← Quay lại trang sách

Chương 9

Trên Thái Bình Dương, phía Nam quần đảo Aleut, trời đã ngả về chiều. Biển vẫn động, nhưng không dữ dội lắm. Những đợt sóng bạc đầu ngầu bọt, hết đợt này tới đợt khác xô đẩy nhau, lăn đi, chạy dài trên khắp mặt biển mênh mông, từ chân trời nọ đến chân trời kia - một thứ chuyển động duy nhất của biển khơi mà mắt nhìn thấy được - Tàu sân bay "Convention" khẽ đong đưa trên mặt sóng. Nó vẫn đậu tại chỗ cũ, cách San Francisco và Vlapostok theo đường chim bay những khoảng cách bằng nhau. Tàu sân bay đang tiến hành chương trình nghiên cứu khoa học quốc tế, mọi hoạt động tại đây vẫn ở trong tình trạng căng thẳng, sẵn sàng hành động bất cứ lúc nào.

Mãi đến lúc này, phiên họp bất thường của hai tiểu ban đặc mệnh toàn quyền, được lập ra để xem xét tình hình khẩn cấp, khác thường, do việc phát hiện được một nền văn minh ngoài trái đất, tại hệ thống thiên thể Chủ Nhân, mới kết thúc. Hai phi công vũ trụ song đôi 2-1 và 1-2 đã tự tiện rời vị trí, bỏ đi cùng với những vị sứ giả của hành tinh Ngực Rừng lúc này vẫn còn phải lưu lại trên đó. Họ đã bị Trung tâm điều khiển cảnh báo ba lần, thông qua hệ thống liên lạc vô tuyến trên trạm quỹ đạo "Paritet", là dù thế nào đi nữa, cũng không được tiến hành bất cứ hoạt động nào, làm bất kỳ việc gì trước khi nhận được những chỉ thị đặc biệt của Trung tâm điều khiển gởi lên.

Những yêu cầu nghiêm ngặt đó, trên thực tế chẳng những chứng tỏ tâm trạng hoang mang của Trung tâm điều khiển mà còn cho thấy rõ sự phức tạp ghê gớm và sự gay gắt ngoài sức tưởng tượng của tình huống trước mắt cùng sự bất đồng ý kiến sâu sắc giữa hai phía, vốn đang có nguy cơ làm gián đoạn hoàn toàn sự hợp tác; hơn nữa, còn có thể dẫn đến sự đối đầu công khai của hai bên. Cái mà mới đây đã làm cho hai bên nhích lại gần nhau nhằm phục vụ sức mạnh hùng hậu về khoa học - kỹ thuật của hai cường quốc chủ chốt nhờ được liên kết lại là chương trình "Demiurge"; thì giờ đây, tự thân nó đã lùi xuống hàng thứ yếu và lập tức mất đi ý nghĩa to tát vốn có, khi phải đứng trước một siêu vấn đề vừa đột ngột nảy sinh do việc phát hiện được một nền văn minh ngoài Trái Đất. Các thành viên trong hai ủy ban đều hiểu rõ rằng: phát minh phi thường, không gì sánh kịp này sẽ thử thách một cách căn bản đích thân những nền tảng, vốn là chỗ dựa cho hợp tác quốc tế hiện thời, cùng hết thảy những gì đã được cổ vũ, được nhen nhúm, được hình thành trong ý thức của các thế hệ suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác - nghĩa là toàn bộ những quy tắc tồn tại của nó xưa nay. Liệu ai đó có dám liều lĩnh dấn bước, bất chấp những nguyên tắc, những luật lệ về sự an ninh toàn cầu của nền hòa bình trên Trái Đất?

Và cũng như bao giờ, khi lịch sử phải đứng trước những thời điểm khủng hoảng; giờ đây, những mâu thuẫn cơ bản của hai hệ thống xã hội - chính trị khác nhau trên Trái Đất lại bộc lộ rõ chân tướng toàn bộ sức mạnh của chúng.

Việc thảo luận vấn đề cốt tử ấy đã làm nảy sinh một loạt các cuộc tranh cãi gay gắt. Sự khác nhau về quan điểm, về cách tiếp cận vấn đề ngày càng bộc lộ rõ hai lập trường không thể dung hòa nhau, Tình thế ấy nhanh chóng chuyển thành những xung đột, những lời dọa dẫm lẫn nhau; những xung khắc mà nếu không biết tự kiềm chế, tất sẽ dễ dàng dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới. Bởi vậy, cả hai bên đều cố tránh những hành động cực đoan khả dĩ đưa đến hiểm họa đó. Nhưng nhân tố giữ vai trò kềm hãm lớn hơn cả chính là nỗi e ngại, đúng hơn là nỗi lo sợ một sự bùng nổ ý thức trên hành tinh, vốn có cơ xảy ra một cách tự phát, nếu tin tức về việc phát hiện được một nền văn minh ngoài Trái Đất trở thành một sự kiện công khai, ai nấy đều biết rõ... Không một ai dám bảo đảm rằng hiện tình sẽ không dẫn đến những hậu quả ghê gớm như vậy.

Rốt cục, lý trí đã thắng. Hai bên đã đi đến một giải pháp nhân nhượng, dung hòa - tuy miễn cưỡng nhưng vẫn nghiêm chỉnh dựa trên cơ sở duy trì thế cân bằng lực lượng của đôi bên. Do vậy, Trung tâm điều khiển đã truyền lên trạm quỹ đạo "Paritet" một bức điện bằng mật mã, nội dung như sau:

"Gửi phi công vũ trụ - kiểm tra 1-2 và 2-1. Nhất thiết phải tiến hành liên lạc bằng vô tuyến, thông qua các hệ thống thông tin đặt trong "Paritet", với hai phi công vũ trụ 1-2 và 2-1 hiện đang lưu lại tại một Thiên Hà ngoài hệ Mặt Trời, trên hành tinh Ngực Rừng quay quanh thiên thể có tên là Chủ Nhân. Phải thông báo cấp tốc cho cả hai, rằng Trung tâm điều khiển căn cứ vào những kết luận của ủy ban song phương, sau khi nghiên cứu những thông tin về nền văn minh ngoài Trái Đất mà hai phi công vũ trụ song đôi 1-2 và 2-1 phát hiện được, đã thông qua quyết định cuối cùng, không cho phép kháng nghị, sau đây:

a. Nghiêm cấm hai cựu phi công vũ trụ 1-2 và 2-1 trở về lại trạm quỹ đạo "Paritet" và do đó, cả về Trái Đất nữa, vì cả hai đều không còn là những thành viên thỏa đáng của nền văn minh trên Trái Đất;

b. Báo cho cư dân trên hành tinh Ngực Rừng rằng, chúng ta cự tuyệt tiếp xúc với họ, dưới bất cứ hình thức nào, vì những cuộc tiếp xúc đó hoàn toàn trái ngược với kinh nghiệm lịch sử, với những lợi ích sống còn và những đặc điểm trong giai đoạn phát triển hiện thời của xã hội loài người trên Trái Đất;

c. Báo trước cho hai cựu phi công vũ trụ 1-2 và 2-1, cũng như những người trên hành tinh mà họ đang tiếp xúc, để họ đừng hòng mưu toan thông qua việc liên lạc với con người trên Trái Đất, mà thâm nhập vào các vùng không gian gần Trái Đất như họ đã từng làm, khi ghé thăm trạm "Paritet" đang bay trên quỹ đạo "Tramplin";

d. Để cô lập phần không gian quanh Trái Đất, nhằm ngăn chặn mọi sự xâm nhập có thể xảy ra của các phi thuyền xuất phát từ mọi thiên thể khác, Trung tâm điều khiển quyết định khẩn cấp đưa vào hoạt động một chế độ du hành vũ trụ đặc biệt có tên là chiến dịch "Vành đai"; giao cho hàng loạt hỏa tiễn - rôbôt một chương trình hoạt động thường trực: phong tỏa những quỹ đạo đã dự tính, bằng cách sử dụng các loại vũ khí laser-hạt nhân tự động để tiêu diệt bất cứ đối tượng lạ nào lăm le tiếp cận Trái Đất;

e. Thông báo cho hai cựu phi công vũ trụ đã tự tiện tiến hành tiếp xúc với giống người trên hành tinh khác biết, rằng để giữ gìn an ninh và duy trì trạng thái ổn định của cơ cấu địa lý - chính trị đã hình thành trên Trái Đất, chúng ta loại bỏ mọi khả năng bắt liên lạc với họ. Tiếp đó, sẽ cho thi hành mọi biện pháp để giới hạn biến cố vừa xảy ra trong vòng tuyệt mật và bằng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn việc tái tiếp xúc với hành tinh nói trên. Do đó, quỹ đạo của trạm "Paritet" sẽ lập tức bị thay đổi và những đường kênh liên lạc trên trạm cũng sẽ được mã hóa bằng một khóa khác trước;

g. Cảnh báo một lần nữa với người trên hành tinh Ngực Rừng rằng, họ sẽ gặp nguy hiểm, nếu họ còn nuôi ý định đến gần các khu vực của "Vành đai" bao quanh bầu khí quyển Trái Đất chúng ta.

