← Quay lại trang sách

Chương 8

Dẫu sao, thời kỳ cuối năm năm mươi hai, nói đúng hơn, toàn bộ mùa thu và mùa đông - một mùa đông tuy đến muộn nhưng không có bão tuyết, có lẽ vẫn là giai đoạn tươi đẹp nhất đối với một nhúm dân cư ít ỏi hồi ấy ở ga Boranly-Bão Tuyết. Về sau Edigej thường nhớ tiếc những ngày đó.

Kazangap, vị gia trưởng của số cư dân ở Boranly, một người rất tế nhị, chẳng bao giờ xen vào những việc không phải của mình, lúc ấy còn dồi dào sức lực. Thằng Shabitzhan của bác đã học ở trường nội trú trên ga Kumbel. Gia đình Abutalip tới lúc ấy đã bám rễ chắc chắn tại miền Sarozek. Chuẩn bị cho mùa đông, họ đã lo ấm căn nhà, dự trữ đủ khoai tây, mua giày cho Zaripa và hai đứa trẻ, đích thân Edigej đã dùng con Karanar, lúc ấy bắt đầu bước vào thời kỳ trẻ khỏe, sung sức nhất, chở cả một bao bột lớn từ ga Kumbel về cho họ. Abutalip vẫn làm việc bình thường và toàn bộ thời gian rảnh rỗi vẫn dành cho bọn trẻ, còn đêm đêm anh vẫn ngồi bên ngọn đèn đặt trên bậu cửa sổ, cắm cúi ghi ghi chép chép.

Cũng còn thêm hai, ba gia đình công nhân nhà ga nữa, nhưng rõ ràng họ chỉ sống ở đây tạm thời. Trưởng ga hồi ấy là Abilov cũng tỏ ra không đến nỗi nào. Không một ai ở Boranly ốm đau. Công tác chạy đều. Trẻ con lớn nhanh. Toàn bộ việc tu sửa và chắn tuyết cho đường tàu trước mùa đông đã được hoàn thành đúng thời hạn.

Thời tiết thật là đẹp đối với miền Sarozek - mùa thu màu nâu sẫm như vỏ bánh mì! Sau đó tiếp đến mùa đông. Có tuyết ngay lập tức. Phong cảnh cũng đẹp, bốn phía trắng xóa một màu. Và giữa cảnh im lặng màu trắng mênh mông ấy, đường tàu vắt qua như một sợi chỉ đen, những chuyến tàu vẫn chạy qua lại trên đó như mọi khi. Và nép mình bên cạnh sự chuyển động ấy, giữa những đống tuyết cao thấp, là ga xép Boranly-Bão Tuyết trông như một cái xóm nhỏ, vỏn vẹn có mấy ngôi nhà... Hành khách từ trên toa hững hờ nhìn xuống chợt thoáng có cảm giác thương hại những cư dân lẻ loi của nhà ga...

Nhưng cái cảm giác thương hại thoáng qua kia là vô căn cứ. Dân Boranly đang sống một năm tốt đẹp nếu không kể đợt nắng nóng gớm ghiếc dạo hè, nhưng dẫu sao đợt nóng ấy cũng đã lùi lại phía sau. Nhìn chung, cuộc sống ở khắp nơi chuyển dần vào thế ổn định sau chiến tranh, sắp sang năm mới, người ta lại chờ đợi giảm giá thực phẩm, hàng hóa, và tuy các cửa hàng còn lâu mới dồi dào mặt hàng, song tình hình mỗi năm một khá hơn...

Thông thường, bà con Boranly không mong mỏi gì Tết năm mới, không háo hức gì đón giao thừa. Công việc nhà ga được tiến hành thường xuyên, các đoàn tàu vẫn chạy, bất kể giao thừa sẽ đến tại đâu, vào lúc nào trên đường. Hơn nữa, bước sang mùa đông, việc nhà cũng nhiều thêm. Nào đốt bếp lò, nào săn sóc gia súc ngoài bãi chăn và cả khi nhốt trong chuồng, vất vả suốt ngày, hình như người ta cảm thấy tốt nhất là nên nghỉ ngơi, đi ngủ cho sớm.

Năm tháng cứ thế trôi qua...

Nhưng mấy ngày cuối năm năm mươi hai, ở ga Boranly-Bão Tuyết đúng là ngày hội thật sự. Sáng kiến tổ chức dĩ nhiên là của gia đình Abutalip. Gần về cuối, Edigej mới tham gia việc chuẩn bị đón Tết. Tất cả bắt đầu từ chuyện vợ chồng Abutalip quyết định đặt cây thông năm mới cho bọn trẻ. Nhưng giữa vùng Sarozek này đào đâu ra một cây thông, tìm trứng loài khủng long hóa thạch còn dễ hơn. Thì đấy, trong khi lang thang thăm dò địa chất, Elivarov chẳng đã phát hiện trứng của loài khủng long từ hàng triệu năm về trước đấy thôi. Các quả trứng ấy đã biến thành đá, mỗi quả to bằng một trái dưa hấu lớn. Người ta đã chở về Viện bảo tàng ở Alma-Ata. Báo chí có viết về chuyện đó.

Giữa lúc rét buốt, Abutalip Kuttybaev phải lên tận Kumbel đề nghị với công đoàn nhà ga nhường cho một trong số năm cây thông mà người ta gửi đến cho ga lớn, và công đoàn đã đồng ý tặng ga Boranly-Bão Tuyết. Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Edigej đang đứng cạnh kho, nhận của trưởng ga những đôi bao tay mới để làm việc, thì một chuyến tàu hàng rít nhanh, đỗ lại ở đường số 1, lớp sơn vỏ toa bị tróc nham nhở vì gió thảo nguyên. Đoàn tàu rất dài, kéo toàn những toa bốn trục, có niêm dấu chì dày đặc. Từ cái sàn trống của toa cuối cùng. Abutalip vất vả lê cặp giò cứng ngắc trong đôi ủng lạnh cứng tụt xuống đất. Người nhân viên phụ trách đoàn thu mặc chiếc áo tulúp to tướng, đội mũ lông bịt tai, vụng về, loay hoay chuyển từ trên sàn toa xuống cho Abutalip một vật khá cồng kềnh. Ồ, cây thông! Edigej đoán ra và hết sức kinh ngạc.

- Ấy! Edigej! Bão Tuyết! Lại đây giúp người ta với! - Anh nhân viên nọ vừa gọi, vừa cúi nửa thân mình xuống bậc toa.

Edigej vội chạy tới và khi tới nơi, anh lo thay cho Abutalip. Trắng toát đến tận lông mày, tuyết bám đầy người; Abutalip bị rét cóng đến mức không sao động đậy được cặp môi, cả tay cũng vậy. Bên cạnh là cây thông lá nhọn mà vì nó suýt nữa Abutalip bị mất mạng.

- Các anh để người của các anh đi tàu xe thế này thì lạ thật! - anh nhân viên lẩm bẩm khó chịu. - Quần áo phong phanh lại ngồi hứng gió ở cuối toa. Tôi cũng muốn cho anh ta mượn cái áo tulúp, nhưng nếu thế thì tôi sẽ chết rét.

Vừa điều khiển được cặp môi, Abutalip vội xin lỗi:

- Xin lỗi anh nhé! Tôi sẽ sưởi ấm ngay bây giờ. Nhà tôi ở kề đây thôi.

- Tôi đã bảo anh ta, - anh nhân viên nói với Edigej - Tôi mặc áo tulúp, bên trong còn chiếc áo lông chồn, đi giày ấm, đội mũ bịt tai, vậy mà lúc tàu chạy, tôi còn rét thấu ruột thấu gan. Ai lại để anh ta đi như thế!

Edigej ngượng nghịu:

- Cám ơn anh Trofim, được, để chúng tôi rút kinh nghiệm. Chúc anh lên đường may mắn!

Edigej dựng cây thông lên. Nó lạnh toát, cao ngang đầu người. Anh cảm thấy mùi rừng cây mùa đông tỏa ra từ đám lá nhọn. Tim khẽ nhói lên vì chợt nhớ đến những cánh rừng ngoài mặt trận, ở đấy loại thông lá kim này đầy rẫy, bị xe tăng húc đổ, bị đạn đại bác băm vằm. Lúc ấy ai ngờ có khi mùi thông lại trở nên đắt giá như bây giờ.

- Ta đi thôi - Edigej nói, nhìn Abutalip một cái và vác cây thông lên vai.

Trên khuôn mặt xám ngoách vì giá rét của Abutalip có những giọt nước mắt đóng băng bên má, từ dưới hai hàng lông mày trắng ánh lên đôi mắt vui sướng, sinh động, đắc thắng. Edigej chợt lo sợ: liệu hai đứa con Abutalip có biết đánh giá đúng tấm lòng người cha hay không? Bởi trong cuộc sống, đầy rẫy những trường hợp trái khoáy. Lẽ ra phải biết ơn, thì con cái lại thờ ơ, thậm chí căm ghét. "Cầu trời đừng bắt anh ấy phải chịu cảnh đó. Anh ấy đã gặp đủ thứ đau khổ rồi" - Edigej nghĩ thầm.

