mã gởi cho gửi cho hai phi công vũ trụ-kiểm tra trên trạm quỹ đạo ‘Paritet’. Trong bức điện ấy, vẫn với giọng cảnh báo kiên quyết như cũ, người ta yêu cầu không liên lạc vô tuyến với hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1 để thảo luận gì về thời gian và khả năng họ trở về trạm quỹ đạo, đồng thời hãy chờ chỉ thị của Trung tâm điều khiển.
Biển động chưa đến lúc mạnh nhất, tàu sân bay hơi chòng chành trên sóng. Nước Thái Bình Dương vỗ oàm oạp vào mũi con tàu khổng lồ… Mặt trời vẫn chói chang trên mặt biển bao la đang nổi sóng và ngầu bọt trắng xoá. Gió vẫn thổi đều đều từng luồng.
Mọi bộ phận trên tàu sân bay ‘Convention’, kể cả khu đậu máy bay và hai nhóm an ninh quốc gia, đều ở trong tình trạng cảnh giác, tuyệt đối sẵn sàng…
Đã mấy ngày nay con Akmai màu trắng chạy nước kiệu lúc thúc trên các đồng cỏ thảo nguyên Sarozek bao la, vậy mà chủ nó vẫn cứ thúc giục nó đi loanh quanh mãi. Chỉ khi đêm xuống, chủ nó mới dừng lại nghỉ cạnh một giếng nước hiếm hoi, để sáng hôm sau lại đi tìm đàn lạc đà lớn đang được chăn thả đâu đó giữa chập chùng thảo nguyên. Tại đây, chính tại miền Đất Giữa này, gần mạch đất đứt trũng đầy cát đỏ chạy dài nhiều cây số - gọi là mạch Malakum dychap - đoàn thương khách đã gặp gã mankur chăn lạc đà mà bây giờ bà Ana-Najman đang tìm kiếm. Đã hai ngày nay bà loanh quanh bên mạch Malakum dychap, sợ chạm trán bọn Choang Choang, nhưng mặc dù căng mắt ra tìm kiếm, bà chỉ thấy bốn phía đồng cỏ mênh mông với nhiều ảo ảnh. Có lúc bị ảo ảnh đánh lừa, bà tưởng mình đang đi theo một con đường lớn ngoằn nghèo dẫn tới một thành phố nhấp nhô các đền thờ Hồi Giáo có tường thành bao quanh. Có lẽ con bà đang ở đó, giữa chợ mua bán nô lệ? Nếu vậy, bà có thể bảo nó leo lên lưng Akmai, ngồi sau bà, đố ai còn đuổi kịp… Đi giữa hoang mạc quá nặng nề nên bà nên bà mới hoa mắt tưởng tượng ra như vậy…
Tất nhiên, tìm được một người giữa vùng Sarozek là việc khó, con người lọt thỏm giữa nơi này như một hạt cát, nhưng nếu cạnh người ấy có một đàn lạc đà đang gặm cỏ trên một khoảng rộng, thì sớm hay muộn cũng sẽ nhìn thấy một, hai con vật, rồi thấy những con khác trong đàn, và người chăn lùa chúng. Bà Ana-Najman hy vọng như thế.