Trung tâm điều khiển tàu sân bay "Convention".

Nhằm thi hành các biện pháp bảo vệ đó, Trung tâm điều khiển buộc phải đình chỉ vô thời hạn toàn bộ chương trình chinh phục hành tinh X là "Demiurge". Trạm quỹ đạo "Paritet" phải đổi lại các thông số bay và sẽ được sử dụng làm đài quan sát vũ trụ lâm thời. Tàu nghiên cứu khoa học song đôi "Convention" được quyết định chuyển giao cho nước Phần Lan trung lập bảo quản. Sau khi hệ thống "Vành đai" được phóng lên vũ trụ, toàn bộ thủy thủ đoàn, nhân viên quản lý, cán bộ khoa học, cùng nhân viên giúp việc của cả hai bên đều lập tức bị giải thể. Họ buộc phải cam kết tuyệt đối không tiết lộ cho bất kỳ ai, từ nay cho đến lúc xuống mồ, những nguyên do dẫn đến việc đình chỉ hoạt động của Trung tâm điều khiển.

Người ta dự tính sẽ công bố rằng chương trình "Demiurge" sở dĩ phải đình chỉ vô thời hạn vì đang cần tái điều tra cơ bản và điều chỉnh các số liệu, các phương án chinh phục hành tinh X.

Mọi chuyện đều đã được trù tính cẩn thận. Và toàn bộ những gì đã trù tính đó sẽ phải được thực hiện ngay sau khi các hệ thống phòng thủ trong chiến dịch "Vành đai" được cấp tốc đưa lên các quỹ đạo quanh Trái Đất.

Phiên họp liên tịch của hai tiểu ban vừa kết thúc, tất cả các văn kiện, số liệu, các tin tức, do hai cựu phi công vũ trụ song đôi cung cấp, cùng toàn bộ phim ảnh và giấy má có liên quan đến câu chuyện đau lòng này, đều lập tức bị thủ tiêu.

Trên Thái Bình Dương, phía nam quần đảo Aleut, ngày đã sắp tàn. Thời tiết vẫn thế, chẳng thay đổi bao nhiêu. Nhưng dẫu sao sóng vẫn mỗi lúc một cao thêm. Tiếng sóng dào dạt khắp bốn bề, càng về đêm nghe càng rõ.

Nhân viên phục vụ sân bay trên tàu "Convention" đang nóng lòng chờ các thành viên của hai tiểu ban đặc mệnh toàn quyền sớm lên mấy bay, sau khi tan hợp tác, song đợi mãi chẳng thấy họ đâu. Kia rồi, tất cả đã xuất hiện trên đường băng. Họ từ biệt nhau. Người lên chiếc máy bay này, kẻ lên chiếc khác.

Cả hai chiếc máy bay đều cất cánh êm thấm, mặc dù tàu "Convention" chòng chành mạnh hơn trước. Một chiếc bay sang San Francisco, chiếc kia hướng về phía đối diện, bay tới Vlapostok.

Tròn mình trong những làn gió hiền hòa, Trái Đất vẫn trôi đi trên những quỹ đạo ngàn đời của nó. Trôi đi mãi, đi mãi Trái Đất của chúng ta... Một hạt cát bé bỏng trong Vũ trụ vô cùng vô tận. Những hạt cát như thế đếm sao xiết trong không gian! Nhưng chỉ trên hạt cát này - Trái Đất của chúng ta, ngay tự ngàn xưa đã có con người sinh sống. Họ sống như từng được sống và lắm lúc như từng biết sống, lòng luôn cháy bỏng một nỗi tò mò, một niềm khát khao hiểu biết, luôn cố tự làm sáng tỏ cho bản thân mình một điều: ở đâu đó, tại những hành tinh khác, có tồn tại những đồng loại tương tự như ta hay không? Họ tranh cãi, họ nêu ra các giả thuyết, họ bay lên Cung Trăng, họ gửi hàng loạt những máy móc, thiết bị tự động lên các thiên thể khác, nhưng rồi lần nào cũng vẫn chỉ thu về những tin tức đáng buồn: quanh hệ Mặt Trời này chẳng hề có một thứ sinh vật nào giống họ. Nói chung, chẳng hề có một dấu hiệu nào của sự sống. Dần dà, họ quên bẵng đi chuyện đó, chẳng bận tâm gì đến chuyện được sống là một diễm phúc, nên phải tìm cách ăn ở sao cho hòa thuận, và hãy đổ mồ hôi trán để sống cho sung túc hơn... Nhiều người, nói chung, cho rằng chuyện đó chẳng dính dáng gì đến mình. Và Trái Đất tự nó cứ trôi đi, trôi mãi...

***

Suốt tháng Giêng, trời cứ mù sương và giá buốt căm căm. Chẳng biết từ đâu rét mướt lại để dồn về vùng Sarozek này lắm thế. Các đoàn tàu qua lại, bị băng giá phủ trắng xóa bên ngoài, cả các ổ trục cũng đều đông cứng lại. Ai cũng trố mắt kinh ngạc khi nhìn những dãy xi-tẹc đen chở đầy dầu, vừa mới dừng lại ở đoạn đường tránh tàu đã lập tức biến thành những đụn tuyết trắng phau. Đến lúc các đoàn tàu chuyển bánh lên đường thật là vất vả. Hai chiếc đầu máy đấu chung lại, như cùng ghé vai húc mãi hồi lâu, những chiếc bánh xe chết cứng vì giá rét mới chịu nhích đi từng tấc một. Và những chiếc đầu máy phải dốc hết sức mới đẩy nổi các toa tàu nên phát ra những tiếng gầm rú chói tai, lan đi rất xa trong không gian giá lạnh, nên đêm nào lũ trẻ sống tại ga Boranly cũng thảng thốt choàng dậy.

Các cung đường lại bắt đầu bị vùi lấp dưới những đụn tuyết cao. Chưa kịp xúc đi đụn này, những đụn khác đã lại bồi vào. Gió lồng lộn như hóa cuồng, ở vùng Sarozek mênh mông, trống trải này, gió muốn tung hoành thế nào tùy thích, nên cũng khó đoán được bão tuyết từ phía nào đổ tới. Và dân Boranly cứ có cảm tưởng như gió lúc nào cũng lăm le cố dồn hết tuyết lên đường tàu. Chỉ cần ngơi tay, nhãng đi một lúc, đường tàu đã ngập sâu trong tuyết đến hàng tấc, hàng tấc.