Người trông thấy cây thông trước tiên ở nhà Abutalip là thằng con đầu lòng của anh, thằng Daul. Nó reo lên vui sướng và chui tọt vào nhà. Từ bên trong, Zaripa và Ermek, quần áo phong phanh, chạy bổ ra.

- Ồ thông, thông! Xem kìa, thông đẹp chưa kìa! - Daul mừng rỡ, cứ nhảy cẫng lên ở xung quanh.

Zaripa cũng vui mừng không kém.

- Thế mà anh vẫn kiếm được cây thông! Tuyệt quá.

Còn bé Ermek thì ra chưa từng thấy cây thông bao giờ. Nó cứ nhìn trân trân cái vật dài dài ở trên vai chú Edigej.

- Mẹ ơi, cây thông đấy à? Nó tốt lắm hả mẹ? Nó sẽ sống ở nhà ta chứ?

- Chị Zaripa ơi - Edigej nói - vì cây thông cỏn con này, theo cách nói của người Nga, mà chồng chị có thể bị chết cóng đấy. Ta hãy mau chóng đưa anh ấy vào nhà sưởi ấm đi. Trước tiên phải tháo ủng ra ngay.

Đôi ủng cứng quèo. Abutalip nhăn mặt, nghiến răng, rên rỉ, khi mọi người hợp lực kéo ủng ra khỏi chân anh. Hai đứa bé cố gắng đặc biệt. Bàn tay nhỏ nhắn của chúng cứ bám níu lúc chỗ này, lúc chỗ khác trên đôi ủng bằng da bê nặng chịch bị giá lạnh đóng cứng như đá theo khuôn chân.

- Các con lặng yên để mẹ tự tháo ủng cho bố nào! - Zaripa gạt chúng ra.

- Đừng. Cứ để các cháu tham gia, chị Zaripa ạ.

Anh hiểu một cách thấm thía, rằng đối với Abutalip đấy sẽ là sự đền đáp cao nhất, là tình thương yêu và sự đồng cảm của các con. Chúng làm như vậy tức là chúng đã thành người, tức là chúng đã biết nghĩ. Trông bé Ermek càng thấy cảm động và buồn cười. Không rõ tại sao bé lại gọi bố là "bá ba". Và không ai sửa cho bé, bởi vì đó là cách biến đổi độc đáo của bé đối với một trong những từ ngữ đầu tiên và vĩnh cửu nơi cửa miệng mọi người.

- Bá ba! Bá ba! - bé Ermek cứ loay hoay cuống quít, đỏ cả mặt vì những nỗ lực vô ích. Mái tóc xoăn của bé xõa ra, cặp mắt long lanh ý muốn làm một việc cực kỳ cần thiết, trông dáng dấp bé nghiêm trang đến nỗi bất giác ta muốn phì cười.

Dĩ nhiên, nên làm sao cho hai đứa trẻ đạt được mục đích của chúng. Edigej nghĩ ra được một cách. Đôi ủng lúc này đã bắt đầu mềm lại có thể kéo ra mà không làm cho Abutalip quá đau.

- Nào các cháu, hãy ngồi phía sau chú cơ. Ta sẽ như một đoàn tàu, toa này kéo toa kia. Daul, ôm lấy chú đi; còn cháu, Ermek, hãy ôm lấy anh Daul.

Abutalip hiểu ý đồ của Edigej nên gật đầu ủng hộ, anh mỉm cười qua những giọt nước mắt vừa chảy vì gặp hơi nóng.

Edigej ngồi trước mặt Abutalip, hai đứa bé bám đằng sau, và khi đã chuẩn bị xong. Edigej bắt đầu kéo ủng.

- Nào các cháu, kéo mạnh nữa đi, dô ta nào! Chứ một mình chú thì đành chịu. Không đủ sức. Nào Daul, Ermek! Dô ta nào!

Hai đứa bé hì hà hì hục phía sau, cố giúp đỡ Zaripa đứng cổ vũ. Edigej giả vờ khó khăn, cuối cùng khi chiếc ủng thứ nhất đã được tháo ra, hai đứa trẻ reo hò sung sướng. Zaripa vội dùng một mảnh vải len xát xát bàn chân cho chồng, nhưng Edigej ngăn lại:

- Nào các cháu, nào chị Zaripa! Ơ hay, các vị làm gì thế? Ai sẽ tháo chiếc ủng thứ hai đây? Hay là chúng ta cứ để một chân ông bố bị giam trong chiếc ủng cứng. Như thế thoải mái hơn chăng?

Và tất cả cùng cười rộ. Họ cười hồi lâu, cười lăn cười bò. Đặc biệt hai đứa bé và Abutalip.

Sau này Edigej-Bão Tuyết thường nghĩ về điều đó, nhiều lần cố giải đoán câu đố đáng sợ: ai, ai biết, ai ngờ được rằng có lẽ chính vào giây phút ấy, ở một nơi nào đó rất xa Boranly-Bão Tuyết, họ tên của Abutalip lại nổi lên trong các thứ giấy tờ hồ sơ, và những người nhận các thứ giấy tờ hồ sơ ấy đã dựa vào đó để quyết định một vấn đề mà không ai ở gia đình này cũng như ở ga xép này ngờ tới.

Tai họa ập đến bất ngờ như tuyết ụp xuống đầu. Tuy rằng, dĩ nhiên, nếu Edigej có kinh nghiệm hơn một chút về những vụ như thế, nếu anh khôn ngoan hơn một chút chẳng hạn, thì dù không đoán trước, cũng có thể lờ mờ nhận ra hoặc thấy lo lo trong lòng.

Thử hỏi có gì đáng lo đâu kia chứ? Bao giờ gần cuối năm cũng có cán bộ thanh tra khu vực về ga này. Theo lịch, cán bộ thanh tra cứ lần lượt đi từ ga này sang ga khác, ở lại mỗi ga một, hai ngày, kiểm tra việc trả lương, việc chi phí vật tư và các khoản chi tiêu khác, lập biên bản kiểm tra cùng với trưởng ga hoặc cùng với một công nhân nào đó, rồi đáp tàu đi luôn, ở một ga xép đâu có nhiều vụ việc gì cho cam! Không phải một lần Edigej đã ký tên vào các biên bản ấy. Lần này, viên thanh tra sống ba ngày ở Boranly-Bão Tuyết. Lão ta ngủ ở phòng trực nằm trong ngôi nhà chính của ga, nơi bố trí thiết bị thông tin liên lạc và một căn phòng nhỏ của trưởng ga gọi là phòng làm việc. Trưởng ga Abilov chạy lăng xăng bưng ấm trà sang mời viên thanh tra. Edigej cũng có ngó vào chỗ lão ta. Lão ta ngồi hút thuốc lá, cúi đầu xuống đám giấy tờ. Edigej tưởng đây là tay cán bộ thanh tra mọi năm vẫn về đây, nhưng không phải. Lão này trông lạ lắm, má đò, răng thưa, tóc bạc, đeo kính. Ánh mắt lão ta cười cười rất không bình thường.

Tối hôm ấy anh gặp lão ta khi anh đi làm về. Anh thấy lão đang đi đi lại lại dưới cột đèn, cạnh phòng trực. Lão ta mặc áo thụng, kéo cao cổ áo, đeo kính, trầm ngâm hút thuốc, đôi ủng giẫm lên cát lạo xạo.

- Chào ông. Làm việc căng quá, ông ra ngoài trời hút thuốc giải lao đấy à? - Edigej hỏi giọng thông cảm.

- Ừ, dĩ nhiên - lão ta nhếch mép cười - Căng thật - Và lão ta lại nhếch mép, nửa như cười.

- Dĩ nhiên là căng - Edigej nói cho có chuyện.

- Sáng mai tôi đi - viên thanh tra dặn. - Nếu thấy chuyến tàu số 17, anh hãy báo hiệu cho nó dừng lại một chút để tôi lên tàu. - Lão ta lại nhếch mép cười. Giọng lão ta khàn khàn, thậm chí có vẻ thiểu não. Nhưng cặp mắt nheo nheo, nhìn xoáy vào mặt người khác. - Anh là Edigej Zhangeldin thì phải? - Lão ta hỏi.

- Chính tôi.

- Tôi đoán thế - Viên thanh tra tự tin thả khói thuốc qua hàm răng thưa - Anh đã chiến đấu ngoài mặt trận. Đến ga này từ năm bốn mươi tư. Công nhân làm đường gọi anh là Bão Tuyết.

- Đúng thế - Edigej thật thà đáp. Anh thú vị khi thấy lão ta biết nhiều đến thế về anh nhưng đồng thời cũng ngạc nhiên, không hiểu lão ta tìm hiểu và ghi nhớ những điều đó bằng cách nào và để làm gì.

- Tôi nhớ rất giỏi, - viên thanh tra cười cười, nói như đoán biết ý nghĩ của Edigej. - Bởi vì tôi cũng viết lách như Abutalip bạn anh - lão ta hất hàm, thổi một luồng khói thuốc về phía cửa sổ sáng ánh đèn, nơi mái đầu Abutalip đang cúi cúi xuống quyển vở ghi chép như mọi tối - Hôm nay là ngày thứ ba tôi quan sát, hôm nào anh ta cũng cắm cúi viết. Tôi hiểu. Chính tôi cũng là dân viết mà, Có điều là tôi làm thơ. Hầu như hàng tháng tôi đều có bài đăng trên báo của đoạn đầu máy. Ở đoạn đầu máy có nhóm sáng tác do tôi lãnh đạo. Tôi đăng thơ cả trên báo của tỉnh nữa - một bài vào dịp mồng tám tháng ba, một bài vào dịp mồng một tháng năm vừa qua.

Hai người im lặng. Edigej đã định cáo từ, nhưng viên thanh tra lại hỏi:

- Anh ta viết về Nam Tư à?

- Thật tình là tôi chả biết gì - Edigej trả lời - Hình như vậy. Tại vì anh ấy đánh du kích bên ấy mấy năm cơ mà. Anh ấy viết cho con anh ấy đọc.

- Tôi có hỏi kỹ Abilov và biết như thế. Thì ra anh ta đã từng bị bọn Đức bắt làm tù binh. Hình như cũng có làm giáo viên một số năm. Còn bây giờ anh ta quyết định thử tài múa bút, - lão ta cười è è - Nhưng việc đó không đơn giản như thoạt tưởng. Tôi cũng đang thai nghén một tác phẩm. Tiền tuyến, hậu phương, lao động, đủ cả. Chỉ tội hoàn toàn không có thời gian ngồi viết. Cứ đi công tác liên miên.

- Anh ấy chỉ viết vào ban đêm thôi. Còn ban ngày phải đi làm - Edigej xen vào.

Hai người im lặng. Và Edigej lại không kịp cáo lui.

- Anh ta cứ cắm cúi, cắm cúi viết cấm thấy ngẩng lên - viên thanh tra vẫn cười nửa miệng và nhìn hình bóng Abutalip bên cửa sổ.

- Thì cũng nên làm một việc gì chứ - Edigej trả lời nhận xét của lão ta - Anh ấy có trình độ văn hóa. Quanh đây lại chẳng có ai và chẳng có cái gì. Nên anh ấy mới viết.

- A ha, cũng là một ý hay. Quanh đây chẳng có ai và chẳng có cái gì, viên thanh tra nheo nheo mắt, mường tượng một điều gì đó, miệng lẩm bẩm - Anh tha hồ tự do, vì xung quanh chẳng có ai, chẳng có cái gì, cũng là một ý hay... Anh tha hồ tự do...

Đến đây họ chia tay nhau. Những ngày sau, thỉnh thoảng Edigej chợt nhớ phải kể cho Abutalip biết câu chuyện tình cờ nọ giữa anh với viên thanh tra, nhưng rồi anh lại quên biến đi mất.

Sắp sang mùa đông, công việc rất nhiều. Và cái chính là con Karanar giở chứng ghê gớm, làm tình làm tội chủ nó đến khổ! Nó bắt đầu động hớn từ hai năm trước. Nhưng bấy giờ ham muốn của nó chưa bộc lộ mãnh liệt như bây giờ, còn có thể vỗ về, dọa nạt, quát tháo nó. Hơn nữa, con đực chủ chốt trong đàn lạc đà ở Boranly - con lạc đà lâu năm của Kazangap - cũng không cho phép con Karanar làm mưa làm gió. Con kia cứ đá, cứ húc, đuổi Karanar khỏi những con cái. Nhưng thảo nguyên rộng lớn. Đuổi đầu này, Karanar mò đến từ đầu khác. Con già kia suốt ngày cứ phải lo xua đuổi Karanar đến kiệt cả sức. Bấy giờ con Karanar vừa trẻ vừa hăng rốt cuộc cũng đạt được mục đích của nó.

Nhưng năm nay, khi cái lạnh mùa đông tràn đến, khi tiếng gọi muôn thuở của tự nhiên lại thức tỉnh trong máu lạc đà thì con Karanar đã trở thành chúa tể trong bầy lạc đà ở Boranly. Sức lực của nó đã đạt tới mức dồi dào tràn trề, cực độ. Nó dễ dàng dồn con đực của Kazangap xuống một cái khe vắng và húc, đá, giày xéo con kia gần chết - chẳng có ai ở đó mà ngăn xua chúng. Trong cái quy luật khắc nghiệt ấy, thiên nhiên tỏ ra trước sao sau vậy - bây giờ đến lượt Karanar lưu lại nòi giống cho mình.

Tuy nhiên, vụ ấy đã khiến Kazangap và Edigej lần đầu tiên cãi lộn nhau. Kazangap không chịu nổi cảnh tượng thảm thương - con lạc đà giống của bác bị giày xéo nằm thoi thóp dưới khe. Từ ngoài thảo nguyên trở về, mặt hầm hầm, bác bảo Edigej:

- Tại sao chú lại để cho nó làm như thế hả? Chúng nó là súc vật, nhưng tôi và chú là người kia mà! con Karanar nhà chú có thể giết chết tươi con lạc đà khác. Vậy mà chú lại thả cho nó chạy rông.

- Tôi có thả nó đâu hở bác? Nó tự chạy rông đấy. Bác bảo tôi phải giữ nó bằng cách nào? Bằng dây xích chăng? Thì nó giật tung cả dây xích. Chẳng phải tự nhiên người đời có cậu "Sức mạnh không thừa nhận cha nó". Đã đến thời con Karanar rồi.

- Chú lấy thế làm mừng lắm hả. Cứ đợi đấy, rồi còn được mừng. Chú thương, không đóng ngàm vào môi nó, thì chú sẽ phải khóc vì đuổi theo nó đấy. Con vật hung hăng như nó thì cả một đàn cũng chưa thỏa đâu. Nó sẽ đi lùng con cái khắp vùng Sarozek này cho mà coi. Sẽ không có gì ngăn nổi nó. Lúc ấy chú sẽ nhớ đến lời tôi.

Edigej không dám cãi thêm, anh kính trọng Kazangap, vả lại nhìn chung bao giờ bác ấy cũng đúng. Anh chỉ ấp úng đấu dịu:

- Chính bác đã tặng tôi hồi nó bé tí, bây giờ bác lại mắng tôi. Thôi được, để tôi nghĩ cách trị nó, không cho nó lộng hành nữa.

Nhưng trị một con lạc đà đẹp như con Karanar, nghĩa là dùng một thanh gỗ xỏ qua môi trên của nó, xuyên lên mũi, thành một cái ngàm thì ai nỡ kia chứ. Và không biết bao lần sau đó quả thật Edigep phải nhớ đến lời Kazangap, cũng bấy nhiêu lần anh điên đầu lên vì nó, thề rằng sẽ quyết trị nó, nhưng rốt cuộc lại thôi. Một bữa anh đã tính thiến nó đi, song lại không dám, không nỡ lòng. Năm tháng cứ trôi đi, mỗi độ mùa đông tới, lại bắt đầu cái cảnh khổ sở vì phải lùng kiếm con Karanar động hớn đến phất cuồng...

Mọi chuyện bắt đầu từ mùa đông đáng nhớ năm ấy. Và trong lúc Edigej tìm cách ngăn trở con Karanar, sửa chuồng chắc chắn để nhốt nó, thì Tết năm mới đã tới. Vừa gặp lúc vợ chồng Abutalip có sáng kiến tổ chức cây thông. Đối với toàn bộ trẻ em ở Boranly, đó là một sự kiện lớn. Ba mẹ con Ukubala đúng là chuyển hẳn sang bên nhà vợ chồng Abutalip. Suốt ngày họ lo chuẩn bị và trang hoàng cho cây thông. Khi đi làm và khi đi làm về, việc đầu tiên của Edigej cũng là ghé vào xem cây thông bên nhà vợ chồng Abutalip đến đâu rồi. Trông nó mỗi lúc một đẹp hơn, với đủ thứ băng giấy và đồ chơi tự tạo. Ở đây phải kể đến công lao của Zaripa và Ukubala - hai chị đã cố gắng trổ hết tài khéo tay để phục vụ bọn trẻ. Và có lẽ cái chính không phải chuyện cây thông, mà là những hi vọng vào năm mới, là không khí háo hức chờ đợi những thay đổi mau chóng và tốt đẹp nào đó của hết thảy mọi người.

Abutalip chưa bằng lòng ở đây, anh kéo bọn trẻ ra sân và bắt đầu hợp sức đắp một bà già bằng tuyết. Thoạt tiên Edigej tưởng rằng chú cháu họ chỉ bày trò đùa vui với nhau, nhưng sau đó anh phải thán phục sáng kiến ấy. Bà già tuyết cao to như người thật, trông quái dị đến tức cười, với cặp mắt và lông mày đen làm bằng than, cái mũi đỏ và miệng cười toe toét, đầu đội chiếc mũ lông cáo cũ rích của bác Kazangap, đứng ngay trước cửa ga chào đón các đoàn tàu. Một tay bà già tuyết cầm lá cờ xanh của ngành đường sắt - tín hiệu thông đường, - tay kia cầm tấm biển đề: "Chúc mừng năm mới, 1953!" Trông thật là đạt! Bà già tuyết ấy còn đứng trong mấy ngày đầu tháng giêng...

Ngày 31 tháng mười hai năm 1952, suốt từ trưa đến tối, trẻ em Boranly chơi đùa quanh cây thông và ở ngoài sân. Những người lớn không bận trực cũng có mặt tại đó. Buổi sáng, Abutalip kể với Edigej, rằng từ sớm, hai đứa con trai anh bò sang giường bố, lồm cồm ở bên cạnh anh, còn, anh cứ giả bộ ngủ say.

- Dậy thôi, dậy thôi, bá ba ơi! - Ermek lay lay anh - Ông già Tuyết sắp đến rồi. Ra đón thôi.

- Ừ - tôi đáp. - Bây giờ cha con mình dậy, đánh răng rửa mặt rồi ra đón. Ông già Tuyết đã hứa đến mà.

- Đến bằng chuyến tàu nào ạ? - Thằng lớn hỏi.

- Chuyến nào cũng được - tôi nói - ngay ở ga mình, bất cứ chuyến hào chở ông già Tuyết cũng đều sẽ dừng lại.

- Thế thì phải dậy nhanh nhanh lên!

Vâng, nghĩa là cha con tôi chuẩn bị tử tế đâu ra đó.

- Mẹ thì sao ạ? - Daul hỏi - Mẹ cũng muốn gặp ông già Tuyết chứ bố?

- Dĩ nhiên - tôi đáp - Các con gọi mẹ đi.

Cả nhà chuẩn bị xong xuôi và cùng nhau ra khỏi nhà. Hai đứa trẻ chạy trước về phía phòng trực. Vợ chồng tôi theo sau. Các cháu ngó quanh mãi vẫn chẳng thấy ông già Tuyết đâu.

- "Bá-ba" ơi, ông ta đâu?

Đôi mắt thằng Ermek, anh biết đấy, cứ chớp chớp, chớp chớp.

- Các con đừng sốt ruột - tôi nói - Để bố vào hỏi bác thường trực.

Tôi bước vào phòng. Chiều qua tôi đã giấu ở đó bức thư của ông già Tuyết và một túi quà. Lúc tôi bước ra, hai cháu hỏi:

- Thế nào hở bố?

- Đây - tôi nói - thì ra ông già Tuyết đã gửi lại cho các con lá thư này. Nó đây: "Hai cháu Daul và Ermek yêu quý của ông! Ông tới ga Boranly-Bão Tuyết lừng danh của hai cháu từ sáng sớm, lúc năm giờ. Lúc ấy các cháu còn ngủ, trời rất lạnh, và người ông vẫn lạnh toát, râu ông tết bằng các sợi tuyết mà. Tàu chỉ đỗ lại ở ga có hai phút. Ông chỉ kịp viết mấy dòng và gửi qua lại. Trong túi quà này, ông tặng cho tất cả các cháu ở Boranly mỗi cháu một quả táo và hai hạt dẻ. Các cháu đừng giận nhé, ông còn bận nhiều việc lắm. Ông đi gặp các cháu khác đây. Các cháu ấy cũng đang mong ông. Còn các cháu thì để tết sang năm ông sẽ cố đến vào giờ nào đó, sao cho ông cháu ta được gặp nhau. Bây giờ tạm biệt. Ông già Tuyết của các cháu" Hượm đã, hượm đã, ở đây còn một mảnh giấy nữa. Chữ viết vội vã, rất khó đọc. Chắc lúc ấy tàu đã chuyển bánh. Xong, bố đọc được rồi. "Cháu Daul, cháu đừng đánh con chó nhỏ của cháu nhé. Có lần ông nghe tiếng nó kêu ăng ẳng lúc bị cháu đá vào sườn nó. Nhưng sau đó ông không nghe thấy lần nào nữa. Chắc cháu đã thương nó hơn. Thế thôi. Tạm biệt". Hượm, hượm đã. Hãy còn. À, bố hiểu rồi: "Tái bút. Bà già Tuyết ở chỗ các cháu rất đạt. Cừ lắm. Ông đã bắt tay chào bà ấy".

Ồ, dĩ nhiên hai đứa mừng lắm. Bức thư của ông già Tuyết đã thuyết phục các cháu ngay lập tức. Không còn giận dỗi gì nữa. Hai đứa liền tranh cãi xem ai được xách túi quà. Mẹ các cháu góp ý:

- Mười bước đầu Daul sẽ xách, vì là anh. Sau đó, Ermek là em sẽ xách tiếp mười bước...

Edigej cười vui: "Ở địa vị các cháu, chắc tôi cũng tin chứ nói gì trẻ con..."

Nhưng buổi trưa thì chú Edigej là nhân vật nổi tiếng nhất đối với bọn trẻ. Anh tổ chức cho chúng đi xe trượt tuyết. Nhà Kazangap có một cỗ xe trượt tuyết xếp xó từ lâu. Họ thắng con lạc đà của Kazangap vào xe, một con lạc đà đã đằm tính và có dây cương tử tế. Còn con Karanar dĩ nhiên không được tín nhiệm dùng vào việc này. Cả đám leo lên xe. Ồn ào đến là vui. Edigej cầm cương, đóng vai xà ích. Bọn trẻ đeo lấy anh, đứa nào cũng muốn ngồi bên cạnh. Đứa nào cũng luôn miệng: "Phóng nhanh lên! Phóng lẹ lên, chú Edigej!". Vợ chồng Abutalip lúc đi bộ, lúc chạy bên xe, gặp đoạn xuống dốc thì ngồi ghé vào mép xe. Họ đi cách ga chừng hai cây số, tới một ngọn gò thì quành trở lại. Con lạc đà đã thở hổn hển, cần cho nó nghỉ một chút.

Ngày hôm nay thật đẹp, cả một không gian yên tĩnh màu trắng tinh khiết trùm lên khắp miền thảo nguyên Sarozek mênh mông suốt tận những nơi nằm trong tầm mắt và tầm nghe. Bốn phía trải rộng cảnh thảo nguyên bí ẩn, nhấp nhô gò đống, dưới bầu trời hửng sáng đang ấm lên một chút vào ban trưa. Làn gió nhẹ khẽ vi vu bên tai. Trên con đường sắt phía trước có một đoàn tàu dài màu đất đỏ, do hai đầu máy màu đen đấu liền vào nhau, cùng kéo; vừa kéo vừa thở ra hai ống khói. Khói lơ lửng tan rất chậm trong không khí, trông như các vòng tròn đang trôi. Gần tới cột tín hiệu, chiếc đầu máy chạy trước phát một hồi còi dài và to. Nó lặp lại hai lần để báo tin về nó. Đấy là chuyến tàu suốt, chạy băng băng qua ga, không hề giảm tốc độ, lao vun vút qua hai cột tín hiệu và qua mấy ngôi nhà bé nhỏ nằm náu mình ngay cạnh đường, mặc dù đất đai xung quanh rộng mênh mông. Rồi tất cả trở lại yên tĩnh, vắng lặng không còn sự vận động nào. Chỉ thấy trên các mái nhà phía ga lơ lửng làn khói bếp màu xám. Ai nấy im lặng. Lúc này ngay bọn trẻ thích thú vì chuyến đi cũng lắng dịu. Zaripa buột miệng thì thầm chỉ đủ để chồng nghe thấy:

- Ôi, đẹp và đáng sợ quá!

- Em nói đúng - Abutalip trả lời cũng khe khẽ.

Edigej liếc nhìn vợ chồng họ. Họ đứng đó, trông rất giống nhau. Câu nói tuy nhỏ, nhưng nghe rõ của Zaripa, khiến Edigej buồn, mặc dù đấy không phải là điều người ta nói với anh. Anh chợt hiểu Zaripa đang nhìn mấy ngôi nhà nhỏ có khói chờn vờn đằng xa với cảm giác buồn bã và sợ hãi như thế nào. Nhưng Edigej không có cách nào giúp vợ chồng họ, bởi lẽ cái xóm nhỏ nép mình bên đường sắt kia là nơi nương thân duy nhất đối với tất cả mọi người ở đây.

Edigej vút vút roi giục con lạc đà. Và chiếc xe bắt đầu chạy trở lại ga.

Tối giao thừa, tất cả mọi người ở Boranly đều tập trung ở nhà Edigej - vợ chồng anh đã quyết định như thế từ mấy ngày trước.

- Nếu vợ chồng Abutalip mới đến con tổ chức cây thông cho tất cả bọn trẻ, thì như thế tức là trời bảo nhà mình nên mới khách tới; vợ chồng mình sẽ chẳng keo kiệt.

Edigej rất mừng trước gợi ý đó. Tuy không phải tất cả mọi người đều có mặt, vì có người phải trực ngoài đường tàu, hoặc trong ga. Các chuyến tàu vẫn chạy, bất kể ngày tết hay ngày thường. Kazangap chỉ có thể dự phần đầu. Chín giờ tối bác đã phải ra chỗ bẻ ghi, ngay Edigej sáu giờ sáng mồng một Tết cũng phải trực rồi.

Ai nấy háo hức, vui vẻ, tuy họ vẫn gặp nhau hàng chục lần trong một ngày; song tối nay, ai cũng ăn diện như thể mình là khách từ phương xa tới. Ukubala chuẩn bị đủ mọi món. Khoản rượu cũng phong phú, đủ cả vốt ca, sâm banh. Ai muốn uống sữa lạc đà mùa đông cũng có; bà Bukej - vợ bác Kazangap - hay lam hay làm, giữa mùa đông vẫn vắt được sữa lạc đà như thường.

Nhưng ngày Tết chỉ là ngày hội thật sự, khi sau vài ly rượu và món nhắm đầu tiên, người ta bắt đầu hát. Đã tới lúc chủ nhà đỡ bận rộn làm món ăn, khách khứa thì bớt mất tự nhiên, có thể thong thả thưởng thức niềm vui hiếm hoi là được trò chuyện thân mật với những người ta gặp hàng ngày và biết rất rõ, nhưng vẫn tìm thấy ở họ cái mới. Bởi vì ngày hội có đặc điểm là làm thay đổi hẳn mọi người. Cũng không ít trường hợp làm thay đổi theo chiều hướng xấu. Nhưng không phải là ở đây, trong số cư dân Boranly. Sống giữa miền Sarozek nào ai dám sinh sự với mọi người... Edigej ngà ngà say. Nhưng trạng thái ấy lại rất hợp với anh. Ukubala nhắc khéo chồng:

- Đừng quên là sáu giờ sáng mai anh đã phải đi làm đấy nhé.

- Rõ, anh hiểu mà - Edigej đáp.

Edigej ngồi bên cạnh, quàng tay qua vai vợ, cất giọng hát, đôi khi không đúng nhịp, nhưng anh hát rất khỏe, thành thử tạo nên không khí rất vui. Anh đang ở trong một trạng thái tinh thần thoải mái, lý trí sáng suốt kết hợp hài hòa với tình cảm sôi nổi. Vừa hát anh vừa đắm đuối nhìn vào mặt từng người, tặng họ nụ cười tươi tắn chân thành và tin rằng ai cũng đang thoải mái như anh. Dạo ấy anh điển trai lắm - anh chàng Edigej-Bão Tuyết lông mày đen, ria đen, với cặp mắt màu hạt dẻ sáng và hàm răng trắng đều tăm tắp. Dù có óc tưởng tượng phong phú cũng khó mà hình dung anh sẽ ra sao khi về già. Anh đủ khả năng quan tâm đến hết thảy mọi người. Anh vỗ vỗ vai bà Bukej đẫy đà, tốt bụng, gọi bà là bà mẹ của ga Boranly, anh đề nghị cạn chén chúc mừng bà và, qua bà, chúc mừng toàn thể bộ tộc Karakalpak đang sinh sống đâu đó ven bờ sông Amudaria. Anh khuyên bà đừng buồn lòng về chuyện bác Kazangap phải rời bàn tiệc đi trực.

- Tôi chán ông ấy đến mang tai rồi! - Bukej vui vẻ đáp lại.

Tôi hôm ấy, Edigej gọi vợ không phải bằng cái tên gọi tắt "Uku", mà bằng cách diễn giải đầy đủ Ukubasy, nghĩa là nàng cú con. Anh tìm được những từ thân ái, hiền hậu để nói với từng người khách, ở đây anh coi tất cả mọi người như anh chị em ruột thịt, kể cả trưởng ga Abilov vốn buồn phiền vì cương vị một cán bộ đường sắt thấp kém ở vùng Sarozek, cả cô vợ mang bầu, có nước da xanh xao của anh ta tên là Saken - chị ta sắp phải đi sanh tại nhà hộ sinh ở Kumbel. Edigej thực bụng tin rằng tất cả mọi sự sẽ diễn ra đúng như vậy, rằng xung quanh anh toàn những người thân thiết, và làm sao có thể khác được kia chứ! Giữa lúc hát, chỉ cần lim dim mắt trong chốc lát cũng có thể hình dung ngay vùng thảo nguyên Sarozek mênh mông, hoang vu, phủ đầy tuyết trắng và một nhúm người tụ tập ở nhà anh như trong một gia đình. Nhưng anh mừng hơn cả cho vợ chồng Abutalip. Họ đáng được như thế. Zaripa vừa hát vừa gảy đàn măng-đô-lin, chị chuyển rất nhanh từ làn điệu này sang làn điệu khác. Giọng chị trong và cao. Abutalip hát giọng bụng thật trầm. Giọng hai vợ chồng hòa hợp với nhau đầy tình cảm, nhất là theo làn điệu Tatar, họ hát theo kiểu đối đáp, gọi là kiểu ahria-ksalmak. Mọi người hát đệm theo họ. Họ đã hát không biết mệt bao nhiêu bài cũ bài mới, càng hát càng hăng say hơn. Nghĩa là khách khứa rất thoải mái. Edigej ngồi đối diện với vợ chồng Abutalip, cứ đăm đăm nhìn họ với tâm trạng xúc động - họ phải luôn luôn như thế này - ví thử không gặp cái số phận cay đắng, cái số phận chẳng để cho họ được sống yên lành. Dạo mùa hè khủng khiếp vừa rồi, trông Zaripa cứ khô héo như một cái cây bị hỏa hoạn đốt cháy sém, mái tóc chị đỏ quạch, đôi môi nứt nẻ rớm máu và đen sạm; nhưng bây giờ chị đã khác hẳn tới mức khó nhận ra. Với cặp mắt đen long lanh, khuôn mặt cởi mở, tròn trặn kiểu châu Á, trông chị hôm nay thật xinh đẹp. Hai hàng lông mày gọn gàng, luôn xê dịch, bộc lộ rất rõ tâm trạng của chị: nó cùng hát với chị, khi nhướn lên, lúc nhíu lại, khi giãn rộng như muốn bay theo tiếng hát trầm bổng. Với một cảm xúc đặc biệt nhấn mạnh ý từng lời, Abutalip lặp lại câu hát của vợ, người anh đong đã đong đưa:

Dấu ấn mối tình đã qua

Hằn in mãi trong ký ức

Như vết đai bên hông ngựa...

Các ngón tay của Zaripa thoăn thoắt gảy đàn, bắt tiếng nhạc phải réo rắt và rên rỉ trong nhóm người đang quây quần giữa buổi tối giao thừa. Zaripa bơi trong tiếng hát, và Edigej tưởng chừng chị ở đâu đó xa xa, chị chạy, chị thở nhẹ nhàng, trên mặt tuyết thảo nguyên, mình mặc chiếc áo len đan màu tím, cổ áo màu trắng, với cây đàn măng-đô-lin réo rắt, và bóng tối giãn ra xung quanh. Chị xa dần, rồi mất hút trong sương mù, chỉ còn nghe văng vẳng tiếng đàn, nhưng vì nhớ rằng ở ga Boranly mọi người sẽ khổ sở nếu thiếu chị, cho nên chị bèn quay trở lại và ngồi hát bên bàn...

Sau đó, Abutalip giới thiệu cách nhảy múa ở đội du kích Nam Tư: người ta đặt tay lên vai nhau và đưa chân qua lại theo nhịp như thế nào. Zaripa gảy đàn, con Abutalip cất giọng hát một bài hát vui của miền Serbi, thế là mọi người xếp thành vòng tròn, đặt tay lên vai nhau và vừa nhảy vừa hô: "Ôplia, Ôplia".

Sau đó họ còn hát và cụng ly chúc mừng năm mới. Có người ra về, có người mới đến... Hai vợ chồng Abilov xin rút lui từ trước lúc nhảy múa. Đã quá giao thừa khá lâu.

Zaripa bước ra ngoài sân thở không khí trong lành. Abutalip theo sau. Ukubala bắt tất cả mọi người phải mặc áo ấm để khỏi bị cảm lạnh. Vợ chồng Abutalip khá lâu chưa thấy trở vào nhà. Edigej quyết định đi tìm họ, vì thiếu họ thì mất cả vui. Ukubala gọi với theo chồng:

- Mặc áo khoác vào, anh Edigej, ai lại phong phanh như thế mà ra ngoài trời!

- Anh vào ngay thôi! - Edigej bước qua ngưỡng cửa. Ngoài trời sáng sủa và rất lạnh. Anh nhìn quanh và gọi: - Abutalip, Zaripa!

Không ai trả lời. Sau nhà có tiếng người. Edigej lưỡng lự dừng lại, không biết nên bước lui hay tiến về phía đó, bảo vợ chồng họ vào nhà. Hình như có chuyện gì xảy ra giữa vợ chồng họ.

- Em không muốn để anh nhìn thấy - Zaripa sụt sịt. - Xin lỗi anh. Đấy chẳng qua chỉ là do em buồn quá. Hãy tha lỗi cho em.

- Anh hiểu - Abutalip an ủi vợ - Anh hiểu. Nhưng vấn đề không phải tại anh, nếu anh chính là một người như thế này. Giá như điều đó chỉ liên quan tới một mình anh. Tiếc thay cuộc đời mỗi người dài ngắn khác nhau. Cũng có thể không nên tuyệt vọng bám lấy nó như vậy - cả hai cùng im lặng. Sau đó Abutalip nói: - Các con chúng ta sẽ được giải thoát... Tất cả hi vọng là ở đấy...

Chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện thế nào, Edigej rón rén bước lui, vai so lại vì lạnh. Lúc anh bước vào nhà, anh có cảm tưởng rằng mọi thứ đều trở nên mờ nhạt và ngày Tết đã chấm dứt. Tết thì tết, chứ đã đến lúc chia tay ai về nhà nấy.

Ngày 5 tháng giêng năm 1953, hồi mười giờ sáng, có một chuyến tàu khách đỗ lại ở ga Boranly-Bão Tuyết, mặc dù mọi con đường phía trước đều thông suốt và nó có thể lao qua vùn vụt như mọi khi. Chuyến tàu chỉ đỗ chừng một phút rưỡi. Nhưng rõ ràng khoảng thời gian ấy, cũng quá đủ. Ba người - cả ba đều đi ủng da màu đen đồng kiểu - từ trên bậc toa bước xuống ga, tiến thẳng tới phòng trực. Họ đi lặng lẽ và tự tin, không hề nhìn quanh, chỉ dừng chân giây lát cạnh bà già tuyết. Họ lặng thinh nhìn dòng chữ chúc mừng năm mới trên mảnh ván, ngó chiếc mũ lông cổ lỗ sĩ - chiếc mũ quá tàng của bác Kazangap, chụp trên đầu bà già Tuyết. Rồi họ bước vào phòng trực.

Một lát sau, trưởng ga Abilov từ trong đó chạy vọt ra, suýt vấp phải bà già Tuyết. Anh ta văng tục, vội đi tiếp gần như chạy, một điều chưa hề thấy ở anh ta. Khoảng mười phút sau anh ta đã trở lại, dẫn theo Abutalip Kuttybaev đang làm việc bị cấp tốc gọi về. Abutalip trông nhợt nhạt, một tay cầm mũ. Anh cùng Abilov bước vào phòng trực. Nhưng chỉ vài phút sau anh đã từ trong đó đi ra, có hai người đi ủng da mới đến kèm hai bên, và cả ba tiến về phía dãy lán có căn nhà của vợ chồng anh. Từ đấy chẳng mấy chốc họ đã quay trở lại, vẫn bị hai người nọ kèm hai bên, đem theo một số giấy tờ gì đó lấy ở nhà anh.

Sau đấy tất cả yên tĩnh hẳn. Không ai đi ra đi vào phòng trực nữa.

Edigej biết chuyện xảy ra qua Ukubala. Abilov sai chị chạy tới cây số thứ tư, nơi đang tiến hành việc sửa đường. Chị gọi riêng chồng ra một chỗ:

- Abutalip đang bị hỏi cung.

- Ai hỏi cung?

- Em không biết. Có mấy người mới đến. Abilov bảo em nói với anh rằng nếu họ không căn vặn, thì đừng khai rằng đêm Giao thừa đã cùng ngồi ăn uống với vợ chồng nhà Abutalip.

- Tại sao thế?

- Em không biết. Abilov nhờ em dặn anh như vậy. Và bảo hai giờ chiều nay anh phải có mặt ở phòng trực. Người ta cũng muốn hỏi anh điều gì đấy về Abutalip.

- Hỏi điều gì?

- Làm sao em biết được. Abilov hớt hải chạy đến bảo như thế. Em liền chạy tới đây luôn.

Không dặn thì hai giờ chiều Edigej cũng về nhà ăn bữa trưa. Dọc đường và lúc ở nhà, anh cố nghĩ xem có chuyện gì xảy ra, nhưng không sao hiểu nổi. Chẳng lẽ lại vì chuyện quá khứ, chuyện bị địch bắt làm tù binh? Thì người ta đã thẩm tra xong từ lâu rồi kia mà? Còn chuyện quái gì nữa? Lòng dạ anh bồn chồn. Anh chỉ húp hai muỗng súp rồi gạt chén sang một bên. Anh xem đồng hồ. Hai giờ thiếu năm phút. Bảo hai giờ đến thì đến. Anh bước ra khỏi nhà. Abilov đang đi đi lại lại trước cửa phòng trực, vẻ mặt rầu rĩ, bối rối, thảm hại.

- Có chuyện gì thế?

- Tai họa, tai họa, anh Edigej ạ - Abilov vừa nói vừa rụt rè ngó vào cửa phòng trực. Môi anh ta run run.

- Abutalip bị bắt rồi.

- Bị bắt vì tội gì?

- Người ta tìm thấy ở nhà anh ta những quyển vở ghi chép gì đó. Tối nào anh ta cũng ngồi viết mà. Ai chẳng biết chuyện ấy. Giờ thì hết viết.

- Anh ấy viết cho con anh ấy đấy chứ.

- Tôi không biết, viết cho ai không biết. Tôi chả biết gì hết. Anh vào đi, họ đang đợi anh đấy.

Trong căn phòng nhỏ của trưởng ga gọi là phòng làm việc, có một người trạc tuổi Edigej hoặc trẻ hơn đôi chút, khoảng ba mươi, đầu to, vạm vỡ, tóc húi cua, đang chờ anh. Cái mũi bự thịt, hai cánh mũi to lấm tấm mồ hôi vì suy nghĩ căng thẳng - y đang đọc cái gì đó. Y dùng khăn tay lau mũi, cái trán cao nhăn lại. Sau đó, suốt thời gian hai người nói chuyện, chốc chốc y lại lau cái mũi cứ liên tục đổ mồ hôi. Y rút từ bao thuốc lá "Kazbek" đặt trên bàn ra một điếu thuốc dài, xoay xoay tròn, châm lửa, đoạn ngước cặp mắt hơi vàng vàng, trong như mắt cú vọ, nhìn Edigej đứng ngoài cửa, nói cộc lốc:

- Ngồi xuống.

Edigej ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước bàn,

- Đây, để khỏi có bất cứ sự nghi ngờ nào - gã nói và rút từ túi ngực chiếc áo kiten dân sự ra một tấm thẻ màu nâu gập đôi nào đó, giở ra, đoạn gập ngay lại, miệng lẩm bẩm nghe chẳng rõ "Tanxykbaev" hay là "Tysykbaev" - bởi vậy Edigej không nhớ tên thật của gã là gì.

- Rõ chưa? - gã mắt cú vọ hỏi.

- Rõ - Edigej buộc phải trả lời.

- Nếu vậy thì ta bắt đầu vào việc. Nghe nói anh là bạn thân nhất của Abutalip thì phải?

- Có thể lắm, nếu phải thì sao?

- Có thể lắm - gã mắt cú vọ nhắc lại, rít thuốc lá và như muốn làm sáng tỏ điều vừa được nghe - Có thể lắm. Cứ coi như vậy. Rõ - Đột nhiên gã cười khẩy, cặp mắt trong như thủy tinh chợt ánh lên thích thú:

- Thế nào, anh bạn thân mến, ta viết chứ?

- Viết cái gì? - Edigej bối rối.

- Cái tôi muốn biết.

- Tôi chưa hiểu có chuyện gì.

- Vậy ư? Thì anh thử nghĩ xem!

- Tôi chưa hiểu chuyện gì hết.

- Thế Abutalip viết cái gì?

- Tôi không biết.

- Sao lại không biết? Mọi người đều biết, mà anh lại không biết a?

- Tôi biết rằng anh ấy có viết cái gì đó. Còn cụ thể viết cái gì thì làm sao tôi biết được. Việc gì đến tôi nào? Ai muốn viết gì thì viết, can gì đến ai?

- Sao lại không can gì đến ai? - gã mắt cú vọ kinh ngạc, hướng hai con ngươi nhọn như hai viên đạn về phía Edigej - Nghĩa là ai muốn viết gì thì viết hả? Abutalip đã thuyết phục anh như vậy hả?

- Anh ấy chả thuyết phục gì tôi.

Nhưng gã cú vọ không để ý đến câu trả lời của Edigej. Gã có vẻ tức giận:

- Đấy, tuyên truyền của địch tác hại thế đấy! Anh có nghĩ rằng sự thể sẽ ra sao, nếu anh quái nào cũng bắt đầu viết viết lách lách hay không? Anh có nghĩ sự thể sẽ ra sao không? Rồi sau đó bất cứ người nào cũng phun ra tất cả những gì họ nghĩ! Có đúng thế không nào? Vì sao anh có những tư tưởng xa lạ ấy? Không, anh bạn thân mến ơi, chúng tôi không cho phép đâu. Thứ phản cách mạng ấy không yên được đâu!

Edigej im lặng, đầu óc mụ đi vì những lời lẽ dội vào tai anh. Và anh rất lấy làm lạ là xung quanh không có gì thay đổi. Tựa hồ chẳng có chuyện gì xảy ra. Qua cửa sổ, anh thấy chuyến tàu Taskent vút qua và anh tưởng tượng trong giây lát: trên các toa tàu, hành khách đang ngồi uống trà hoặc uống rượu, họ trò chuyện với nhau, và chẳng ai biết rằng lúc ấy, ở dưới ga Boranly-Bão Tuyết, anh đang ngồi trước mặt cái gã mắt cú vọ chẳng hiểu từ đâu đột ngột mò tới đây. Anh cảm thấy đau rát trong ngực, chỉ muốn nhảy vọt ra khỏi phòng trực, đuổi kịp chuyến tàu vừa chạy qua và nhảy lên đó, đi tới đâu cũng được, miễn sao thoát khỏi nơi này.

- Sao? Anh đã hiểu thực chất vấn đề chưa? - gã mắt cú vọ nói tiếp.

- Hiểu, hiểu - Edigej đáp - Có điều tôi muốn biết một việc. Đấy là Abutalip muốn ghi lại hồi ký cho các con của anh ấy. Chẳng hạn tả lại những gì đã xảy ra với anh ấy và xảy ra như thế hào ở ngoài mặt trận, ở trại tù binh, ở đội du kích. Cái đó có gì là xấu?

- Viết cho các con! - gã kia kêu lên - Ai tin cơ chứ! Có ai viết hồi ký cho những đứa con mới ba tuổi ranh nào? Nghe cứ như chuyện cổ tích vậy! Kẻ thù khôn ngoan hành động gớm thế đấy! Lẩn vào một vùng hoang vắng, nơi chẳng có ai và chẳng có gì ở xung quanh, khỏi bị ai theo dõi, để ngồi viết hồi ký.

- Ồ, thì có người thích như vậy - Edigej phản đối - Chắc Abutalip muốn nói ý kiến riêng của mình, muốn có một cái gì đấy của mình, ghi lại ý nghĩ nào đó của mình để sau này hai đứa con anh ấy lớn lên sẽ đọc.

- Ý kiến riêng là cái quái gì! - gã mắt cú vọ thở dài, lắc đầu trách cứ - Ý kiến riêng với chả ý nghĩ riêng là cái quái gì? Là quan điểm riêng chăng? Là quan điểm đặc biệt chăng? Không được phép có cái thứ ý kiến riêng nào hết. Tất cả những gì viết ra giấy đều đã không còn là ý kiến riêng. Đã viết rồi thì không xóa đi được. Lại còn chuyện anh đếch nào cũng phát biểu ý kiến của mình nữa chứ! Sẽ rắc rối vô cùng. Xem đây, cái gọi là các "Cuốn vở du kích" của hắn ta, đây, cuốn này, nhan đề "Những ngày đêm ở Nam Tư", thế đó! - Gã ném xuống bàn ba cuốn vở dày, bìa bằng vải sơn. - Không ra thể thống gì hết! Vậy mà ở đây anh còn bênh vực bạn anh. Chúng tôi đã vạch mặt hắn!

- Anh ấy có tội gì?

Gã kia cựa quậy trên ghế và lại đột nhiên cười khẩy với cảm giác thích thú tận hưởng nỗi đau khổ của người khác, cặp mắt cú vọ trong suốt của gã nhìn không hề chớp.

- Cái đó thì anh cho phép riêng chúng tôi được biết hắn mắc tội gì - Gã dằn từng tiếng và say sưa với hiệu quả được tạo ra - Đấy là việc của chúng tôi. Không phải với ai, tôi cũng báo cáo.

- Nếu thế thì thôi vậy, - Edigej lúng túng nói.

- Những hồi ức thù địch của hắn sẽ không xong đối với hắn đâu - gã mắt cú vọ nhận xét và cúi viết điều gì đó rất nhanh, miệng nói: Tôi tưởng anh thông minh, tưởng anh là người của chúng ta. Một công nhân tiên tiến. Đã từng ở bộ đội. Anh sẽ giúp chúng tôi vạch mặt kẻ thù.

Edigej buồn bã nói nhỏ, nhưng rành rọt, bằng một giọng không để ai ngờ vực:

- Tôi sẽ không ký vào cái gì hết. Tôi nói trước như thế cho anh biết.

Gã kia quắc mắt nhìn anh:

- Chúng tôi cũng chả cần chữ ký của anh. Anh tưởng nếu anh không ký, thì vụ này sẽ yên chắc? Lầm rồi. Chúng tôi đủ tài liệu để quy tội cho hắn, dù không có chữ ký của anh.

Edigej im lặng, cảm thấy trống trải và bị miệt thị ghê gớm. Đồng thời dâng lên trong lòng anh, như sóng trên biển Aral, sự tức giận, sự phẫn uất trước những gì đang xảy ra. Anh bỗng muốn bóp chết gã mặt cú vọ này như bóp chết một con chó điên, và anh biết rằng mình đủ sức làm việc đó. Anh đã từng tự tay bóp chết một tên phát xít có cái cổ gân guốc hơn thế nhiều. Không còn cách nào khác. Lúc ấy anh đã chạm trán bất ngờ với hắn dưới chiến hào, khi đơn vị anh đã đánh bật địch khỏi vị trí phòng ngự. Từ bên sườn, các anh tiếp cận, ném lựu đạn vào chiến hào, quét tiểu liên vào các ngõ ngách, và đã triển khai đội hình tiếp tục tiến lên phía trước, thì đột nhiên anh và hắn vấp phải nhau. Hẳn đây là tên lính bắn súng máy ở phía trước công sự đã bị hết đạn. Bắt sống nó thì hơn. Ý nghĩ ấy thoáng hiện trong óc Edigej. Nhưng hắn đã kịp vung dao trên đầu anh. Edigej đẩy cái mũ sắt vào mặt hắn và cả hai cùng ngã chổng kềnh. Không còn cách nào nữa, anh đành chụp lấy cổ họng hắn. Còn hắn oằn người, rên khò khè, các ngón tay cào cào hai bên, cố lần tìm con dao bị văng khỏi tay. Và mỗi giây, Edigej đều chờ con dao cắm phập vào lưng anh, cho nên bằng một nỗ lực ghê gớm của loài thú, chớ không phải của con người, anh nghiến răng bóp, siết thật chặt cái cổ gân guốc của tên giặc đang tím tái dần. Và khi hắn hộc lên tiếng cuối cùng, vọt cả nước đái, anh mới buông các ngón tay run bần bật ra. Lập tức anh nôn ọe, phải bò ra chỗ khác, vừa bò vừa rên rỉ, mắt hoa lên. Hôm ấy cũng như về sau, anh không hề kể việc đó với bất cứ ai. Thỉnh thoảng anh vẫn nằm mê thấy nó, và sáng hôm sau thức dậy, anh lại bần thần, không thiết sống nữa... Lúc này Edigej nhớ lại vụ đó với cảm giác ghê tởm. Tuy nhiên anh nhận thức rằng gã mắt cú vọ hơn anh về mặt khôn ngoan và thông minh. Cái đó chạm đến chỗ yếu của anh. Trong lúc gã kia viết, Edigej thử tìm cái sai trong lập luận của gã. Qua lời gã nói, có một ý kiến khiến Edigej ngạc nhiên về sự vô lý của nó: sao lại có thể buộc tội một người về những "hồi ức thù địch"? Chẳng lẽ các hồi ức của người ta lại có thể là thù địch hay không thù địch, bởi vì hồi ức là nhớ lại cái đã từng xảy ra trong quá khứ, là cái bây giờ không có, là cái đã qua rồi. Nghĩa là người ta nhớ lại chuyện cũ đã xảy ra như thế nào.

- Tôi muốn biết - Edigej nói và cảm thấy cổ họng nghẹn lại vì xúc động. Nhưng anh bắt mình phải nói thật bình tĩnh, hết sức bình tĩnh - Cậu vừa mới bảo rằng... - Anh cố tình gọi gã bằng "cậu", để gã hiểu là Edigej này chẳng làm gì phải khúm núm sợ sệt, chẳng còn chỗ nào xa hơn vùng Sarozek này để mà đuổi anh tới - Cậu vừa bảo rằng, anh nhắc lại - có các hồi ức thù địch. Nên hiểu như thế nào đây? Lẽ nào các hồi ức lại có thể là thù địch hay không thù địch? Theo tôi, người ta nhớ lại chuyện đã qua và qua như thế nào, chứ chuyện ấy từ lâu không còn nữa. Hay là nếu cái gì tốt thì hãy nhớ lại, con cái gì xấu, không hợp nữa, thì cấm nhớ lại, phải quên đi chăng? Hình như chưa bao giờ có chuyện đó. Hay là nếu nằm mơ lành mới được nhớ lại, con nằm mơ dữ, không vừa ý ai đó, thì cấm đoán?...

- Ái chà chà! Hừm, quái quỷ chưa! - gã mắt cú vọ ngạc nhiên - Anh muốn lý luận, muốn tranh luận kia đấy. Đúng là một triết gia ở địa phương. Nào thì tranh luận - Gã ngừng lời. Và như để đo ướm, gã tiếp: - Trong cuộc sống, mọi chuyện đều có thể trở thành một sự kiện lịch sử. Nhưng thiếu gì chuyện đã xảy ra và xảy ra theo một kiểu cách nào đấy. Điều quan trọng là nhớ lại, vẽ lại quá khứ bằng lời nói, nhất là bằng chữ viết cho phù hợp với yêu cầu bây giờ, đúng như chúng ta đang cần. Còn tất cả những gì không có lợi cho ta, thì không nên nhớ lại. Nếu anh không theo đúng cái đó, tức là anh có hành động thù địch.

- Tôi không đồng ý - Edigej nói - Không thể như vậy được.

- Chẳng ai cần đến sự đồng ý của anh. Đấy là nhân tiện tôi nói vậy thôi. Anh hỏi, nên tôi vui lòng giảng cho anh nghe. Còn nói chung, tôi không có trách nhiệm bàn luận với anh những chuyện như thế này. Thôi được, ta hãy chuyển từ lời nói sang việc làm. Anh nói đi, có lần nào Abutalip, ví dụ trong lúc chuyện trò tâm sự, lúc uống rượu chẳng hạn, có lần nào hắn nhắc đến những cái tên của bọn Anh hay không?

- Nhắc đến để làm gì mới được chứ? - Edigej thành thực ngạc nhiên.

- Để làm gì à? Đây - Gã mở một trong số các "cuốn vở du kích" của Abutalip và đọc đoạn được gạch dưới bằng bút chì đỏ: "Ngày 27 tháng chín, một phái đoàn Anh gồm một đại tá và hai thiếu tá, đến thăm đơn vị chúng tôi. Chúng tôi đi diễu binh trước mặt họ. Họ chào mừng chúng tôi. Sau đó có bữa ăn trưa ở căn lều bạt của ban chỉ huy. Mấy người du kích nước ngoài chúng tôi trong hàng ngũ những chiến sĩ Nam Tư cũng được mời tới dự. Khi chỉ huy giới thiệu tôi với vị đại tá, ông ta bắt tay tôi rất lịch thiệp và thông qua phiên dịch cứ hỏi tôi rất kỹ về việc tôi từ đâu tới đây và tới bằng cách nào. Tôi kể vắn tắt. Họ rót rượu mời tôi, và tôi cạn chén với họ. Sau đó mọi người trò chuyện hồi lâu. Tôi thấy thích những người Anh giản dị và chân thành. Vị đại tá nói rằng sự may mắn vĩ đại, hay cách nói của ông ta, thiên mệnh đã giúp chúng tôi, các nước châu Âu cùng hợp lực chống bọn phát xít. Thiếu sự hợp lực ấy, cuộc chiến đấu chống Hitler hẳn sẽ gay go hơn và rất có thể sẽ chịu kết cục bi thảm đối với các dân tộc lẻ loi" vân vân... - Đọc đoạn trích xong, gã mắt cú vọ đặt cuốn vở sang một bên. Gã châm thêm một điếu thuốc Kazbek, im lặng nhả khói, rồi tiếp: - Vậy ra Abutalip không hề phản đối lão đại tá Anh, rằng thiếu thiên tài của Stalin thì không thể chiến thắng, dù bọn họ có nỗ lực đánh du kích đến mấy ở châu Âu, hoặc có làm gì đi nữa. Nghĩa là hắn không hề nghĩ đến Stalin. Anh hiểu rồi chứ?

- Rất có thể anh ấy cũng đã nói như thế - Edigej cố bênh vực Ahutalip - nhưng quên không viết đó thôi.

- Không thấy viết ở chỗ nào, tức là không có bằng chứng! Hơn nữa, chúng tôi đã đối chiếu với lời khai của Abutalip năm bốn mươi lăm trước ban kiểm tra, khi hắn từ binh đoàn du kích Nam Tư trở về. Hồi ấy, hắn không hề nhắc đến vụ phái đoàn Anh. Nghĩa là ở đây có điều gì mờ ám. Ai dám bảo đảm hắn không dính líu tới cơ quan tình báo Anh?

Edigej lại cảm thấy nặng nề và đau đớn. Anh vẫn chưa hiểu thế này là thế nào và gã mắt cú vọ định lái câu chuyện tới đâu.

- Abutalip có nói gì với anh không, anh cố nhớ xem, hắn có nhắc đến tên người Anh nào không? Chúng tôi cần biết họ tên các sĩ quan trong phái đoàn Anh ấy.

- Thế tên của họ thường là gì?

- John, Clark, Smid, Jek... Chẳng hạn...

- Từ bé đến giờ tôi chưa nghe thấy lần nào.

Gã mắt cú vọ có vẻ ngẫm nghĩ, mặt sa sầm, tức là không phải mọi chi tiết trong cuộc gặp Edigej đều khiến gã vừa lòng. Sau đó gã nói giọng ngọt xớt:

- Hắn mở trường dạy trẻ em học ở đây phải không?

- Trường với lớp nỗi gì! - Edigej bất giác phì cười - Anh ấy có hai đứa con trai. Tôi có hai đứa con gái. Trường lớp đấy. Hai đứa lớn lên năm, hai đứa nhỏ lên ba. Con cái chúng tôi chả biết đi đâu, bốn phía là thảo nguyên hoang vu. Vợ chồng anh ấy dạy dỗ bảo ban các cháu. Dầu sao ngày trước cả hai vợ chồng anh ấy đều là giáo viên. Họ dạy bốn đứa trẻ các phép tính, dạy cách viết, họ đọc sách, vẽ hình cho bọn trẻ học. Trường lớp đấy!

- Vợ chồng hắn đã hát những bài gì?

- Nhiều bài. Những bài hát thiếu nhi. Tôi không nhớ.

- Thế vợ chồng hắn dạy bọn trẻ cái gì? Viết những cái gì?

- Viết những chữ cái. Và những chữ thông thường.

- Ví dụ như những chữ gì?

- Chữ gì! Tôi chả nhớ.

- Đây này! - Gã mắt cú vọ tìm thấy trong mớ giấy mấy tờ xé ra từ vở học sinh có những chữ viết run rẩy, nguệch ngoạc của trẻ con "Nhà em" - Đó, anh thấy chưa, những chữ đầu tiên mà đứa bé viết lại là "Nhà em". Tại sao lại không dạy chúng nó viết chữ "chiến thắng của chúng ta"? Bởi vì tiếng đầu tiên ở cửa miệng mọi người bây giờ phải là tiếng gì, anh thử nghĩ xem nào? Phải là "chiến thắng của chúng ta". Đúng chưa? Tại sao hắn lại không nghĩ đến điều đó? Chiến thắng và Stalin không tách rời nhau.

Edigej chán ngán, cảm thấy bị miệt thị bởi tất cả những chuyện đó và anh xót thương cho vợ chồng Abutalip đã dành ngần ấy sức lực và thời gian dạy dỗ mấy đứa trẻ thơ dại. Anh