Song hiện thời bà chưa phát hiện được gì. Và bà bắt đầu sợ, liệu người ta đã lùa đàn súc vật đi nơi khác, hoặc tệ hơn nữa, bọn Choang Choang đã lùa cả đàn lạc đà đi Khiva hoặc Bukhara bán rồi chăng? Liệu bấy giờ người chăn lạc đà có trở về, từ những vùng xa xôi ngần ấy chăng?… Khi bà rời bản ra đi vì buồn bã và ngờ vực, bà chỉ mơ ước mỗi một điều - chỉ cần trông thấy đứa con trai còn sống, dù nó có là mankur hay là gì cũng được, dù nó không còn trí nhớ và có ngớ ngẩn đến mấy chăng nữa, miễn đúng là con bà, miễn là nó còn sống, sống rõ ràng… Thế là đủ! Nhưng càng đi sâu vào thảo nguyên Sarozek, càng tới gần khu vực mà đoàn thương khách vừa gặp chàng trai chăn lạc đà khi họ đi ngang qua đó, bà càng sợ phải nhìn thấy đứa con đã bị biến thành mankur, một nỗi lo sợ hãi hùng và nặng nề. Thế là bà liền cầu nguyện Chúa Trời để người ấy không phải là nó, đứa con trai của bà - mà là một kẻ bất hạnh khác, và bà sẵn sàng chấp nhận hoàn toàn, rằng con trai bà không thể nào còn sống. Bà đi chuyến này chỉ để trông thấy gã mankur và tin chắc rằng bà đã nghi ngờ vô ích, rồi bà sẽ trở về bản, sẽ thôi dằn vặt trăn trở và sẽ sống nốt những ngày cuối đời dù có ra sao cũng được… Nhưng sau đấy bà lại buồn thương, lại muốn tìm thấy giữa thảo nguyên chính đứa con trai của mình chứ không phải ai khác, dù điều đó có ý nghĩa gì chăng nữa…
Đang trong tâm trạng trái ngược như vậy, vừa leo qua một gò đất thoai thoải, bà chợt nhìn thấy một đàn lạc đà đông hàng trăm con đang ung dung gặm cỏ trên một thung lũng khá rộng. Những con lạc đà màu nâu béo mập đang nhẩn nha bứt các ngọn cỏ gai và các bụi cây nhỏ. Bà Ana-Najman thúc con Akmai bước thật nhanh và thoạt nhiên bà choáng ngợp vì mừng rỡ, rằng cuối cùng bà đã tìm thấy đàn súc vật. Sau đó bà hoảng sợ, rùng mình, lo rằng bà sắp thấy mặt đứa con trai đã bị biến thành mankur. Đoạn bà lại vui mừng và chẳng còn hiểu mình làm sao nữa.
Đây, đàn lạc đà đây rồi, nhưng người chăn chúng thì đâu? Anh ta phải ở ngay đâu đây thôi. Và bà đã trông thấy bóng người ở mép thung lũng bên kia. Từ xa, không thể nhìn rõ người ấy thế nào. Người ấy chống một cây gậy dài, cầm cương dắt một con lạc đà chở theo hành lý, từ dưới vành mũ kéo sụp xuống trán, người thanh niên thản nhiên nhìn bà tới gần.
Và khi Ana-Najman tới gần người ấy, khi bà nhận ra con trai mình, bà không nhớ mình đã tuột xuống khỏi lưng lạc đà như thế nào. Bà tưởng đâu mình ngã lăn xuống đất!
- Con ơi! Con yêu của mẹ ơi! Con ở đây mà mẹ cứ đi tìm loanh quanh mãi! - Bà gọi và chạy bổ qua mấy bụi cây ngăn cách hai người. - Ta là mẹ của con đây!
Và bà lập tức hiểu ra tất cả. Bà nấc lên, hai chân giẫm đành đạch xuống đất, lòng dạ cay đắng, hãi hùng, môi run run mếu máo, bà cố dừng lại mà vẫn không trấn tĩnh nổi. Để khỏi ngã, bà níu chặt lấy vai đứa con trai hờ hững, bà cứ thế khóc ròng vì nỗi đau khổ bị dồn nén từ lâu nay được dịp bùng ra, vùi dập bà. Vừa khóc, bà vừa nhìn qua hai dòng nước mắt, qua những sợi tóc bạc ướt dính vào nhau, qua những ngón tay đang run rẩy xoa xoa bụi đường trên mặt, gặp những nét quen thuộc của đứa con và cố nắm bắt cái nhìn của nó, vẫn còn hy vọng nó sẽ nhận ra bà, bởi vì đơn giản biết mấy cái việc nhận ra người mẹ của mình.
Nhưng sự xuất hiện của bà không gây bất cứ tác động gì tới đứa con trai, tựa hồ bà vẫn luôn luôn có mặt ở đây và ngày nào cũng tới gặp nó trên thảo nguyên. Thậm chí nó chả buồn hỏi bà là ai và tại sao bà khóc. Có lúc nó đã gỡ tay bà đang bíu vai nó và bỏ đi, dắt theo con lạc đà chở mấy thứ đồ dùng đến tận cuối đàn súc vật, để xem mấy chú lạc đà còn có nghịch ngợm chạy nhởn quá xa không.
Bà Ana-Najman đứng lại, ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc nức nở. Bà cứ ngồi như thế đầu cúi gục. Sau đó bà ráng sức đứng dậy, bước đến chỗ con, cố giữ vẻ bình tĩnh. Đứa con trai-mankur coi như không có chuyện gì xảy ra, cứ hờ hững nhìn bà từ dưới chiếc mũ úp chặt trên đầu, và một cái gì từa tựa nét cười yếu ớt thoáng qua bộ mặt thô thô, đen nhẻm vì nắng gió của nó. Nhưng cặp mắt của nó vẫn hoàn toàn thờ ơ với hết thảy mọi thứ trên đời.
- Hãy ngồi xuống đây, mẹ con mình nói vài câu chuyện đi con - bà Ana-Najman thở dài nặng nhọc.
Hai mẹ con ngồi xuống đất.
- Con có nhận ra mẹ không? - bà mẹ hỏi.
Gã mankur lắc đầu.
- Thế tên con là gì?
- Mankur - gã đáp.
- Đấy là tên con bây giờ, còn tên con ngày trước còn có nhớ không? Con hãy nhớ lại tên thật của con xem nào.
Gã mankur lặng thinh, bà mẹ thấy nó cố nhớ, do căng thẳng, ở gốc mũi nó lấm tấm mồ hôi, cặp mắt nó như có sương mù bao phủ. Nhưng chắc là trước mặt nó hiện ra một bức tường kiên cố mà nó không tài nào vượt nổi.
- Thế tên cha con là gì? Con là ai, quê ở đâu? Ít nhất con cũng biết con đã sinh ra ở đâu chứ?
Không, nó không nhớ gì, không biết gì.
- Chúng nó đã làm gì con tôi thế này! - bà mẹ thì thầm và đôi môi bà lại run run ngoài ý muốn. Nghẹn ngào vì giận dỗi và đau khổ, bà mẹ lại khóc rưng rức, cố nén cũng không được. Nỗi khổ của người mẹ không hề làm cho gã mankur xúc động.
Có thể cướp đất, có thể cướp tài sản, có thể cướp cả sinh mạng - bà mẹ nói, - nhưng kẻ nào đã nghĩ ra, kẻ nào đang tâm cướp đi trí nhớ của con người? Hỡi Thượng đế, nếu người có thật, sao người nỡ dạy loài người làm cái trò độc ác đến thế? Không có cái trò đó, trên đời này đã ít cái ác qua sao?
Rồi bà nhìn đứa con trai-mankur mà tuôn ra những lời than trách về mặt trời, về Thượng đế, về bản thân, những lời nổi tiếng mà mãi đến thời nay, mỗi khi nhắc tới truyền thuyết Sarozek, những người thông hiểu vẫn còn nhớ đinh ninh:
Men botasy olgen boz maia,
Tulybyn kelip iskegen…[11]
Và lúc ấy, từ lòng bà bật ra những lời nguyên rủa, những tiếng than vãn não lòng âm vang giữa thảo nguyên im lìm, bao la…
Nhưng không có gì làm cho đứa con trai-mankur xúc động.
Thế là bà Ana-Najman quyết định sẽ không hỏi han, mà chỉ gợi nhớ để giúp con trẻ nhận ra mình.
- Tên con là Zholaman. Con nghe rõ chưa? Con là Zholaman. Còn tên cha con là Donenbaj. Lẽ nào con không nhớ cha con? Bởi từ nhỏ cha con đã dạy con cách bắn cung. Còn ta là mẹ của con, con là con trai của ta. Con là người của bộ tộc Najman, con hiểu chưa? Con là dân Najman…
Tất cả những điều bà nói, gã mankur nghe một cách hoàn toàn thờ ơ, tưởng như đó chỉ là những lời bâng quơ. Có lẽ tiếng dế kêu trong cỏ gã cũng nghe với thái độ hệt như thế.
Khi đó, bà Ana-Najman bèn hỏi con:
- Chuyện gì đã xảy ra trước khi con tới đây?
- Không có chuyện gì - nó đáp.
- Lúc ấy là đêm hay ngày?
- Không là gì cả - nó đáp.
- Con muốn được trò chuyện với ai?
- Với mặt trăng, nhưng tôi và mặt trăng không nghe thấy tiếng nhau. Trên ấy có người đang ngồi.
- Thế con còn muốn gì nữa?
- Muốn có đuôi tóc trên đầu như ông chủ.
- Con hãy để mẹ xem, chúng đã làm gì cái đầu của con nào - bà Ana-Najman giơ tay ra.
Gã mankur liền quay phắt đi, lùi lại, dùng một tay giữ chặt chiếc mũ và không nhìn bà mẹ nữa. Bà hiểu rằng không bao giờ nên nhắc đến cái đầu của nó.
Lúc ấy đằng xa xuất hiện một bóng người cưỡi lạc đà tiến về phía hai mẹ con.
- Ai thế con? - bà Ana-Najman hỏi.
- Họ mang thức ăn cho tôi - đứa con trai trả lời.
Bà mẹ giật mình. Phải trốn cho mau, sau khi tên Choang Choang xuất hiện không đúng lúc kia chưa nhìn thấy bà. Bà bắt con Akmai quỳ xuống để leo lên yên.
- Con đừng nói gì với nó nhé. Mẹ sẽ trở lại ngay - bà Ana-Najman dặn.
Đứa con không trả lời. Mọi chuyện đối với nó đều vô nghĩa.
Bà Ana-Najman hiểu rằng bà đã phạm sai lầm khi cưỡi lạc đà chạy trốn qua đàn súc vật đang gặm cỏ, nhưng đã muộn. Tên Choang Choang đang đi về phía này, dĩ nhiên có thể nhìn thấy bà cưỡi trên lưng con lạc đà trắng. Lẽ ra bà phải đi bộ, lẩn trốn giữa đàn súc vật đang gặm cỏ.
Sau khi tránh xa thung lũng, bà Ana-Najman quẹo xuống một cái rãnh sâu, hai bên mép rãnh mọc đầy ngải cứu. Tới đây, bà vội bắt con Akmai nằm xuống đáy rãnh, còn bà thì ghểnh đầu lên quan sát. Đúng là tên Choang Choang đã nhìn thấy bà. Một lát sau, tên này hiện ra, thúc lạc đà bước nhanh. Hắn đeo chiếc mác và đặt ống tên sau lưng. Rõ ràng hắn có vẻ lo lắng, ngơ ngác nhìn quanh - người cưỡi lạc đà trắng mà hắn thấy từ xa đã biến đâu mất rồi? Hắn chưa biết nên đuổi theo hướng nào. Hắn thúc lạc đà tiến về bên này, rồi lại quay sang phía kia. Và lần cuối cùng, hắn đi qua rất gần cái rãnh. May mà bà Ana-Najman nghĩ ra cách chụp tấm chăn vào mõm con Akmai, phòng trường hợp đột nhiên nó kêu lên. Ẩn mình trong bụi ngải cứu ở mép rãnh, bà Ana-Najman nhìn tên Choang Choang khá rõ. Hắn cưỡi một con lạc đà lông dày, mắt lơ láo ngó quanh, bộ mặt hum húp, căng thẳng, đầu đội chiến mũ đen trông như một cái thuyền còn có hai mũi, mũi trước cong lên, sau gáy lủng lẳng một bím tóc đuôi sam đen. Hắn nhỏm người trên bàn đạp, tay lăm lăm chiếc mác, hắn ngó quanh, lắc đầu, cặp mắt long lên. Đây là một trong những tên giặc đã chiếm đất Sarozek, đã bắt không ít người làm nô lệ và đã gây bao tai họa cho gia đình bà. Nhưng một phụ nữ tay không như bà phỏng có thể làm được gì chống lại tên lính Choang Choang hung hãn kia? Bà thầm nghĩ, không biết cuộc sống nào, những sự kiện gì đã đẩy bọn giặc kia tới hành động man rợ là tiêu huỷ trí nhớ của người nô lệ…
Sau khi tìm kiếm loanh quanh một lát, tên Choang Choang trở lại chỗ đàn lạc đà.
Trời sắp tối. Mặt trời đã lặn, nhưng ráng chiều còn vương vấn khá lâu trên thảo nguyên. Tiếp đó bóng tối ập xuống. Đêm càng về khuya càng tĩnh mịch.
Đêm ấy giữa thảo nguyên, bà Ana-Najman ngồi thui thủi một mình, không mấy xa chỗ đứa con trai-mankur bất hạnh của bà. Bà không dám quay lại chỗ nó. Tên lính Choang Choang rất có thể ngủ đêm ở đó.
Và bà quyết định không để đứa con phải sống nô lệ, bà sẽ thử tìm cách đem nó đi theo mình. Dù nó là mankur, dù nó ngớ nhẩn không hiểu gì hết, nhưng miễn sao nó ở nhà nó, giữa những người bà con của nó, thì vẫn hơn là nó làm nô lệ chăm sóc súc vật cho bọn Choang Choang giữa thảo nguyên hoang vu này. Tấm lòng người mẹ đã nhắc bà như vậy. Bà không thể chấp nhận cái mà những người khác chấp nhận, bà không nỡ bỏ mặc giọt máu của bà sống kiếp nô lệ. Biết đâu ở chốn cũ, trí không sẽ trở lại với nó, biết đâu đột nhiên nó sẽ nhớ lại thời thơ ấu cũng nên.
Sáng hôm sau bà Ana-Najman lại cưỡi con Akmai đi vòng vèo rất lâu mới tới gần đàn lạc đà - sau một đêm, đàn súc vật đã di chuyển khá xa. Khi phát hiện ra đàn lạc đà, bà căng mắt nhìn thật kỹ xem tên Choang Choang có còn ở đó hay không. Chỉ khi đã tin chắc không còn ai khác, bà mới gọi tên con:
- Zholaman, Zholaman ơi! Chào con!
Đứa con ngoảnh lại, bà mẹ reo lên vui sướng. Nhưng bà hiểu ngay rằng, nó nghe có tiếng nói thì quay lại đó thôi.
Bà Ana-Najman lại thử gợi cái trí nhớ đã bị cướp mất của đứa con:
- Con ơi, con tên là gì, hãy nhớ lại tên mình đi con! - bà van vỉ và thuyết phục nó. - Cha con là Donenbaj, lẽ nào con không nhớ? Còn tên con là Zholaman[12], chứ không phải là mankur. Bố mẹ đặt tên con như thế vì con đã ra đời trong một chuyến du mục của bộ tộc Najman. Và khi con ra đời, mọi người đã dừng chân nghỉ tạm ba ngày để ăn mừng cho con.
Mặc dù những lời lẽ ấy không gây bất cứ ấn tượng gì với đứa con - mankur, bà mẹ vẫn tiếp tục kể, với hy vọng may ra có điều gì chợt loé lên trong ý thức đã tê liệt của nó. Nhưng bà đang gõ vào cánh cửa khóa kín. Tuy nhiên, bà vẫn nhắc đi nhắc lại:
- Con hãy nhớ lại tên con đi! Tên cha con là Donenbaj.
Sau đó, bà lấy thức ăn mang theo cho nó ăn uống và bắt đầu hát cho nó nghe những bài hát ru. Nó có vẻ thích thú các bài hát ấy. Nó thích nghe hát, và có một nét gì sống động, ấm áp xuất hiện trên bộ mặt lầm lì, đen nhẻm của nó. Thấy vậy, bà mẹ bèn rủ nó từ bỏ nơi này, từ bỏ bọn Choang Choang đi theo bà về chốn cũ thân thương. Gã mankur không thể tưởng tượng làm sao có thể leo lên lạc đà bỏ đi - còn đàn súc vật kia ai chăn? Không, ông chủ đã bảo phải luôn luôn ở bên đàn súc vật. Chủ đã ra lệnh như vậy, cho nên nó sẽ không bỏ đàn đi bất cứ đâu…
Không biết đến lần thứ mấy bà Ana-Najmna lại gõ vào cánh cửa khóa kín của cái trí nhớ đã bị tiêu huỷ:
- Nhớ lại đi con, tên con là gì? Tên cha con là Donenbaj ấy mà.
Bà mẹ cứ kiên trì gợi nhớ một cách vô ích như thế nên không để ý bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Bà chỉ giật mình khi thấy gần chỗ đàn súc vật lại xuất hiện một tên Choang Choang cưỡi lạc đà. Lần này khoảng cách gần hơn và hắn thúc lạc đà đi thật vội vã. Bà Ana-Najman lập tức cưỡi con Akamai lánh đi, nhưng từ phía khác lại có một tên Choang Choang nữa cưỡi lạc đà chắn ngang. Bà Ana-Najman vội thúc con Akmai vượt qua giữa hai tên đó, con Akamai nhanh chân đã đưa bà kịp thời vượt lên trước. Hai tên Choang Choang rượt theo sau, miệng thét, tay huơ giáo mác. Nhưng chúng nhanh sao bằng con Akmai, khoảng cách đôi bên mỗi lúc một xa. Con Akmai thở dồn, đi nhanh như gió, đưa bà chủ thoát khỏi sự đuổi bắt của cái chết.
Song bà không biết rằng hai tên Choang Choang đã quay trở lại trút cơn giận dữ xuống đầu con trai bà, chúng đánh đập gã mankur tàn nhẫn. Nhưng có đánh mấy cũng chẳng moi được gì, nó chỉ trả lời:
- Bà ta bảo bà ta là mẹ tôi.
- Mụ ta đếch phải mẹ con gì với mày! Mày không có mẹ! Mày có biết mụ ta tới đây làm gì không? Mày biết không? Mụ ta muốn lột mũ của mày và muốn gọt đầu mày đó! - hai tên Choang Choang dọa gã mankur bất hạnh.
Nghe vậy, gã mankur thất sắc, bộ mặt đen đúa của gã tái xám hẳn đi. Gã co vai rụt cổ, chụp giữ chiếc mũ và nhìn quanh lấm lét như một con thú.
- Mày khỏi phải sợ! Này, cầm lấy! - tên Choang Choang lớn tuổi đặt vào tay gã cây cung và mấy mũi tên.
- Nhắm bắn xem nào! - tên Choang Choang nhỏ tuổi hơn dùng cây mác giơ chiếc mũ lên cao. Mũi tên xuyên qua mũ - Thấy chưa, hắn ngạc nhiên, - Trí nhớ vẫn còn được lưu giữ trong tay nó!
Như một con chim hốt hoảng bay khỏi tổ, bà Ana-Najman cứ quanh quẩn ở vùng lân cận. Bà chẳng biết làm thế nào, chờ đợi cái gì. Chẳng rõ bây giờ bọn Choang Choang có lùa đàn súc vật và đứa con trai-mankur của bà đến một chỗ khác, gần căn cứ của chúng hay là chúng đang rình bắt bà? Trong lúc phỏng đoán mọi chuyện, bà cứ đi vòng vèo ở những chỗ kín đáo để quan sát, và bà vui mừng khi thấy hai tên Choang Choang nọ đã rời đàn súc vật. Chúng sánh vai nhau bỏ đi không hề ngoảnh lại. Bà Ana-Najman nhìn theo chúng rất lâu, đợi cho chúng khuất hẳn phía xa, bà mới trở lại chỗ con. Bây giờ, dầu thế nào chăng nữa bà cũng muốn đem nó theo. Dù có ra sao, đó cũng không phải là lỗi tại nó, một khi kẻ thù đã làm cho nó thành một kẻ hoàn toàn ngớ ngẩn, nhưng mẹ nó sẽ không bỏ mặc nó sống mãi kiếp nô lệ. Và hãy để cho bộ tộc Najman thấy lũ rợ Choang Choang hành hạ tù binh như thế nào, làm mất lý trí của họ ra sao, để bộ tộc phẫn nộ mà cầm lấy vũ khí. Vấn đề không phải là chuyện tranh giành đất đai, đất đai đủ cho hết thảy mọi người. Nhưng cái ác của bọn Choang Choang thì dù bộ tộc láng giềng hay xa lạ cũng không chịu nổi…
Bà Ana-Najman trở lại chỗ con với những ý nghĩ đó, và bà cứ mải mê nghĩ cách thuyết phục nó bỏ trốn ngay đêm nay với bà.
Trời đã nhá nhem. Thêm một đêm nữa trong chuỗi ngày bất tận những ngày đêm đã và sẽ qua, đang trùm bóng tối xuống thảo nguyên Sarozek mênh mông, xuống mọi đồng cỏ và thung lũng. Con lạc đà trắng Akmai nhẹ nhàng chở bà chủ của nó về phía đàn súc vật đông đúc. Ánh hoàng hôn làm cho thân hình bà chủ nổi bật giữa hai cái bướu của nó. Bà Ana-Najman chăm chú và cảnh giác, trông nhợt nhạt và nghiêm nghị. Những sợi tóc bạc, những nếp nhăn, những ý nghĩ trong đầu và trong mắt hệt như bóng tối nhập nhoạng trên thảo nguyên Sarozek, nỗi đau không nguôi…
Đây, bà đã tới bên đàn lạc đà. Bà bắt đầu đi giữa những con vật đang gặm cỏ, bà nhìn quanh nhưng chưa thấy đứa con trai đâu cả. Con lạc đà đóng yên cương chở đồ dùng không hiểu sao lại đang ung dung gặm cỏ, kéo lê dây cương dưới đất - con trai bà đâu nhỉ? Nó làm sao rồi?
- Zholaman ơi! Zholaman của mẹ ơi, con ở đâu? - bà Ana-Najman gọi.
Không một ai xuất hiện hoặc trả lời.
- Zholaman! Con ở đâu? Mẹ đây, mẹ của con đây mà. Con ở đâu?
Bà lo ngại ngó quanh, không thấy rằng con trai bà - gã mankur - đang nấp sau một con lạc đà, nó đã quỳ xuống và kéo căng dây cung, nhằm mũi tên về phía bà. Ánh hoàng hôn cản trở nó, và nó đang chờ giây phút thuận tiện mới bắn.
- Zholaman, con của mẹ ơi! - bà Ana-Najman gọi, chỉ sợ con mình bị làm sao rồi. Bà quay người trên yên. - Đừng bắn! - bà chỉ kịp kêu lên thế và định thúc cho con Akmai quay đầu lại, mũi tên đã bay vèo tới, xuyên vào sườn bên trái.
Đây là một đòn hiểm. Bà Ana-Najman nghiêng người từ từ ngã xuống, tay còn bấu víu cổ con Akmai. Bỗng chiếc khăn trắng từ đầu bà bay lên, hóa thành một con chim và con chim ấy kêu to:
“Hãy nhớ lại đi! Tên mi là gì? Cha mi là Donenbaj! Donenbaj! Donenbaj!”
Chỗ chôn bà Ana-Najman giữa thảo nguyên Sarozek từ đó được gọi là nghĩa địa Ana-Bejit, nghĩa là Lòng Mẹ…
Con lạc đà trắng Akmai để lại nhiều con cháu. Những con cái do nó đẻ ra cũng màu trắng như nó, cũng nổi tiếng khắp vùng. Những con đực, ngược lại, lông màu đen và to khỏe như con Karanar-Bão Tuyết bây giờ.
Bác Kazangap hồi còn sống vẫn luôn luôn chứng minh rằng Karanar-Bão Tuyết không phải thuộc nòi lạc đà bình thường, mà chính là dòng dõi con lạc đà trắng trứ danh xưa kia của bà Ana-Najman.
Edigej tin ngay lời Kazangap… Sao lại không tin kia chứ!… Con Karanar-Bão Tuyết xứng đáng như thế… Bao thử thách đã qua, trong những ngày vui sướng cũng như những ngày cực khổ, bao giờ con Karanar cũng vượt qua gian khổ… Chỉ phải cái tội nó quá tệ mỗi khi động đực, vào những kỳ rét nhất bao giờ nó cũng đổ đốn ra như thế, và những lúc ấy nó hung hăng hết chỗ nói. Rét càng dữ, nó càng tệ. Hai mùa đông liền, đến là khổ với nó trong những ngày ấy… Một dạo để hại Edigej, nó đã chơi cho bác một vố mà giả dụ Edigej không phải là người rộng lượng thì không đời nào bác có thể tha thứ cho nó được… Nhưng trách chi con lạc đà nổi xung vào kỳ động đực… Và cũng chả ph