Edigej, Kazangap và ba anh công nhân sửa đường chẳng còn biết làm gì khác hơn là dốc hết sức dọn sạch tuyết từ đầu nọ đến đầu kia, khi đoạn này, lúc đoạn khác, rồi lại quay về chỗ vừa mới dọn lúc đầu. Giúp họ, chẳng có gì khác ngoài mấy chiếc xe cà khổ do lạc đà kéo. Lớp tuyết dày trên mặt đường, họ cho lên xe, chở đi đổ hai bên rìa đường. Nhưng những lớp ở bên dưới, phải xoay trần ra mà dọn bằng tay. Và Edigej chẳng còn thương tình gì con Karanar, vì được dịp quần cho nó một trận ra hồn, để thuần dưỡng nó bớt đi những trò hung hăng vô lối vì thừa năng lượng. Anh thắng nó chung với một con khác, bắt cả hai kéo một xe chở đầy tuyết và cả anh nữa cũng ngồi hẳn lên xe, cho nặng thêm. Dạo ấy, nhà ga chẳng có một thứ máy móc gì để làm việc này. Người ta đồn là đã sản xuất được nào là xe xúc tuyết, nào đầu tàu kéo, có thể giúp công nhân gạt những đống tuyết ngồn ngộn kia sang hai bên đường. Người ta cũng đã hứa là sẽ gửi gấp đến những thứ máy móc đó. Nhưng cho đến bấy giờ vẫn chỉ là những lời hứa hão.

Nếu suốt hai ba tháng hè, người ta đã phải thở bầu không khí oi nồng, khiến đầu óc như muốn mụ đi, thì giờ đây, lại hít phải những làn không khí giá buốt đến rợn người - phổi như muốn rách toạc hết ra. Có điều, các đoàn tàu vẫn phải qua lại thường xuyên và không lẽ cứ khoanh tay ngồi im ru rú trong xó nhà. Edigej râu ria, tóc tai tua tủa, và lần đầu tiên, đúng vào mùa đông ấy, anh nhận thấy râu tóc mình bắt đầu điểm bạc, cặp mắt sưng húp vì đói ngủ, còn mặt mũi nhìn vào gương mà phát hoảng - cứ đen nhẻm như than. Không lúc nào anh rời chiếc áo chẽn lông cừu, đã thế còn quấn thêm bên ngoài chiếc áo mưa vải bạt. Trên đầu, suốt ngày tùm hụp chiếc mũ trùm tai và dưới chân đôi ủng dạ to sù.

Nhưng dẫu làm gì, vất vả nhọc nhằn đến đâu, tâm trí anh không sao dứt ra được câu chuyện buồn lòng về Abutalip Kuttybaev. Nó như hú dài đến đau nhói trong tai anh. Anh với bác Kazangap cứ nghĩ đến nó luôn, đoán già đoán non mọi việc đã xảy ra thế nào và kết cục sẽ đi đến đâu. Bác Kazangap lặng thinh suốt ngày, mày chau lại, luôn nghĩ ngợi điều gì đó một mình, căng thẳng lắm. Một hôm, bác bỗng lên tiếng:

- Sự đời bao giờ cũng thế. Bây giờ chắc người ta đang cứu xét thêm... Chẳng phải tự dưng mà các cụ ta ngày xưa hay bảo: "Vua chẳng phải là trời. Không phải lúc nào vua cũng biết bọn thuộc hạ làm gì sau lưng mình; còn đám thuộc hạ thì lại không biết gì về bọn nha lại đang lùng sục ngoài chợ, để thu thuế má". Bao giờ chẳng thế.

- Gớm, mới lạ nhỉ. Tưởng gì chứ thông thái thế tôi đây chẳng kém - Edigej bực bội chế giễu ông bạn già - Nhưng vua chúa khối gì tên đã bị nện cho nhừ đòn thấy thôi! Mà vua chúa thì dính dáng gì đến chuyện này?

- Thế thì đến chuyện gì, hả? - Bác Kazangap hỏi, giọng lý sự.

- Còn chuyện gì, chuyện gì nữa? - Edigej cáu kỉnh lầu bầu. Rồi anh đi tới đi lui, đầu óc bị câu hỏi chưa có lời giải đáp đó ám ảnh mãi không thôi.

Thói thường: họa vô đơn chí. Abutalip vừa bị bắt được mấy bữa. Daul - thằng con lớn của anh - lăn ra ốm. Người thằng bé nóng ran. Chốc chốc lại lên cơn mê sảng. Những cơn ho hành hạ nó, cổ họng đỏ nhừ. Zaripa bảo là nó bị cảm lạnh. Chị cho uống thôi không còn thiếu thứ gì.

Nhưng không thể ngồi mãi với hai đứa con. Bỏ bê công việc không lo bẻ ghi, điều khiển mấy cái tiêu báo hiệu, lương đâu mà sống. Lại còn phải có mặt vào mấy phiên trực khi ban ngày, lúc ban đêm nữa. Cho nên Ukubala phải cáng đáng hết việc chăm nom lũ trẻ. Cả bốn đứa đều do một tay chị trông nom, vì chị hiểu rằng gia đình Abutalip đang lâm vào cảnh khốn cùng. Và Edigej đã đỡ cho vợ một tay, trong chừng mực có thể được. Từ tinh mơ, anh đã phải trở dậy mang than ngoài gian nhà kho sang lán mẹ con họ ở, và nếu chưa trễ lắm, nhóm lò giúp luôn. Than đá khó bắt lửa, nên phải thật khéo tay. Hôm nào anh cũng phải rắc thêm trên lò cả nửa xô than, để lũ trẻ có đủ lửa sưởi ấm suốt ngày. Anh cũng tự tay mang nước từ trong xi-tẹc đặt ở khúc đường cụt về, và chẻ củi để có cái cho vợ đun nấu. Những gì phải tay anh mới làm được, anh đều làm chu đáo. Nhưng cái việc khó nhất không phải là những việc đó. Anh không sao bình tâm nổi, khi phải nhìn thẳng vào các cặp mắt của lũ con Abutalip, và trả lời những câu hỏi của chúng. Thằng lớn nằm liệt giường, hơn nữa, nó là thằng bé có ý tứ, biết chịu đựng. Nhưng với thằng em - Ermek - vốn giống mẹ, rất sôi nổi, thích được âu yếm, hết sức nhạy cảm và dễ mủi lòng, thì thật khó xử... Sáng sáng, những lúc xách than đến nhóm lò, bao giờ anh cũng cố làm thật nhẹ tay để hai đứa trẻ khỏi thức giấc. Nhưng chẳng mấy khi được như ý. Anh chưa kịp trở gót, thằng Ermek tóc quăn, mắt đen láy, đã choàng dậy. Và câu đầu tiên nó hỏi, khi vừa mở mắt là:

- Bác Edigej ơi, hôm nay chắc bố cháu về đấy, bác nhỉ?

Và chưa kịp mặc quần áo, thằng bé đã chạy đến bên anh, chân trần, mắt hau háu một niềm hy vọng là Edigej sẽ đáp "ừ" - thế là bố nó nhất định sẽ về, sẽ ở lại nhà cùng ba mẹ con nó. Edigej chỉ còn biết ủ thằng bé gầy nhom, con ấm hơi chăn, giữa hai vòng tay và đặt lại nó lên giường. Rồi trò chuyện cùng nó, như với người cùng trang lứa:

- Ermek ạ, hôm nay bác không biết bố cháu có về không. Nhưng chốc nữa ra ga, bác sẽ nhờ bên thông tin hỏi xem bố cháu sẽ về chuyến tàu nào. Ga ta tàu khách không đỗ, cháu biết rồi đấy. Phải có lệnh của chính ông trưởng ban điều độ kia. Theo bác, chỉ nay mai họ sẽ báo tin thôi. Lúc ấy, nhất định bác cháu ta, cả anh Daul nữa - nếu anh ấy đã khỏi ốm - sẽ ra ga đón.

- Lúc ấy, cả mấy bác cháu ta sẽ cùng bảo: Bố ơi, xem này, bác Edigej với chúng con ra đón bố đây.

- Ồ, dĩ nhiên rồi. Thế nào bác cháu ta cũng sẽ bảo thế - Edigej sôi nổi tán thành.

Có điều, một thằng bé tinh khôn như nó, đâu chỉ bằng lòng có vậy.

- À này, bác Edigej ạ, thế chi bằng bác cháu mình cứ lên một chuyến tàu hàng, đến gặp chính cái ông trưởng ban điều độ ấy. Để bảo ông ta cho tàu chở bố cháu đỗ lại ga chúng mình.

Lại phải nói trớ đi:

- Nhưng phải đợi đến hè trời ấm lên đã. Chứ rét mướt thế này, cháu đi tàu hàng thế nào được. Lạnh lắm. Lại gió máy nữa. Cháu không thấy cửa sổ đầy những băng đấy à. Thành thử chưa đến nơi, ta đã cứng lại, như hai cục băng mất thôi. Không được đâu, Ermek ạ. Đi thế nguy hiểm lắm.

Thằng bé rầu rĩ nín thinh.

- Thôi cháu nằm xuống ngủ tiếp đi, để bác đến xem anh Daul đỡ chưa - Edigej tìm cớ lánh, bước lại chỗ anh nó, áp nhẹ bàn tay đầy chai, nặng trịch, lên cái trán nóng ran của thằng bé... Thằng anh phải chật vật lắm mới mở được mắt. Nó khẽ nhếch đôi môi khô nẻ vì sốt cao, mỉm cười. Cơn sốt vẫn chưa lui.

- Đừng tung chăn ra cháu. Người đang dâm dấp mồ hôi đây này. Có nghe bác nói không, hả Daul? Kẻo lại cảm lẩn nữa đấy. Còn cháu, Ermek, bao giờ anh cháu mắc tiểu, nhớ cầm giúp lại cho anh ấy cái bô. Nhớ nhé. Để anh Daul khỏi phải ngồi dậy. Mẹ sắp hết phiên trực rồi, chắc tí nữa về thôi. Chốc nữa, cô Ukubala sẽ mang cháo sang cho các cháu. Mai mốt Daul hết ốm, các cháu lại sang bên bác, chơi với chị Saule và Sharapat cho vui. Bây giờ, bác phải về đi làm đây, chứ tuyết xuống nhiều quá, đường tàu nghẽn cả rồi - Bác dỗ dành lũ trẻ trước lúc ra về.

Nhưng thằng Ermek đâu đã chịu yên.

- Bác Edigej ạ - nó nói với bác hàng xóm, lúc này đã chân trong chân ngoài ngưỡng cửa - Tuyết mà con xuống nữa, cản mất thư của bố cháu, cháu cũng sẽ đi dọn tuyết với bác. Cháu có xẻng đấy ạ.

Edigej bước ra, lòng thắt lại với những ý nghĩ nặng nề, cổ anh đắng ngắt vì tức giận, vì bất lực, vì thương cảm. Anh đâm hằn học, căm ghét hết thảy mọi thứ trên đời. Rồi anh mang nỗi hằn học ấy đổ hết lên những đụn tuyết, những trận gió, những đống băng làm nghẽn đường tàu, lên mấy con lạc đà mà anh bắt phải làm cật lực, không chút thương hại. Anh làm hùng hục như một con bò mộng, như thể chỉ mình anh mới có thể chặn đứng những cơn bão tuyết miền Sarozek này.

Ngày nọ tiếp ngày kia trôi đi, như những giọt nước cứ đều đều nhỏ xuống, từng giọt một, giọt nọ giống hệt giọt kia đến phát ngấy lên được. Thế rồi tháng Giêng cũng hết, và giá buốt cũng dịu đi ít nhiều, vẫn chẳng có tin gì về Abutalip Kuttybaev, Edigej và Kazangap đâm hoang mang vì những phỏng đoán của mình: người cho thế này, kẻ đoán thế nọ, rối tinh lên. Cả anh lẫn ông bạn già đều cho rằng rồi thế nào họ cũng phải thả anh ấy ra ngay - vì có tội tình gì cái chuyện viết lách điều này điều nọ cho chính mình, chứ nào phải để đăng báo đăng biếc gì cho cam. Cả hai đều hy vọng thế và cố gieo vào lòng Zaripa niềm tin ấy, để người thiếu phụ khỏi ngã lòng, về phần mình, Zaripa cũng hiểu rằng chị phải cứng cỏi hơn, để có sức mà nuôi dạy hai đứa con thơ. Và chị đã tỏ ra vững vàng thật; chị bấm bụng chịu đựng, không hé răng than thở lấy một lời. Duy đôi mắt chị bừng bừng một nỗi day dứt không nguôi. Ai biết người thiếu phụ ấy còn có thể chịu đựng được bao lâu nữa?

Một bữa kia, Edigej-Bão Tuyết được ngơi tay chừng một tiếng đồng hồ. Anh quyết định tạt ra thảo nguyên một lát, xem bầy lạc đà ngoài ấy còn có ra gì không. Cái chính là xem con Karanar đang giở trò gì ngoài đó: Có gây thương tật cho con nào trong đàn không? Có nổi điên lên không? Vì đã sắp tới mùa động hớn của nó rồi. Anh phải đi giày trượt tuyết - chỗ thả đàn gia súc chẳng xa gì mấy. Anh quay về thật đúng lúc. Đang định đến báo cho Kazangap là mọi việc vẫn đâu vào đấy, cả đàn đang ăn cỏ dưới thung lũng Đuôi Cáo, tuyết đã tan gần hết, trời gió nhẹ, vì thế cỏ dưới chân mấy ngọn đồi không còn bị ngập băng nữa, chẳng có gì đáng ngại. Nhưng trước tiên, anh muốn ghé qua nhà, vứt lại đôi giày đi tuyết. Vừa đến cổng, Saule - đứa con gái lớn - đã ló mặt ra, hoảng hốt gọi to:

- Mẹ khóc đấy, bố ạ - Rồi biến đi mất.

Edigej dựng vội đôi giầy bên cánh cổng, lo lắng chạy vào nhà.

Ukubala đang nức nở, to đến mức anh bỗng thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng.

- Sao thế? Có chuyện gì vậy, mình?

- Hãy để cho hết thảy mọi thứ đáng nguyền rủa trên cõi đời này bị nguyền rủa đến tuyệt giống đi. - Ukubala giọng chì chiết, lắp bắp.

Chưa bao giờ Edigej thấy vợ đau xót, giận dữ đến vậy. Chị là một phụ nữ cứng cỏi, đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo.

- Tại anh đấy, tại anh cả đấy.

- Tôi làm sao kia? Tôi có lỗi gì nào? - Edigej sửng sốt.

- Anh cứ huyên thuyên với hai thằng bé khốn khổ ấy đủ điều, chứ còn sao nữa. Cho nên mới vừa rồi, có một đoàn tàu khách phải dừng lại, nhường đường cho đoàn tàu chạy ngược chiều. Thế là, vừa nhác thấy đoàn tàu khách rẽ vào đường tránh, hai thằng bé nhà Abutalip đã lao tới kêu ầm lên: "Bố! Bố kìa! Bố về kia rồi". Chúng cứ lao sát vào đoàn tàu. Tôi phải hối hả chạy theo. Chúng chạy hết toa này sang toa khác, gào ầm ĩ lên: "Bố! Bố ơi! Bố đâu ạ!". Tôi nghĩ bụng, không khéo chúng lao đầu vào gầm tàu mất. Hai đứa chạy dọc suốt cả đoàn tàu dài, cửa đóng im ỉm. Mặc, chúng cứ chạy! Tôi lại phải đuổi theo. Vừa tóm được thằng bé, thằng lớn đã suýt giật khỏi tay tôi, đúng lúc đoàn tàu chuyển bánh. Hai đứa vừa thi nhau gào: "Bố cháu trên tàu kia, khéo bố xuống không kịp mất cô ạ!" vừa cố vùng ra bằng được. Ruột gan tôi rối lên. Nghĩ bụng: chúng cứ gào thét thế này, mình đến mất trí thôi. Thằng lớn, tôi còn phân bua được. Chứ thằng bé thì chịu. Anh ra mà thu xếp với nó! Đi đi! Chính anh bảo với chúng khi nào có tàu khách đến là bố chúng về, chứ ai? Chà, phải chi anh được nhìn tận mắt cảnh đoàn tàu chạy xa rồi mà vẫn không thấy bố chúng xuống. Trời ơi, giá anh chứng kiến cảnh ấy? Đã biết cơ sự là thế, đã biết bố con chúng nó quấn quít nhau đến thế rồi, còn phỉnh phờ chúng làm gì nữa chứ? Bắt chúng đau khổ đến thế, được lợi lộc gì nào?

Edigej sang nhà hai thằng bé, như bước ra pháp trường. Anh chỉ còn biết cầu khẩn Thượng đế hãy đoái thương anh, tha cho anh trước lúc lìa đời cái tội đã vô tình đánh lừa hai linh hồn non nớt, cả tin! Nào anh có muốn làm điều ác với chúng. Bây giờ, còn biết ăn nói với hai đứa bé thế nào đây?

Vừa nhác thấy anh, Ermek và Daul vẫn còn giàn giụa nước mắt và mặt mũi sung húp đến chẳng còn nhận đứa nào ra đứa nào nữa, đã gào ầm lên, nhanh nhẩu cướp lời nhau, cố cắt nghĩa cho anh biết đoàn tàu đã dừng lại ở khúc đường tránh, nhưng bố chúng không kịp xuống, và nài nỉ anh ra chặn giúp đoàn tàu lại...

Sadyndym, papikamdy. Sadyndym, sadyndym[14] - Ermek kêu to, van nài bằng cả dáng điệu, niềm tin, hy vọng, lẫn đau xót.

- Bác biết cả rồi. Yên nào, yên nào, đừng khóc nữa, các cháu... - Edigej thử tìm cách giảng giải, an ủi hai thằng bé đang kêu khóc thảm thiết. Nhưng tự kềm chế, không để mình gục ngã, không tỏ ra bối rối, hoảng hốt trên nét mặt, để hai đứa trẻ dừng nhận biết mình mềm yếu, bất lực... anh thấy còn gay hơn - Nào, bây giờ ta đi xem sự thể ra sao, các cháu nhé! - Nhưng đi đâu? Đến đâu? Kêu với ai? Làm gì bây giờ? Cư xử ra sao? - Anh tự nhủ - Được, bây giờ ta hẵng ra ngoài kia một lát, ngẫm nghĩ, bàn xem, các cháu ạ - Edigej hứa hẹn một điều rất mơ hồ, lắp bắp những câu chẳng mạch lạc gì cả.

Anh đến bên Zaripa. Chị đang nằm vùi trên giường, mặt úp xuống gối.

- Zaripa, Zaripa - Edigej khẽ lay vai người thiếu phụ.

Chị vẫn nằm yên, không ngẩng đầu lên.

- Mấy bác cháu tôi ra ngoài kia, đi dạo loanh quanh một lúc, rồi đưa các cháu sang bên nhà tôi chơi luôn - anh nói với Zaripa - Thôi, tôi đi với hai cháu đây, nhé!

Đó là điều duy nhất anh có thể nghĩ ra để an ủi chúng, cho chúng khuây khỏa và cũng để cho chính mình có thì giờ lo liệu. Anh cõng thằng Ermek lên lưng, tay dắt thằng Daul, kéo đi. Ba bác cháu lững thững bước dọc đường tàu, chẳng có chủ đích gì. Chưa bao giờ Edigej-Bão Tuyết xót xa vì những nỗi bất hạnh của người khác, như lúc này. Ngồi trên lưng anh, thằng Ermek vẫn thút thít khóc thầm, phả vào gáy anh những hơi thở buồn rầu, nóng hổi. Nó áp chặt tấm thân bé bỏng, quắt queo đi vì buồn nhớ vào người anh, ghì chặt cả hai tay vào cổ anh đầy tin cậy. Cả thằng Daul cũng bíu chặt lấy tay anh. Đến nỗi anh suýt buột miệng bật lên tiếng kêu xót xa, ái ngại cho hai đứa trẻ.

Ba bác cháu đi dọc đường tàu, giữa những cánh thảo nguyên Sarozek vắng lặng không gì khác ngoài những đoàn tàu qua lại, bánh nện ầm ầm trên đường ray, khi về hướng này, khi về hướng kia. Chuyến lao đi, chuyến lao tới, thế mãi...

Và Edigej lại phải nói dối hai đứa trẻ một lần nữa, khi bảo rằng chúng đã nhầm: Đoàn tàu tình cờ rẽ vào chỗ đường tránh đó là từ hướng này chạy tới; còn bố chúng phải từ hướng kia lại. Bố chúng nhất định phải về, nhưng chắc phải chờ ít lâu nữa. Bố chúng được phái xuống một con tàu, làm thủy thủ. Bao giờ con tàu nọ quay mũi, sau một chuyến du lịch xa, bố chúng mới được về nhà. Phải đợi thêm ít lâu nữa. Theo anh nghĩ, những lời dối trá ấy hẳn sẽ giúp lũ trẻ khỏi ngã quỵ lúc này, chứ điều đó mai kia, nhất định phải trở thành sự thật thôi. Edigej tin chắc Abutalip Kuttybaev thế nào cũng sắp về. Chỉ ít lâu nữa người ta sẽ biết rõ thực hư, phải trái, và Abutalip về ngay, không nấn ná dù chỉ một giây, khi vừa được tin trả lại tự do. Một ông bố yêu quí con đến thế, hẳn chẳng chậm trễ một giây nào đâu... Chính vì vậy, Edigej mới dám đánh lừa anh em chúng nó. Biết rõ con người Abutalip, Edigej hình dung được hết anh ấy sẽ phải trải qua những nỗi đau khổ nhường nào, khi phải sống cô đơn, xa vợ xa con. Người khác, có lẽ sẽ không cảm nhận hết được những nỗi cơ cực khi phải tạm chia lìa một cách nhức nhối, day dứt, như Abutalip; nhưng dẫu vậy, người ấy vẫn nuôi hy vọng sớm được trở về. Đằng này, đối với Abutalip - Edigej tin chắc thế - chuyện đó quả thật là một hình phạt hết sức nặng nề. Và Edigej lo sợ thay cho người bạn cũ đang lâm vào cảnh tù tội. Không biết liệu Abutalip có chịu đựng nổi, có chờ đợi được không cái ngày sẽ phân rõ trắng đen, phải trái, cái ngày sẽ được trở về sống bên vợ bên con...

Trước đó, Zaripa đã gửi mấy bức thư lên các cấp hữu quan, hỏi tin chồng và yêu cầu báo cho chị biết: chị có thể gặp gỡ, thăm hỏi anh không. Đợi mãi vẫn chưa thấy thư trả lời. Bác Kazangap và Edigej cũng đã nát óc đoán mò nguyên do. Nhưng cả hai đều cho rằng tại ga Boranly-Bão Tuyết không có đường bưu điện trực tiếp với tỉnh, nên thư từ gửi đi bao giờ cũng phải chuyển qua tay ai đó, hoặc chuyển lên tận ga chính Kumbel; còn thư về cũng phải qua Kumbel hoặc gửi nhờ đường dây "quen biết, thân cận"... Liên lạc theo kiểu đó chả mấy khi nhanh chóng được, chuyện này ai còn lạ.

Thế rồi, một hôm đã xảy ra câu chuyện sau đây...

Cuối tháng Hai, bác Kazangap bỗng nảy ra ý định lên Kumbel thăm thằng con trai là Shabitzhan, đang học trường nội trú trên ấy. Đang mùa đông, đi nhờ tàu hàng lạnh đến chết rét mất. Rúc vào các toa tàu chẳng ai cho, vì đã có lệnh cấm. Còn ngồi ở hai đầu toa trống trải, chịu sao nổi những đợt gió như cắt thịt. Thế là bác lôi lạc đà ra, đóng yên cương vào. Mặc thật ấm, cưỡi lạc đà vẫn ung dung chán. Cả đi lẫn về, chỉ mất độ một ngày, nếu kể thêm cả khoản thời giờ ghé vào các cửa hiệu mua sắm các thứ hoặc làm việc này việc nọ.

Ngay chiều hôm ấy, bác Kazangap đã quay về thật. Thấy ông bạn về sớm, Edigej bụng bảo dạ chắc có điều gì làm ông ta phật ý chăng, hoặc gặp chuyện buồn phiền về thằng con trai trên trường nội trú. Chứ tội gì phải hành hạ thân già ngật ngà ngật ngưỡng trên lưng con vật suốt những ngần ấy dặm đường, chỉ trong già nửa ngày trời.

Edigej lên tiếng trước:

- Thế nào, chắc đường sá vất vả lắm nhỉ?

- Cũng chả đến nỗi nào - Kazangap đáp khẽ, trong khi vẫn lúi húi với đống đồ lề mang từ trên tỉnh về. Nhưng ngẫm nghĩ một lát, bác liền ngoái xuống hỏi bạn:

- Chú về nhà ngay hay còn đi đâu nữa?

- Về ngay nhà.

- Tôi có chút việc... Chú về trước. Tôi sang ngay đây.

- Vâng, bác đến nhé!

Bác Kazangap không bắt bạn phải chờ lâu. Cùng đến với chồng, có cả bác Bukej nữa. Chồng đi trước, vợ theo sau, chỉ cách nhau mấy bước. Cả hai đều lộ vẻ lo lắng, vẻ mặt bác mệt mỏi, cổ như dài thêm ra, hai tay buông thõng, hàng ria mép rũ xuống. Bà vợ to béo đang thở dốc, tim như đang nhảy nhót trong lồng ngực, không cho bà thở bình thường.

- Chết chửa, trông cứ như hai bác vừa cãi nhau xong ấy - Ukubala cười - Đưa nhau đến đây làm lành chứ gì? Nào, mời hai bác ngồi.

- Giá chỉ cãi nhau thôi, đã phúc - bà Bukej đáp, giọng vẫn khè khè như kéo bễ.

Nhìn trước nhìn sau một lúc, bác Kazangap gạn hỏi:

- Lũ trẻ nhà chú thím đâu?

- Chúng sang chơi với hai thằng bé bên cô Zaripa - Edigej đáp - Bác cần nhờ chúng việc gì chăng?

- Tôi mang tin dữ trên ấy về đây - Bác Kazangap nói, mắt nhìn chằm chằm vào hai vợ chồng Edigej. Hẵng khoan cho bọn trẻ biết vội. Thật là tai vạ. Abutalip chết trong tù rồi!

- Bác bảo sao cơ? - Edigej chồm dậy, còn Ukubala trót buột miệng kêu lên một tiếng, liền vội vàng đưa tay bưng miệng, mặt trắng bệch như phấn.

- Anh ấy mất rồi! Tội nghiệp mấy đứa trẻ bất hạnh. Mới tí tuổi đầu mà đã mồ côi bố - Bà Bukej than vãn bằng cái giọng nửa khò khè, nửa thủ thỉ.

- Tại sao chết, hả? - Edigej vẫn chưa tin vào tai mình, hốt hoảng hỏi đến bác Kazangap.

- Người ta đã tư giấy về trên ga Kumbel đấy.

Rồi cả bốn đều nín lặng, tránh nhìn mắt nhau.

- Rõ khốn khổ. Rõ khốn khổ - Ukubala ôm đầu, rên rỉ.

- Thế cái giấy ấy đâu? - Mãi một lúc sau, Edigej mới lên tiếng hỏi tiếp.

- Trên ấy, trên ga ấy - Bác Kazangap bắt đầu kể - Đến trường thằng bé nhà tôi rồi, tôi mới chợt nhớ phải ghé vào quầy hàng trong phòng đợi đằng ga, mua mấy bánh xà phòng cho bà Bukej nhà tôi. Tôi vừa đến cửa, gặp ông trưởng ga Chernov từ trong ga bước ra. Chúng tôi chào nhau - vì ông ấy với tôi là chỗ quen biết cũ - ông ta bảo ngay: "Chà! Đang mong, may quá lại gặp được bác. Vào phòng làm việc của tôi một lát đã. Nhờ cầm giúp cái thư, mang về dưới ấy hộ, có thế thôi". Ông ấy mở cửa, cả hai cùng vào. Ông ấy lôi trong ngăn bàn ra một phong bì, chữ đánh máy nhé, chứ không phải viết tay. Ông ấy bảo: "Abutalip Kuttybaev làm việc ở chỗ bác phải không?". Vâng - tôi đáp - chỗ tôi, nhưng sao kia? "Cái công văn này gửi đến đã ba hôm rồi. Nhưng chẳng có ai để nhờ chuyển về dưới Boranly-Bão Tuyết cả. Đây, bác cầm giúp về, đưa hộ cho vợ anh ấy. Trong này họ trả lời những điều chị ấy hỏi. Anh ấy đã chết, trong này họ viết thế?". Rồi ông ta nói mấy chữ gì lạ tai lắm, tôi không hiểu. "Vì nhồi máu cơ tim" - ông ta bảo vậy. Tôi liền hỏi ngay: nhồi máu cơ tim là thế nào? Ông ấy đáp: "Huyết tắc, nghẽn lại trong tim ấy mà". Đại để là tim anh bị vỡ. Tôi ngồi, nhưng ruột gan cứ rối bời. Lúc đầu, không tin, tôi cầm từ công văn lên xem. Trong giấy viết đại để thế này: Gửi trưởng ga Kumbel, đề nghị báo cho nữ công dân làm việc ở ga Boranly-Bão Tuyết câu trả lời chính thức của cơ quan hữu trách về những đề nghị của đương sự - tiếp đó, họ cho biết: công dân Abutalip Kuttybaev bị tình nghi vì lý do thế này thế nọ, đã chết vì một cơn đau tim đột ngột. Đấy, trong giấy đại để ghi thế. Đọc xong, tôi ngước nhìn ông ta, người thừ ra, chưa biết phải làm gì. "Đấy, cơ sự như thế đấy - Chernov nói, hai tay giang rộng. - Bác cầm về, chuyển giúp cho chị ấy". Tôi bảo: Không, tôi chả cầm về đâu. Tôi không muốn chuốc lấy cái vạ là người đem tin dữ về. Con cái anh ấy còn thơ dại, tôi nỡ nào hủy hoại cả cuộc đời lũ trẻ. Thôi, việc ấy tôi chịu thôi - tôi bảo ông ta thế. Rồi nói tiếp: để tôi về Boranly, bàn tính với anh em xem nên làm gì, rồi mới dám quyết. Hoặc chúng tôi sẽ cử người lên đây, nhận cái tin này mang về, như người ta đi rước một người chết vậy - vì đây là một nhân mạng đã từ giã cõi trần, chứ đâu phải con chim sẻ chết. Hoặc tốt hơn cả, nên để chính chị Zaripa Kuttybaev, vợ anh ấy, đích thân lên đây nhận từ chính tay anh. Và anh sẽ tự kể với chị ấy mọi chuyện. Nghe tôi nói thế, ông ấy liền bảo: "Thôi được, cái đó tùy bác. Có điều, tôi cũng chẳng biết kể gì, giãi bày gì. Các chi tiết, tôi nào biết. Tôi chỉ trao cái công văn này, đúng như chức trách của tôi, thế thôi". Tôi bảo ông ấy: Anh thứ lỗi cho, nhưng hẳn cứ để cái công văn kia lại đây, tôi sẽ nhắn miệng cho chị ấy, rồi anh em chúng tôi sẽ bàn nên làm gì. "Thôi được, liệu thế nào, tùy bác" - ông Chernov nói. Thế là tôi bước ra ngay, hối hả về đây. Suốt dọc đường, tôi vừa thúc con lạc đà rảo bước, vừa nát óc nghĩ không biết phải làm gì bây giờ? Trong chúng ta, ai dám cả gan báo cái hung tin ấy cho mẹ con Zaripa?

Kazangap nín lặng. Lưng Edigej còng xuống, như bị cả một quả núi đè lên trên.

- Bây giờ ta tính sao đây? - Kazangap hỏi, nhưng chẳng ai lên tiếng trả lời.

- Tôi biết ngay mà - Edigej rầu rĩ lắc đầu - Anh ấy không chịu nổi cảnh cha con xa nhau. Chính chuyện đó khiến tôi lo nhất đấy. Quả y như rằng anh ấy đã không chịu đựng nổi. Buồn rầu là chuyện đáng sợ nhất. Cứ trông cái cảnh lũ con anh ấy nhớ bố đủ biết - thật nhìn mà phát sợ. Phải chi anh ta là ai khác, thôi cứ mặc, gắng chờ ít lâu người ta sẽ đem ra xử - chẳng biết vì tội gì nữa, nhưng cứ cho là sẽ bị đem ra xử đi - rồi cắn răng ngồi tù một vài năm hoặc năm ba năm gì đó, rồi thế nào cũng được tha về. Dạo bị bọn Đức bắt đưa vào trại tập trung, anh ấy vẫn chịu đựng được. Rồi những năm chiến đấu bên Nam Tư nữa, đâu có sung sướng gì. Thế mà trong suốt chừng ấy năm trường trên đất khách quê người, anh ấy vẫn vững. Chỉ vì hồi ấy đang còn một thân một mình, gia đình vợ con chưa có, muốn thế nào tùy thích. Còn bây giờ khác. Nói như các cụ, nó như một khúc ruột bị cắt lìa ra, phải xa cái mà anh ta thân thiết nhất: bố một nơi, con một nẻo. Đấy, tai họa chính là chỗ ấy đấy...

- Đúng thế. Tôi, tôi cũng nghĩ như thế - Kazangap tán thành - tôi không tin con người ta lại có thể chết vì bị chia lìa. Ấy là chưa kể anh ấy còn trẻ, thông minh, lại nhiều chữ nghĩa nữa, và vẫn còn hy vọng đến một lúc nào đó người ta sẽ phân xử phải trái và sẽ trả lại tự do cho anh ấy. Vì anh ấy đâu có tội tình gì mà phải lo. Về lý trí, dĩ nhiên anh ấy thừa hiểu. Nhưng trái tim hóa ra lại không chịu đựng nổi...

Rồi cả bốn người cứ ngồi thừ như thế một lúc lâu ngẫm nghĩ về tình thế, muốn tìm cách gì đó giúp Zaripa đủ sức đón nhận cái tin kia. Nhưng dù nghĩ gì, đoán gì, trước mắt họ, rốt cục vẫn là tình thế bi đát: lũ con thế là mất bố, côi cút, Zaripa trở thành góa bụa. Mãi sau, Ukubala đã nói lên được một điều ai cũng cho là khôn ngoan nhất:

- Hãy để cho chính Zaripa lên ga Kumbel nhận tờ công văn nọ. Chị ấy sẽ biết được tin sét đánh trên ấy, chứ không phải tại đây, trước mặt hai đứa con. Vì chị ấy sẽ lo liệu cả lúc ở trên ga, lẫn lúc trên đường về. Chị ấy sẽ có đủ thì giờ để ngẫm nghĩ phải làm gì, nên cho hai thằng bé biết chuyện chưa hay hẵng để thư thả. Chắc chị ấy sẽ quyết định nán đợi ít lâu, lúc chúng khôn lớn hơn tí chút và nỗi nhớ thương cha đã nguôi ngoai phần nào. Chứ bảo ngay với chúng lúc này thì gay đấy...

- Mình nói phải đấy - Edigej đồng tình ngay - Cô ấy là mẹ, phải để cô ấy tự định liệu đã nên hay chưa cho hai thằng bé biết tin cha chúng mất. Riêng tôi, tôi chịu... - Edigej không nói tiếp được nữa, lưỡi anh ta cứng lại. Anh hắng giọng cố kìm giữ nỗi xót thương đang nghẹn ngào trong cổ.

Khi mọi người đều ngả theo hướng này, Ukubala quay sang Kazangap, khuyên người bạn quí của chồng:

- Bác Kazake ạ, bác cứ bảo với Zaripa rằng ông trưởng ga Kumbel đang giữ thư từ gì gửi cho cô ấy. Nghe đâu là thư trả lời về những đề nghị của cô trước đây. Họ bảo phải giao tận tay người nhận - Rồi chị quay sang chồng - Giữa ngày đông tháng giá thế này, không nên để cô ấy lên tỉnh một mình. Trên ấy, Zaripa lại chẳng có bạn bè thân thích. Điều đáng sợ nhất trong lúc lâm hoạn nạn là cảnh cô đơn. Anh nên đi với cô ấy Edigej ạ, cho có bạn trong những giờ phút gay go này. Với lại thiếu gì chuyện có thể xảy ra trong lúc nỗi bất hạnh đang giáng xuống đầu. Anh bảo là phải lên ga thu xếp công việc, rồi đi cùng cô ấy một thể. Lũ trẻ cứ để ở nhà với mấy mẹ con em.

- Được thôi - Edigej bằng lòng ngay với những lý lẽ vợ đưa ra - Mai anh sẽ bảo với Abilov là cần đưa Zaripa lên tỉnh khám bệnh gấp. Để anh ấy cho tầu dừng lại chốc lát ngoài ga.

Mọi việc thế là đã quyết định. Nhưng mãi hai hôm sau mới có chuyến lên Kumbel. Và đoàn tàu quả đã dừng lại theo yêu cầu của trưởng ga. Hôm đó là mồng năm tháng ba. Edigej-Bão Tuyết sẽ mãi mãi ghi nhớ ngày hôm ấy.

Họ lên một toa chung. Hành khách đông nghẹt. Lắm người mang cả gia đình, con cái, nồi niêu xoong chảo, chăn chiếu đùm đề, lỉnh ca lỉnh kỉnh. Đã chật chội, mà người qua kẻ lại cứ liên miên, khói thuốc mù mịt trong toa. Tiếng trò chuyện, kêu la râm ran khắp nơi: người thì bài bạc đến mụ đầu mụ óc, kẻ lại to nhỏ rỉ tai nhau chuyện sinh hoạt đắt đỏ, chuyện chồng con nghiện ngập, chuyện để bỏ, cưới hỏi, ma chay... Phần lớn đều là khách đi xa. Họ mang theo tất cả những gì làm nên cuộc sống thường ngày của họ. Về phần mình, Zaripa và Edigej chỉ chia sẻ bất hạnh và đau khổ với khách đi tàu có một thôi đường ngắn ngủi.

Dĩ nhiên là Zaripa mất hết tự chủ. Khắc khoải và lo âu, chị nín lặng suốt thời gian trên tàu. Lòng chị bồn chồn, không biết tin lành hay dữ đang đợi mình trên ga Kumbel. Edigej cũng nín thinh.

Trên đời có những người thật tinh ý, rất dễ động lòng trắc ẩn: ngay từ cái nhìn đầu tiên, họ đã nhận thấy người khác đang gặp chuyện không may. Khi Zaripa vừa đứng dậy, bước ra chỗ đầu toa, rồi dừng lại bên một khung cửa sổ, một bà lão người Nga, ngồi đối diện với Edigej, đã ngước cặp mắt nhân hậu, xưa kia hẳn xanh biếc, còn giờ đây đã đục mờ vì tuổi tác, nhìn anh, hỏi khẽ:

- Sao, vợ bị ốm nặng, hả con?

Edigej giật nảy người.

- Em gái chứ không phải vợ đâu, mẹ ạ. Con đưa cô ấy đến bệnh viện đấy ạ!

- Thảo nào nhìn qua, mẹ biết ngay cô ấy đang gặp điều không may. Người nó gầy vêu vao. Cặp mắt đờ đẫn vì đau khổ, chắc nó đang có điều lo sợ trong lòng. Sợ nhà thương không dò ra cái căn bệnh hiểm nghèo gì đó đang hành hạ nó. Ôi dào, kiếp người thật trớ trêu. Không sinh ra thì chẳng được sống trên đời mà sinh ra thì gặp toàn bất hạnh. Kiếp người là thế. Nhưng chúa rất nhân từ, con ạ. Em con hãy còn trẻ trung, mọi cái rồi sẽ qua thôi - bà già an ủi, thấu rõ nỗi khắc khoải và buồn rầu đang giày vò Zaripa mỗi lúc một tăng, khi tàu tiến đến gần ga.

Chạy chừng một tiếng rưỡi đồng hồ, tàu đã đến Kumbel. Hành khách trên tàu hoàn toàn dửng dưng với chuyện hôm nay họ đã qua những ga nào. Ai cũng chỉ hỏi về ga sắp tới. Hai bên đường tầu, thảo nguyên Sarozek mênh mông, tuyết trắng vẫn ngủ yên trong khoảng không gian vắng lặng, trải dài đến tận chân trời quạnh hiu. Nhưng dẫu sao những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân đã bắt đầu xuất hiện. Những mô đất cao trên sườn đồi đó đây đã sẫm màu, băng trên các mép khe vực đã nứt nẻ, đất đen đã hiện ra trên các đỉnh đồi, và khắp nơi tuyết đã bắt đầu nhão đi vì những cơn gió ẩm bừng giấc trên thảo nguyên, khi tháng Ba về. Nhưng mặt trời vẫn còn khuất sau những đám mây thấp lè tè, xám xì và sũng nước. Mùa đông vẫn còn gắng gượng sống: tuyết ẩm có thể trút xuống tiếp, bão tuyết vẫn có thể ập đến hoành hành...

Edigej vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đối diện với bà cụ phúc hậu, thỉnh thoảng trò chuyện cùng bà và mắt nhìn ra cửa sổ, chứ không đến chỗ nối toa với Zaripa. Anh nghĩ bụng, cứ để cô ấy đứng đó, một mình bên cửa sổ toa tàu, để ngẫm nghĩ cho kỹ về tình thế của gia đình. Chắc một linh cảm nào đó sẽ nhắc nhở cô được điều gì chăng? Có lẽ cô đang nhớ lại chuyến đi hồi đầu thu năm ngoái. Hồi đó, họ cũng đi cùng, mang theo cả gia đình, bốn đứa con thơ, quá giang một chuyến tàu hàng lên Kumbel, kiếm dưa bở và dưa hấu. Một chuyến đi thật hạnh phúc. Mãi đến giờ, lũ trẻ vẫn nhớ, như nhớ một ngày hội lớn khó quên. Mọi chuyện như vừa mới xảy ra cách đây mấy ngày. Hôm đó, Edigej và Abutalip ngồi bên nhau, cạnh một cửa toa hé mở cho thoáng gió, trò chuyện đủ mọi thứ trên đời. Bốn đứa trẻ quây quần bên hai ông bố, đưa mắt ngắm nhìn những dãy đất chạy dài hai bên đường tàu. Còn Zaripa và Ukubala thì cũng đang chụm đầu bên nhau, tâm sự đôi điều gì đó. Lúc xuống tàu, họ đưa nhau vào cửa hàng mua sắm, và loanh quanh dạo chơi trên mảnh sân rộng trước nhà ga. Tiếp đó, cùng vào xem chiếu bóng, rồi rẽ sang một hiệu cắt tóc. Lũ trẻ ăn kem. Nhưng nực cười nhất là dù khuyên bảo thế nào, thằng Ermek vẫn khăng khăng không chịu ngồi vào chiếc ghế bác thợ cạo. Chẳng hiểu sao nó quá sợ cái lưỡi tông-đơ bằng thép khi dí vào đầu. Và Edigej nhớ rõ là đúng lúc đó, Abutalip bỗng hiện ra trước cửa hiệu, thằng bé vội vàng lao đến với cha. Anh ôm chầm lấy con, áp chặt nó vào người, như mình là cái mộc che cho con thoát khỏi bàn tay gieo tai vạ của bác thợ cạo. Rồi Abutalip nói là anh sẽ thuyết phục cháu, ít lâu sau hẵng cắt tóc cho nó, chứ bây giờ đành chịu thua. Mái tóc xoăn, đen bóng của thằng bé, từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ vẫn chưa hề biết mùi dao kéo. Bây giờ, bố nó mất rồi, còn biết trông cậy vào ai?

Một lần nữa, không biết là lần thứ mấy, Edigej-Bão Tuyết thử tự cắt nghĩa vì lẽ gì Abutalip lại chết, không nán đợi được đến ngày người ta đem vụ án ra xét xử đến nơi đến chốn. Anh vẫn đi đến kết luận hợp tình duy nhất: đó chính là nỗi nhớ nhung tuyệt vọng hai đứa con trai, đã hủy hoại trái tim người giáo viên tội nghiệp. Chính cảnh chia lìa, mà gánh nặng của nó chẳng phải ai cũng hiểu nổi, chính nỗi đau khổ vì tình cảnh hai đứa con thơ, mà thiếu chúng, anh cảm thấy cuộc sống trở nên vô nghĩa, vì chúng là hơi thở, là nhịp đập của trái tim anh - giờ đây bị cắt lìa khỏi bố, bị bỏ mặc trong số phận trớ trêu, tại một ga xép, giữa thảo nguyên Sarozek hoang vu, khô cằn; chính những cái đó đã giết chết anh...

Tâm trí Edigej vẫn không sao dứt khỏi những ý nghĩ ấy, cả khi anh ngồi trên chiếc ghế dài trong mảnh sân rộng trước nhà ga, đợi Zaripa. Hai người đã ước với nhau là Edigej sẽ chờ người thiếu phụ tại đây, trên chiếc ghế này, trong lúc chị vào gặp ông trưởng ga để nhận thư.

Mới đứng bóng, nhưng tiết trời chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả. Bầu trời thấp lè tè, đầy mây, không sao hửng lên nổi. Từ trên cao, chốc chốc sa xuống khi thì những bông tuyết, khi thì những giọt mưa lạnh, đáp thẳng vào mặt anh. Gió ẩm từ thảo nguyên thổi vào, mang theo hương vị đất ẩm pha mùi tuyết đang tan. Edigej thấy ớn lạnh, khó chịu trong người. Thường ngày, anh thích đúng trò chuyện cùng hành khách ngay giữa cảnh chen chúc, xô đẩy trên sân ga, tuy bản thân anh chẳng đi đâu xa và cũng chẳng hề bận rộn chuyện gì. Còn bây giờ, anh lại phải ngồi yên nhìn cảnh hành khách xuống tàu, chạy đi chạy lại tíu tít trên sân ga, chẳng khác nào ngồi xem một cuốn phim.

Lần này, tất cả những chuyện đó không hề khiến Edigej bận tâm. Anh lấy làm lạ, sao mặt ai cũng lãnh đạm, cũng mờ nhạt, dửng dưng và mệt mỏi, cứ như cố lẩn tránh nhau vậy... Thêm nữa, điệu nhạc từ chiếc loa phóng thanh, đang cất giọng rè rè trước cửa ga, tấu một khúc nhạc buồn, đơn điệu và tẻ ngắt. Nhạc gì ghê thế nhỉ? Sao người ta cứ tấu mãi một điệu ấy? Rồi vang lên khe khẽ giọng nói trang trọng, đĩnh đạc của phát thanh viên. Rồi điệu nhạc ban nãy lại cất lên...

Đã hai mươi phút, có khi hơn nữa, trôi qua, kể từ lúc Zaripa mất hút trong tòa nhà bề thế của ga Kumbel. Edigej bắt đầu lo lắng. Mặc dù chính anh đã hẹn chắc với Zaripa là anh sẽ ngồi đợi cô trên chiếc ghế dài này - chính cái nơi mà lần trước vợ chồng cô và hai thằng bé đã cùng ngồi ăn kem bên nhau - nhưng anh vẫn quyết định ghé vào trong ga, xem thử có chuyện gì không.

Vừa đến cửa, đã gặp cô. