Chương 7
Edigej-Bão Tuyết nhớ lại cái lần cuối hè, đầu thu năm 1952 với cảm giác sung sướng đặc biệt.
Dự cảm của Edigej đã thành sự thật như nhờ có phép màu. Sau đợt nắng nóng khủng khiếp mà ngay đến những con thằn lằn Sarozek cũng phải chạy vào nhà tránh nắng, thời tiết đột nhiên thay đổi hẳn vào giữa tháng tám. Trời mát dịu dần, ít ra thì đêm đêm cũng đã có thể ngủ yên giấc. Có năm, miền Sarozek vẫn thỉnh thoảng như vậy. Mùa đông bao giờ cũng rét, riêng mùa hạ đôi khi dễ chịu. Điều đó xảy ra, theo lời Elizarov kể, khi trên các tầng quyển lưu cao nhất có những sự xê dịch lớn, các dòng sông trên trời thay đổi hướng trôi của chúng. Elizarov thích kể những chuyện đó. Ông bảo trên trời có những dòng sông vô hình khổng lồ với bến bờ và các đợt lũ hẳn hoi. Những dòng sông ấy chảy không ngừng nghỉ, tựa hồ ôm lấy địa cầu. Và toàn bộ Trái Đất được mặc chiếc áo gió ấy cứ xoay vòng theo đường tròn của nó, và đó chính là sự lưu chuyển của thời gian. Nghe Elizarov kể chuyện thật thú vị, khó mà tìm được những tâm hồn hiếm thấy như ông. Edigej-Bão Tuyết kính trọng Elizarov, và Elizarov cũng đáp lại bằng thái độ tương xứng. Vậy là dòng sông lớn trên trời kia thỉnh thoảng vẫn chở hơi mát tới miền Sarozek đúng vào đợt nắng nóng, không hiểu tại sao dòng sông ấy cứ hạ thấp dần và thu hẹp lại, cho đến lúc chạm dãy Himalaya. Dãy Himalaya nghe nó ở đâu xa lắm, nhưng so với kích thước quả địa cầu thì nó ở rất gần đây. Dòng sông không khí kia vấp phải dãy Himalaya thì dội trở lại, bởi vì miền Sarozek giống như biển lớn, là một khoảng không rộng mở, chẳng có chướng ngại nào. Cho nên dòng sông kia chở hơi mát từ dãy Himalaya tới…
Dù vì lẽ gì chăng nữa, thời tiết cuối hè, đầu thu năm ấy cũng quả là đẹp. Mưa ở Sarozek là hiện tượng hiếm hoi, mỗi trận mưa được người ta nhớ rất lâu, nhưng trận mưa ấy thì Edigej-Bão Tuyết nhớ suốt đời. Thoạt nhiên mây đen ùn ùn kéo tới, thậm chí cảm thấy không bình thường khi cái màu xanh thăm thẳm của bầu trời Sarozek nóng bỏng đột nhiên biến đâu mất. Đất bốc hơi ngùn ngụt, không khí oi nồng đến ngạt thở. Hôm ấy Edigej làm thợ móc toa. Trên khúc đường cụt của ga, còn ba toa sàn đậu lại sau khi được cào hết sỏi và gỡ một đợt tà vẹt bằng gỗ thông xuống. Hàng đã được gỡ xong, bao giờ người ta cũng yêu cầu làm gấp, nhưng sau đó mới thấy rằng chẳng cần gấp đến như vậy. Sau khi dỡ hết hàng, mấy toa sàn còn đứng ở đường cụt cả một ngày. Thế mà hết thảy mọi người đang có mặt trên tuyến đường sắt - Kazangap, Abutalip, Zaripa, Ukubala, Bukej đều bị điều tới làm cái việc gấp gáp ấy. Mà hồi đó mọi việc đều phải làm bằng tay cả, lại giữa lúc trời nóng như thiêu, thì người ta kéo những toa xe ấy tới! Nhưng việc đã cần gấp thì phải làm thôi. Ukubala xây xẩm mặt mày, nôn mửa cả ra. Chị không chịu nổi mùi nhựa tỏa ra từ những thanh tà vẹt nóng, đành đưa chị về nhà. Sau đó phải cho chị em phụ nữ về hết, bởi vì ở nhà bọn trẻ con sắp phát điên vì nóng. Chỉ còn mấy người đàn ông ở lại ráng sức làm cho xong.
Hôm sau, lúc sắp mưa thì đoàn tàu chở hàng hôm qua quay về Kumbel, họ đòi móc toa thật gấp. Edigej nghẹn thở vì trời oi bức khủng khiếp, thà có nắng còn hơn trời râm mà oi nồng thế này. Đã vậy, tay lái tàu lại cứ luôn mồm giục giã. Cứ thử xuống đây cúi gập người mà móc toa xem nào, thế là Edigej nặng lời với tay lái tàu. Và anh ta cũng trả miếng đến nơi đến chốn. Ngồi cạnh lò than trên đầu máy, anh ta cũng chẳng sướng gì. Cả hai người đều nổi khùng vì nóng, nhưng rồi chuyến tàu hàng ấy cũng kéo ba cái toa sàn kia chạy đi.
Đúng lúc đó mưa ập xuống rào rào, trời như bị thủng. Mưa trút xối xả để bù cho bao nhiêu ngày không mưa. Đất rùng mình, loáng một cái đã lênh láng nước và sủi đầy bọt. Và mưa cứ xối ào ào, ào ào như điên, nước mưa mát lạnh, đúng là mang cái mát từ những núi tuyết trên dãy Himalaya… Chà sức mạnh của Himalaya mới ghê chứ! Edigej chạy về nhà, để làm gì anh cũng không biết nữa, tự nhiên thế thôi, bởi vì khi gặp mưa, bao giờ người ta cũng chạy về nhà hoặc nấp dưới một mái nhà nào đấy, do thói quen. Tại sao lại lẩn tránh một cơn mưa như thế này nhỉ? Edigej hiểu ra và dừng lại, khi thấy cả gia đình Abutalip - hai vợ chồng, hai đứa con - đang cầm tay nhau nhảy múa dưới trời mưa, cạnh căn lán của họ. Và điều đó khiến Edigej sửng sốt, không phải vì họ mừng rỡ, tươi tỉnh trong cơn mưa mà vì lúc sắp mưa, hai vợ chồng Abutalip vội vã sải từng bước dài qua các con đường ray từ nơi làm việc về nhà. Bây giờ Edigej đã hiểu, vợ chồng họ muốn cả gia đình ở bên nhau dưới trời mưa. Edigej thì không nghĩ ra được như vậy. Cả gia đình họ đang tắm trong mưa, họ nhảy múa và làm ồn lên như bầy thiên nga trên biển Aral! Y như ngày hội của họ, lộc trời dành cho họ. Họ đã thầm nhớ, mong ước thấy mưa ở vùng Sarozek này bao ngày rồi. Và Edigej cảm thấy vừa vui, vừa buồn, vừa tức cười, vừa ái ngại trước cảnh cả gia đình họ nắm chặt tay nhau vào giờ phút tươi sáng ở nhà ga Boranly-Bão Tuyết.
- Edigej! Lại đây với chúng tôi! - Abutalip gọi to qua nước mưa và vẫy vẫy tay như đang bơi. - Bác Edigej ơi! - Hai đứa trẻ cũng gọi và mừng rỡ chạy về phía anh.
Bé Ermek mới hơn hai tuổi một chút, được Edigej yêu nhất, nó chạy tới chỗ anh, hai tay dang rộng, miệng há to, sặc sụa nước mưa. Đôi mắt nó tràn ngập một niềm vui khó tả, táo bạo và tinh nghịch. Edigej bế thốc nó lên, xoay tròn mấy vòng, rồi không biết làm gì tiếp. Anh hoàn toàn không định tham gia vào trò vui của gia đình Abutalip. Vừa lúc ấy, từ đằng sau nhà, hai đứa con gái của Edigej - Saule và Sharapat - vừa reo hò vừa chạy ra. Chúng nó chạy tới vì nghe tiếng reo vui của gia đình Abutalip, chúng cũng mừng rỡ. “Bố ơi, chạy thi nào!” - chúng giục anh, thế là Edigej hết lưỡng lự. Bây giờ bảy người đã cùng nhau đùa nghịch ầm ĩ dưới trời mưa như trút.
Edigej không buông tay bé Ermek vì sợ nó ngã xuống vũng nước. Abutalip thì kiệu đứa con gái út của Edigej - bé Sharapat trên lưng. Người lớn cứ thế bày trò vui chạy nhảy cho bọn trẻ. Bé Ermek nhún nhảy trên tay Edigej, la hét thật to, và lúc bị sặc nước nó lại chúi cái miệng ướt sũng vào cổ Edigej mà cọ cọ. Cảnh ấy thật cảm động, mấy lần Edigej bắt gặp ánh mắt tươi sáng, hàm ơn của vợ chồng Abutalip nhìn anh - họ hài lòng thấy thằng bé quấn quít bác Edigej. Nhưng ba cha con Edigej cũng rất vui được tham gia trò tắm mưa do gia đình Abutalip khởi xướng. Và bất giác, Edigej để ý thấy Zaripa thật xinh đẹp. Nước mưa làm cho mái tóc đen của chị chảy xoã xuống mặt, trải dài đến tận gót chân, nước cứ chảy ròng ròng trên tấm thân rắn rỏi, trẻ trung của chị, làm nổi bật cái cổ, hai cánh tay, bắp đùi và mắt cá chân. Còn cặp mắt thì long lanh vui sướng, tinh nghịch. Hàm răng trắng lộ ra trong nụ cười tươi thắm.
Đối với miền Sarozek, mưa chỉ là hiện tượng nhất thời. Tuyết còn thấm dần dần xuống lòng đất, chứ mưa thì dù to mấy cũng chỉ như giọt thuỷ ngân trên lòng bàn tay, sẽ chạy xuống các khe rãnh nứt nẻ hết ráo. Mưa ào ào được một lát, xong coi như không có gì.
Nhưng lần này, chỉ vài phút sau khi mưa, nước đã chảy thành những dòng suối cuồn cuộn, sủi bọt. Thế là bà con Boranly đổ cả ra mà chạy nhảy trên những dòng suối ấy. Họ mang thùng, chậu, máng thả trên mặt nước. Mấy đứa trẻ lớn một chút, như Daul và Saule, thậm chí ngồi vào trong chậu mà bơi. Những đứa trẻ bé hơn đòi theo, thế là đành phải đặt cả chúng nó vào máng cho trôi đi…
Mưa vẫn rơi, mọi người say sưa với trò bơi trong chậu, họ trôi tới sát chân đường tàu, gần đầu ga. Lúc ấy có một chuyến tàu khách chạy qua Boranly-Bão Tuyết, hành khách nhoài đến nữa người ra ngoài các cửa sổ và cửa toa mở rộng mà nhìn những người dân lập dị bất hạnh của hoang mạc. Họ kêu lên câu gì đó, hình như là: “Khéo không chết đuối đấy!”, rồi họ huýt sáo, cười đùa vui vẻ. Chắc trông bà con Boranly tức cười, lạ lùng lắm thì phải. Đoàn tàu chạy qua trong mưa, chở đi những hành khách có lẽ một hai hôm nữa sẽ kể lại cảnh họ vừa chứng kiến để làm vui cho người khác.
Edigej sẽ không nghĩ gì cả, nếu anh không cảm thấy hình như Zaripa khóc. Khi nước mưa đang chảy ràn rụa trên mặt, khó mà nói rằng người ấy có khóc hay không. Song đúng là Zaripa khóc thật, chị giả vờ cười, chị quá vui, nhưng thật ra thì chị khóc, chị nén tiếng nức nở, dùng tiếng cười, tiếng kêu át tiếng khóc. Abutalip lo lắng nắm lấy tay vợ:
- Em làm sao thế? Em thấy khó thở à? Về nhà vậy!
- Không, em bị nấc đấy thôi - Zaripa trả lời.
Và họ lại chơi đùa với bọn trẻ, vội vã tận hưởng món quà - trận mưa tình cờ. Edigej chợt thấy se lòng. Anh đoán chắc vợ chồng họ khổ tâm lắm khi nhận chân được rằng có một cuộc sống khác đã quay lưng về phía họ, một cuộc sống mà ở đó mưa không phải là sự kiện đáng kể. Người ta được tắm, được bơi trong thứ nước trong sạch, một cuộc sống có những điều kiện khác, những cách vui chơi khác, những mối quan tâm khác về con cái… Và để vợ chồng Abutalip khỏi lúng túng - dĩ nhiên họ bày trò vui này chỉ vì các con - Edigej tiếp tục ủng hộ trò vui của họ…
Cả người lớn lẫn trẻ con đã vui đùa chán chê, mà mưa vẫn chưa tạnh, ai nấy chạy về nhà mình. Edigej thông cảm nhìn theo cái cảnh gia đình Abutalip giăng tay nhau chạy về nhà, tất cả đều ướt như chuột lột. Chỉ mong có được dù chỉ một ngày sung sướng, ở miền Sarozek.
Edigej xuất hiện ở ngưỡng cửa, một tay bế đứa con gái nhỏ, tay kia dắt đứa lớn. Ukubala sợ hãi giơ hai tay khi thấy ba bố con như vậy:
- Ôi, bố con anh làm gì thế? Thật chẳng giống ai.
- Mẹ nó đừng sợ - Edigej vừa bảo vợ vừa cười to - Khi lạc đà bố say rượu, nó thích đùa giỡn với đám lạc đà con của nó.
- Tôi thấy cũng giống thế đấy - Ukubala cười trách móc. - Thôi, vào thay quần áo đi, trông cứ như gà rù ấy.
Mưa đã tạnh hẳn, nhưng vẫn còn lác đác ở đâu đó trên thảo nguyên Sarozek đến tận sáng hôm sau, vì suốt đêm vẫn nghe ì ầm tiếng sấm xa xa. Mấy lần Edigej thức giấc vì tiếng sấm. Và anh ngạc nhiên, ở vùng biển Aral lắm hôm có giông, sấm chớp ầm ầm ngay trên đầu mà anh vẫn ngủ say. À mà tại vì ở đó luôn có mưa giông chứ sao. Mỗi lần tỉnh giấc, qua hàng mi khép hờ, Edigej lại thấy các cửa sổ loe loé ánh chớp bừng lên ở đâu đó ngoài thảo nguyên.
Đêm ấy Edigej-Bão Tuyết lại mơ thấy mình nằm dưới làn đạn ngoài mặt trận, nhưng các viên đạn trái phá rơi xuống lặng lẽ. Không nghe tiếng nổ, chỉ thấy đất đá tung lên cao, sững lại, rồi từ từ rơi xuống từng khối đen đen. Một trong những vụ nổ như thế tung anh lên cao, và anh rơi xuống rất lâu, rơi xuống một khoảng trống khủng khiếp trong lúc trái tim ngừng đập. Sau đó anh xông lên tấn công, số chiến sĩ mặc áo ca-pốt xám lao lên tấn công đông vô kể, nhưng không nhìn rõ mặt họ, tựa hồ những cái áo ca-pốt reo to ‘Ura!’…, thì trước mặt Edigej hiện ra Zaripa, người ướt sũng nước mưa, miệng mỉm cười. Giấc mơ lạ thật, Zaripa mặc áo váy vải xita, tóc xoã dài nước mưa ròng ròng trên mặt, chị cứ cười cười hoài. Edigej không có thời giờ để ngừng lại, anh nhớ rằng anh đang phải tấn công. “Tại sao chị lại cười, chị Zaripa? Đó là điềm chẳng lành”- Edigej nói. “Tôi có cười đâu, tôi khóc, tôi khóc đấy” - chị trả lời và tiếp tục cười dưới những dòng nước mưa…
Hôm sau anh đã định kể lại giấc mơ ấy cho vợ chồng Abutalip nghe, nhưng suy đi nghĩ lại, anh thấy giấc mơ ấy không lành. Chả nên làm cho người ta lo lắng thêm nữa…
Sau trận mưa vĩ đại ấy, chợt nắng nóng ở vùng Sarozek dịu hẳn xuống, hay nói như Kazangap, trò hối lộ của mùa hè đã chấm dứt. Vẫn còn những ngày oi bức, nhưng đã dễ chịu hơn. Rồi tiếp đến thời kỳ mát mẻ cuối hè, trước thu, tại miền này. Trẻ em ở Boranly cũng được giải thoát khỏi cái nóng mệt bã người, chúng như hồi sinh, lại cười nói bi bô. Vừa vặn lúc đó người ta chở dưa hấu và dưa bở của vùng Kyzyl-Ordin tới Kumbel để phân phối cho các ga. Họ bảo nếu ga Boranly muốn mua dưa, thì họ sẽ gửi cho phần dưa tiêu chuẩn của ga Boranly, hoặc ga Boranly cử người tự đến mà nhận. Edigej nắm lấy cơ hội đó, anh thuyết phục trưởng ga, rằng mình nên tự đi nhận thì hơn là để người ta gửi đến, mình sẽ không được quyền lựa chọn những trái dưa ‘tử tế‘. Trưởng ga đồng ý:
- Được - trưởng ga nói -, đồng chí hãy cùng Abutalip đi mà chọn.
Edigej chỉ chờ có vậy, anh muốn đưa vợ chồng Abutalip cùng bọn trẻ đi khỏi Boranly-Bão Tuyết dù chỉ một ngày. Và chính gia đình anh cũng nên đổi gió tí chút. Thế là sáng sớm hôm sau toàn bộ lớn bé của hai gia đình đáp chuyến tàu lên Kumbel. Họ ăn mặc thật đẹp, bọn trẻ tưởng như chúng đang đi tới một xứ sở kỳ lạ. Suốt dọc đường chúng cứ luôn miệng hỏi: - Ở trên ấy có cây cối không ạ? Có. Thế cỏ ở đấy có xanh không ạ? Có xanh. Thậm chí có cả hoa. Còn nhà cửa ở đó có to không và xe cộ có chạy ngoài đường không ạ? Thế dưa hấu và dưa bở ở đó muốn ăn bao nhiêu tuỳ thích chứ ạ? Thế trên ấy có kem không ạ? Thế ở đó có biển không ạ?
Gió tạt vào toa tàu hàng, ùa thành luồng mát mẻ đều đều qua cửa toa hé mở. Có một tấm ván che chắn phòng trường hợp bất trắc, lỡ bọn trẻ sơ sẩy chân tay, mặc dù Edigej và Abutalip đã ngồi trên hai cái hòm gỗ ở ngay cửa toa. Họ trò chuyện đủ thứ và trả lời các câu hỏi của bọn trẻ. Edigej - Bão Tuyết hài lòng về việc hai gia đình cùng đi với nhau, thời tiết tốt, bọn trẻ vui thích, nhưng Edigej mừng hơn cả không phải cho bọn trẻ, mà cho vợ chồng Abutalip. Vẻ mặt họ rạng rỡ, họ được giải thoát một thời gian khỏi tâm trạng luôn luôn lo lắng và u uất, Edigej nghĩ thầm: có lẽ Abutalip sẽ được phép sống ở miền Sarozek tuỳ theo khả năng mà anh ấy có. Ước sao đúng như vậy.
Thật mát cả lòng khi nhìn Zaripa và Ukubala chuyện trò, tâm sự với nhau về các thứ sinh hoạt thường ngày. Trông họ hạnh phúc lắm, phải như vậy mới đúng, bởi lẽ con người đâu có cần gì nhiều… Edigej ước mong gia đình Abutalip quên đi mọi điều phiền muộn, để họ có thể bám rễ chắc chắn và thích nghi hoàn toàn với cuộc sống ở Boranly, nếu như không còn cách lựa chọn nào khác. Edigej cũng lấy làm hài lòng vì có Abutalip ngồi sóng vai bên cạnh, như thể Abutalip biết rằng có thể trông cậy ở Edigej và hai người có thể hiểu nhau mà không cần thốt ra lời, không cần động chạm đến những chuyện đau lòng chẳng đáng gợi ra đây. Edigej đánh giá cao trí thông minh, tính nết điềm đạm của Abutalip, nhất là tình cảm gắn bó của Abutalip với gia đình - chính vì gia đình mà Abutalip đã sống, đã không chịu đầu hàng, đã tìm ra sức lực cho mình. Lắng nghe các ý kiến của Abutalip, Edigej đi tới kết luận rằng điều tốt đẹp nhất mà một người có thể làm cho những người khác, ấy là nuôi dạy các con mình thành những người xứng đáng. Và không phải dựa vào sự giúp đỡ của ai khác, mà tự mình dành trọn tâm sức vào việc ấy, hết ngày nọ sang ngày kia, tuần tự từng bước một, và nếu có thể thì nên ở bên các con càng lâu càng tốt.
Thì đây, cái gã Shabitzhan đã được dạy dỗ đủ mọi nơi, từ bé đã học ở các trường nội trú, lớn lên thì ở các trường đại học và các lớp bồi dưỡng khác nhau. Đáng thương thay cho bác Kazangap dành dụm được chút gì đều chu cấp cho đứa con trai, để nó được ở trên thành phố, để nó - cái thằng Shabitzhan của bác ấy - khỏi phải sống khổ sở hơn những người khác. Nhưng kết quả thì sao? Chuyện gì nó cũng biết, nhưng nó đúng là đồ vô tích sự, không hơn không kém.
Hôm ấy, trên đường đi lên ga Kumbel mua dưa, Edigej nghĩ rằng nếu không còn lối thoát tốt hơn, thì Abutalip Kuttybaev nên ở hẳn lại Boranly - Bão Tuyết. Lo chăn nuôi thu xếp kinh tế gia đình, và dạy dỗ hai đứa con giữa vùng Sarozek này được bao lâu thì tuỳ. Tuy anh không dạy khôn cho Abutalip nhưng anh hiểu qua buổi trò chuyện, rằng Abutalip cũng đã ngả sang ý định đó. Abutalip đã hỏi cách để dành khoai tây như thế nào, mua giày ấm cho vợ và hai con ở đâu, còn bản thân anh ấy bảo là chỉ đi ủng cũng xong. Abutalip còn hỏi kỹ về việc trên ga Kumbel có thư viện không và hiện người ta có cho các ga xép mượn về đọc hay không.
Chiều hôm đó, họ đi nhờ chuyến tàu hàng trở về, đem kèm số dưa hấu và dưa bở mua theo phiếu phân phối cho ga Boranly. Lúc này bọn trẻ đã mệt, nhưng rất thỏa mãn. Chúng đã được thấy cảnh vật ở Kumbel, đã mua đủ thứ đồ chơi, được ăn kem và vài thứ quà bánh khác. Kể ra cũng có một chuyện trục trặc nhỏ ở hiệu cắt tóc, người lớn quyết định cắt tóc cho bọn trẻ. Khi đến lượt Ermek, thằng bé gào khóc đến nỗi chẳng ai bảo được nó. Mọi người đều dỗ dành, nhưng nó vẫn sợ, cứ giãy giụa khóc lóc gọi bố. Lúc ấy Abutalip vừa chạy sang cửa hàng bên cạnh, Zaripa không biết làm cách nào, mặt chị cứ lúc đỏ lúc tái vì xấu hổ. Chị luôn miệng thanh minh rằng từ bé đến giờ cháu chưa bị cắt tóc lần nào, vì mọi người tiếc bộ tóc xoăn rất đẹp của nó. Quả có thế thật, mái tóc của bé Ermek vừa dày vừa mềm, vừa xoăn, giống tóc mẹ. Và nói chung, thằng bé giống mẹ: mỗi lần Zaripa gội đầu và xoã tóc ra hong, trông đến là đẹp mắt.
Ukubala đành bảo thợ cắt một chút tóc của Saule để làm gương:
- Đấy, thấy chưa, nó là con gái mà chả biết sợ nhé!
Hình như việc đó có đôi chút tác dụng, nhưng lúc bác thợ vừa cầm lấy cái tông đơ máy, thì Ermek lại hét ầm lên và vùng ra. Đúng lúc ấy, Abutalip xuất hiện ngoài cửa. Ermek chạy tới bên bố, Abutalip bế con lên, áp chặt vào người và hiểu rằng không nên hành hạ thằng bé.
- Xin lỗi bác - anh nói với bác thợ - Để lần khác vậy. Cha con tôi sẽ chuẩn bị tinh thần cái đã… Tạm thời chưa cắt cũng được. Chả vội gì lắm… Để lần khác vậy, bác ạ…
...
Trong lúc hai tiểu ban có thẩm quyền đặc biệt họp phiên bất thường trên tàu sân bay ‘Convention’, theo sự đồng ý của cả hai bên, lại thêm một bức điện mật mã nữa được gửi lên trạm quỹ đạo ‘Paritet’ để chuyển tới hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1 hiện có mặt tại hành tinh Ngực Rừng. Lệnh của họ tuyệt đối không được phép có bất cứ hành động gì, phải ở tại chỗ chờ chỉ thị đặc biệt của Trung tâm điều khiển.
Phiên họp vẫn tiếp tục diễn ra trong phòng kín như cũ. Tàu sân bay ‘Convention’ vẫn đậu như cũ ở tọa độ của nó trên Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Aleut, cách San Francisco và Vlapostok một khoảng đúng bằng nhau, tính theo đường chim bay.
Vẫn như cũ, không một ai trên thế giới biết rằng đã xảy ra một sự kiện cực kỳ trọng đại giữa các Thiên Hà - tại hệ thống của thiên thể Chủ Nhân đã phát hiện một hành tinh có nền văn minh mà các sinh vật có trí tuệ ở đó đề nghị được tiếp xúc với người Trái Đất.
Tại phiên họp bất thường, hai bên đã bàn cãi mọi cái hay cái dở của vấn đề vô cùng bất ngờ và bất thường này. Trên bàn, trước mặt mỗi thành viên của hai tiểu ban, ngoài đủ thứ tài liệu tham khảo, đều có cặp hồ sơ ghi toàn văn bức thư của hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1. Từng chi tiết, từng chữ của văn bản đều được nghiên cứu. Mọi chi tiết dẫn chứng về cách tổ chức cuộc sống trí tuệ tại hành tinh Ngực Rừng đều được xem xét trước hết trên quan điểm những hậu quả có thể xảy ra, mức độ dung hòa hay trái ngược với kinh nghiệm của nền văn minh Trái Đất và với lợi ích của những nước chủ chốt… Chưa một ai từng vấp phải những vấn đề loại này. Đã thế, lại yêu cầu có quyết định tức thời…
Trên Thái Bình Dương, sóng gió vẫn tương đối mạnh như cũ…
...
Sau khi gia đình Abutalip trải qua đợt nắng nóng khủng khiếp nhất của mùa hè ở Sarozek, họ không tuyệt vọng thu xếp khăn gói bỏ đi khỏi ga Boranly-Bão Tuyết để tới bất kỳ nơi nào khác, bà con Boranly hiểu rằng gia đình ấy sẽ ở lại, sẽ bám trụ ở đây: Abutalip Kuttybaev có vẻ vui lên rõ rệt, nói đúng hơn là anh đã hòa nhập hẳn vào công việc ở Boranly. Đúng, dĩ nhiên anh đã quen, đã thích nghi với điều kiện sinh sống ở cái ga xép này. Cũng như bất kỳ ai, anh có quyền nói rằng Boranly là mảnh đất khốn khổ nhất trên đời này, nếu như đến món nước uống và nước dùng cho các nhu cầu sinh hoạt khác cũng phải chở trong xi tẹc theo đường xe lửa tới, còn ai muốn uống ngụm nước ngọt, thật sự trong lành, thì sẽ phải đem bao da, cưỡi lạc đà đi tìm giếng nước xa tít tắp giữa thảo nguyên, một điều mà trừ Edigej và Kazangap ra, chẳng ai dám làm.
Đúng, tình hình vẫn cứ như thế và năm năm mươi hai và kéo dài hết những năm sáu mươi, cho đến khi người ta xây ở Boranly một trạm bơm điện hút nước từ lòng đất lên. Nhưng trước đây, đâu ai dám mơ ước như thế. Mặc dù vậy, Abutalip vẫn không hề nguyền rủa cả cái ga xép Boranly-Bão Tuyết lẫn miền đất Sarozek hoang vu này. Tốt xấu ra sao anh cũng chấp nhận. Suy cho cùng, miền đất này chẳng có lỗi gì và chẳng có lỗi với ai hết. Tự con người phải quyết định mình sẽ sống hay không sống ở đây…
Và trên mảnh đấy ấy, người ta cố gắng thu xếp cuộc sống cho ổn thỏa hơn. Khi vợ chồng Abutalip hoàn toàn tin rằng chỗ của họ là ở đây, ở ga Boranly-Bão Tuyết này, rằng họ chẳng còn biết đi nơi nào khác, mà cần bám trụ thật vững, thì công việc gia đình cứ dồn dập tới làm không xuể. Tất nhiên hàng ngày họ phải làm tròn phận sự công tác, nhưng ngoài ra chẳng còn lúc nào rỗi rãi. Abutalip bận rộn, hăng hái chuẩn bị nhà ở cho mùa đông - anh sửa lại bếp lò, lắp thêm cánh thứ hai cho cửa ra vào thật kín và ấm. Những việc ấy anh chưa khéo tay, nhưng có Edigej giúp đỡ, tặng cả dụng cụ lẫn vật liệu, không bỏ mặc anh làm một mình. Hôm đào cái hầm cạnh gian kho, có thêm Kazanggap giúp một tay. Ba người đào một cái hầm kích thước vừa phải, dùng các thanh tà vẹt cũ lát bên trên, lấy rơm trộn với đất đắp thành một cái mái thật chắc, để súc vật đi qua khỏi bị sẩy chân. Và dù họ làm bất cứ việc gì, hai đứa con trai của Abutalip cũng cứ quấn lấy bên cạnh. Tuy đôi lúc chúng có làm vướng chân, nhưng như thế vui vẻ và dễ thương hơn. Edigej cùng Kazangap bắt đầu nghĩ cách giúp Abutalip làm kinh tế phụ giúp gia đình, và cũng đã phác họa một số việc. Họ quyết định sang xuân sẽ tặng nhà Abutalip một con lạc đà sữa, chủ yếu là để anh biết cách vắt sữa. Lạc đà sữa không như bò sữa, lúc vắt sữa phải đứng. Phải biết chăn dắt nó và cái chính là coi giữ lạc đà mới đẻ, cho nó ngậm vú mẹ đúng lúc và kéo ra đúng lúc. Chăm nom lạc đà mới đẻ rất tốn công, cũng cần biết chăm nom cho đúng cách…
Nhưng điều khiến cho Edigej-Bão Tuyết mừng hơn cả là Abutalip chẳng những lo làm ăn, chẳng những thường xuyên cùng vợ dạy chữ và dạy vẽ cho bọn trẻ của cả hai gia đình. Mà hơn thế, còn khắc phục hoàn cảnh quá ư gian khổ ở Boranly để tự tu luyện bản thân. Bởi Abutalip là người có học vấn. Đọc sách, ghi chép điều này điều nọ - chính đấy là việc quen thuộc của anh ấy. Edigej thầm tự hào mình có một người bạn như vậy, cho nên anh muốn gần Abutalip. Tình bạn giữa anh với nhà địa chất học Elizarov, chuyên nghiên cứu vùng Sarozek và thường đến vùng này, cũng từng nảy sinh đâu phải ngẫu nhiên. Edigej kính trọng những người có học thức, tinh thông nhiều điều. Abutalip cũng biết nhiều, chẳng qua anh ấy cố gắng phát biểu ý kiến của mình ít hơn. Nhưng một hôm hai người đã nói chuyện khá kỹ với nhau.
Chiều hôm ấy họ cùng đi làm trên đường về. Hôm ấy họ dựng các tấm ván ngăn tuyết ở kilomet số bảy, nơi tuyết thường xuyên đổ xuống đường tàu. Tuy mùa thu mới thực sự bắt đầu, song đã phải chuẩn bị đối phó từ sớm với mùa đông. Vậy là hai người đang trên đường về nhà, thời tiết chiều nay sáng đẹp, dễ gợi người ta tâm sự. Vào những buổi chiều như thế này, các vùng phụ cận cứ mờ mờ sương khói trong ánh hoàng hôn, y hệt đáy biển Aral được nhìn từ trên thuyền, giữa lúc trời trong biển lặng.
- Anh Abu này, sao tối nào tôi đi ngang qua bên nhà cũng đều thấy anh cúi đầu bên bậu cửa sổ, cạnh ngọn đèn. Anh viết hay sáng tác cái gì thế?- Edigej hỏi.
Abutalip chuyển chiếc xẻng từ vai này sang vai kia, đáp lời với thái độ cởi mở:
- Có gì đâu, bên tôi không có bàn viết. Hễ bọn trẻ tinh nghịch đi ngủ, thì Zaripa đọc sách, còn tôi ghi lại một đôi điều còn nhớ về thời kỳ chiến tranh và chủ yếu là về mấy năm tôi sống ở Nam Tư. Thời gian trôi qua, chuyện cũ phai dần - anh ngừng lời một chút - Tôi luôn luôn nghĩ xem tôi có thể làm được gì cho hai đứa con. Nuôi nấng, dạy dỗ các cháu là chuyện dĩ nhiên. Làm được đến đâu, tôi cố đến đấy. Tôi đã nếm trải nhiều tới mức người khác sống hàng trăm năm cũng chưa phải nếm trải đến thế. Vậy mà tôi vẫn sống nhăn ra đây, chắc tại số phận dành cho tôi khả năng đó, hẳn là để tôi nói lên điều gì đấy, trước hết với các con tôi. Và tôi phải kể lại với các cháu về cuộc đời của tôi, bởi lẽ tôi đã sinh ra chúng, tôi nghĩ thế. Dĩ nhiên, có chân lý chung cho tất cả mọi người, nhưng còn có cách hiểu riêng của mỗi người. Mà cách hiểu riêng ấy sẽ mất đi theo chúng ta. Khi một người vượt qua lằn ranh giới giữa sống và chết trong cuộc thế chiến, nơi anh ta có thể bị giết ít ra hàng trăm lần, mà anh ta vẫn sống sót, thì anh ta được biết rất nhiều điều, cả cái thiện lẫn cái ác, cả sự thật lẫn điều dối trá…
- Hượm đã, tôi chưa hiểu một ý của anh - Edigej ngạc nhiên ngắt lời - Có thể anh nói những điều rất đúng, nhưng hai đứa con của anh còn bé tí tẹo, cái tông đơ còn sợ, thì làm sao chúng nó hiểu nổi?
- Vì thế tôi mới nghĩ lại, tôi muốn giữ gìn cho các cháu. Liệu tôi sẽ sống bao lâu nữa, chả ai biết trước. Thì đó, hôm nọ tôi mải nghĩ, suýt nữa bị tàu cán chết như một thằng khờ. Anh Kazangap đã kịp kéo tôi ra, sau đó anh ấy chửi tôi một trận, anh ấy bảo: các con cậu hôm nay phải quỳ xuống mà cảm ơn Thượng đế.
- Đúng, tôi đã dặn anh từ lâu. Tôi đã bảo cả chị Zaripa nữa - đến lượt Edigej bực bội và anh lợi dụng dịp này để khỏi phải nói lên nỗi lo lắng của mình một lần nữa. - Tại sao anh cứ đi trên đường ray như thể đầu máy phải nhường lối cho anh là cái quái gì? Đã có qui tắc an toàn giao thông. Anh thông thạo chữ nghĩa, cứ để người ta phải nhắc nhở bao nhiêu lần nữa? Bây giờ anh đã là công nhân đường sắt, mà cứ đi như đi giữa chợ, tai nạn như chơi, không đùa được đâu.
- Nếu xảy ra tai nạn, thì chính tôi có lỗi - Abutalip buồn bã gật đầu - Nhưng anh hẵng nghe tôi nói đã, rồi trách móc sau.
- Thì nhân tiện tôi nói thế thôi, anh kể tiếp đi.
- Xưa kia người ta để lại gia tài cho con cái. Gia tài ấy sẽ dẫn tới chỗ tốt đẹp hay tệ hại, thì còn tuỳ. Có rất nhiều cuốn sách, chuyện cổ tích kể lại điều đó, bao nhiêu vở kịch viết về cái thời người ta chia chác gia tài và những gì đã xảy ra sau đó với các người thừa kế. Tại sao vậy? Tại vì số gia tài ấy phần lớn có được một cách bất chính, do công sức vất vả của những người khác tạo nên, do lừa đảo mà có. Bởi vậy ngay từ đầu chúng đã chứa đựng tội ác và sự bất công. Còn tôi, tôi tự an ủi mình, rằng chúng ta may thay được thoát khỏi những thứ đó. Gia tài của tôi sẽ không gây hại cho bất cứ ai, đấy sẽ chỉ là tinh thần của tôi, các ghi chép của tôi, bao gồm tất cả những gì tôi đã hiểu và đã nếm trải trong chiến tranh. Tôi không còn thứ gia tài nào khác để lại cho các con. Ở đây, giữa vùng Sarozek hoang vu này, tôi đã đi tới quyết định ấy. Cuộc sống đã luôn luôn dồn ép tôi tới đây, để tôi phai mờ và mất đi, nên tôi sẽ ghi lại cho con hết thảy những gì tôi suy ngẫm, và đến một lúc nào đó, tôi sẽ tiếp tục tồn tại trong các con tôi. Cái mà tôi không làm được, các con tôi có thể sẽ đạt tới… Bọn trẻ sẽ phải sống gay go hơn chúng ta, vậy hãy để chúng sớm thông minh, hiểu biết…
Hai người lặng lẽ đi một đoạn, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, Edigej lấy làm lạ khi nghe những lời nói trên. Anh ngạc nhiên: té ra con người cũng có thể hiểu thực chất của họ trên trái đất theo kiểu đó. Tuy nhiên, anh quyết định sẽ hỏi cho rõ cái điều đã làm cho anh ngạc nhiên:
- Ai cũng nghĩ, và trên đài vẫn nói, rằng con cái chúng ta sẽ sống sung sướng và thoải mái hơn. Còn anh, anh lại cho rằng chúng nó sẽ sống gay go hơn chúng ta. Có phải tại vì sẽ xảy ra chiến tranh nguyên tử chăng?
- Không, không phải chỉ vì như thế. Chiến tranh có thể sẽ không xảy ra, mà nếu có, thì cũng còn lâu. Cũng chả phải chuyện no đói, đơn giản là bánh xe thời gian quay nhanh dần. Bọn trẻ sẽ phải tự mình nhận thức mọi chuyện, bằng trí thông minh của chúng và một phần còn phải chịu trách nhiệm hộ chúng ta. Và suy nghĩ thì bao giờ cũng vất vả, bởi thế mà chúng nó sẽ khó khăn hơn chúng ta.
Edigej không hỏi thêm, tại sao Abutalip cho rằng suy nghĩ bao giờ cũng vất vả. Và anh không hỏi thêm là dại, sau này anh cứ ân hận mãi mỗi khi nhớ lại buổi trò chuyện này. Lẽ ra phải hỏi cặn kẽ để hiểu ý nghĩa của câu nói đó.
- Tại sao tôi nói như vậy - như đáp lại sự nghi ngờ của Edigej, Abutalip tiếp: - Đối với trẻ nhỏ, người lớn bao giờ cũng có vẻ thông minh, đầy uy tín. Lớn lên, chúng thấy các bậc thầy của chúng, nghĩa là chúng ta ấy mà, hiểu biết không nhiều và chẳng thông minh gì lắm như chúng tưởng. Cũng có thể chê cười họ được, thậm chí đôi khi chúng còn cảm thấy thương hại cho các ông thầy già. Bánh xe thời gian đang quay mỗi ngày một nhanh hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tự nói tiếng nói cuối cùng về bản thân mình. Ông cha ta đã thử làm việc đó trong các chuyện cổ tích. Họ muốn chứng minh cho hậu thế biết họ từng là những con người vĩ đại như thế nào, và chúng ta bây giờ luôn xét về họ theo tinh thần của họ. Vậy nên tôi cũng đang làm cái việc tôi có thể làm cho hai đứa con nhỏ. Chuyện cổ tích của tôi là những năm chiến đấu của tôi, tôi viết cho con các cuốn vở du kích của tôi. Viết lại tất cả những gì đã xảy ra, những gì tôi đã thấy và đã nếm trải. Các cuốn vở ấy các cháu sẽ dùng khi chúng lớn lên. Nhưng ngoài điều đó ra, tôi cũng còn có một vài dự định nữa. Các cháu sẽ phải sống ở miền Sarozek, khi chúng đã lớn, cần để chúng đừng nghĩ rằng chúng sống ở một bãi cát trống rỗng. Tôi đã ghi lại những bài hát cổ của chúng ta, vì sau này cũng chẳng tìm đâu ra những bài hát ấy. Tôi cho rằng bài hát cổ là thông điệp từ quá khứ, chị Ukubala nhà anh hóa ra biết rất nhiều bài. Chị ấy hứa sẽ nhớ thêm nữa.
- Chứ sao! Gì thì gì chứ nhà tôi vốn sinh trưởng ở vùng Aral! - Edigej kiêu hãnh - Dân Kazak miền biển Aral hẳn hoi. Hát ở ngoài biển hay lắm, biển nó hiểu tất. Anh nói gì cũng đều xuất phát từ đáy lòng và đều hòa hợp trên biển.
- Điểm ấy thì anh nói đúng, rất đúng… Hôm vừa rồi đọc lại điều mình viết, vợ chồng tôi cảm động phát khóc. Thời xưa người ta hát hay thật! Mỗi bài hát là cả một câu chuyện, như thấy có người ẩn hiện. Và ta muốn tâm tình cùng họ, muốn đau khổ và yêu thương như họ. Người xưa lưu lại những kỷ niệm về họ mới tuyệt làm sao! Tôi đã vận động cả chị Bukej, tôi bảo chị ấy cố nhớ các bài hát vùng Karakalpak quê chị để tôi ghi vào một cuốn vở riêng. Chúng ta sẽ có quyển Karakalpak…
Họ cứ thong thả như thế dọc đường tàu, một giờ hiếm có. Ánh hoàng hôn của một ngày sắp sang thu đang dần tắt nhẹ nhàng, dễ chịu như một tiếng thở dài. Tưởng chừng không có rừng, không có sông, không có ruộng đồng ở vùng Sarozek, nhưng mặt trời sắp lặn tạo ra ấn tượng về sự toàn vẹn của thảo nguyên nhờ sự vận động khó bề nắm bắt của ánh sáng và bóng tối trên mặt đất trống trải. Màu xanh mờ mờ xao động của không gian bao la có tác dụng nâng cao tầm tư tưởng, gợi nên ý muốn sống thật lâu và suy nghĩ thật nhiều…
- Anh Edigej này - Abutalip lại nói khi nhớ đến điều mình tạm gác chờ dịp thuận tiện - Tôi đã định hỏi anh từ lâu về con chim Donenbaj. Anh nghĩ sao, có lẽ trong thiên nhiên có loài chim tên là Donenbaj đấy nhỉ. Anh đã gặp loài chim ấy lần nào chưa?
- Đấy là chuyện thần thoại mà.
- Tôi hiểu, nhưng nhiều khi chuyện thần thoại được thực tế xác nhận là có thật trong đời. Ví dụ có loài chim vàng anh ở vùng Semirechie chúng tôi, cứ suốt ngày hót trong rừng câu hỏi: "Chồng em đâu?". Đấy chỉ là do sự hài thanh tạo nên. Nhưng có một chuyện cổ tích, kể tại sao chim vàng anh nó hót như vậy. Bởi thế tôi mới nghĩ: không biết huyền thoại về chim Donenbaj có sự trùng hợp với thực tế hay không? Rất có thể ở thảo nguyên có một loài chim nào đó hót nghe giống tên người, cho nên nó mới được đưa vào huyền thoại chăng?
- Tôi chả biết. Tôi chưa hề nghĩ là như vậy - Edigej nghi ngờ - Tôi đã đi ngang dọc khắp vùng này, nhưng chưa gặp loài chim ấy lần nào. Nghĩa là không có loài chim đó.
- Có thể lắm - Abutalip đáp, vẻ đăm chiêu.
- Này, nếu không có loài chim ấy, hóa ra toàn bộ câu chuyện kia là chuyện bịa à?- Edigej lo ngại.
- Không, sao lại bịa. Có nghĩa địa Ana-Bejit tức là ở đây phải có điều gì chứ. Nên không hiểu sao tôi vẫn nghĩ rằng có loài chim ấy, và tới một lúc nào đó sẽ có người gặp nó. Tôi sẽ viết như vậy cho hai cháu.
- Ừ, viết cho trẻ con thì được thôi - Edigej lưỡng lự thốt thành lời.
Edigej-Bão Tuyết nhớ rằng hồi trước chỉ có hai người ghi chép huyền thoại Ana-Najman của vùng Sarozek vào giấy. Đầu tiên là Abutalip Kuttybaev ghi lại cho hai đứa con của anh ấy, để khi lớn lên chúng sẽ đọc, đấy là vào cuối năm năm mươi hai. Cuốn vở ghi chép đã bị mất, họ đã phải chịu bao nhiêu đau khổ sau chuyện đó.. Còn bụng dạ nào nghĩ đến cuốn vở kia chứ! Mấy năm sau, vào năm năm mươi bảy Elizarov Afanasi Ivanovich cũng có ghi lại. Bây giờ bác Elizarov đã qua đời. Bản thảo của bác ấy đâu, không ai biết, chắc vẫn lẫn trong các thứ giấy tờ của bác ở Alma-Ata… Cả hai người đều ghi chủ yếu qua lời kể của Kazangap. Edigej khi ấy cũng có mặt nhưng chỉ sắm vai người gợi chuyện và bình phẩm đôi lời mà thôi.
“Năm tháng qua nhanh thật!” - Edigej-Bão Tuyết nghĩ thầm trong lúc ngồi đung đưa giữa hai cái bướu của con Karanar. Lúc này bác đang chở chính ông già Kazangap tới nghĩa địa Ana-Bejit. Vòng tròn dường như đã khép kín, người kể chuyện huyền thoại bây giờ sắp sửa an nghỉ vĩnh viễn ở cái nghĩa địa mà mình đã ghi nhớ và lưu truyền cho người khác câu chuyện về nó.
“Chỉ còn lại mình và nghĩa địa Ana-Bejit. Và cả mình cũng sắp đến nằm ở đấy, xin một chỗ cho mình, sự việc đang dẫn tới đó” - Edigej buồn bã nghĩ thầm dọc đường. Bác vẫn cưỡi lạc đà dẫn đầu đám tang lạ lùng đi sau bác trên chiếc máy kéo có rờ mọoc và chiếc máy đào đất bánh hơi nhãn hiệu ‘Belarus’. Con chó hung Zholbars tự tiện bám theo đám tang cứ chạy lúc ở đằng trước, lúc ở đằng sau, đôi khi tách riêng đi đâu một lát chẳng rõ…. Cái đuôi của nó được đặt ở tư thế cứng cỏi, trông ra dáng ông chủ, con mắt nó chốc chốc nhìn sang hai bên rất nghiêm trang…
Mặt trời đã lên tới đỉnh đầu. Từ đấy tới nghĩa địa Ana-Bejit không còn bao xa…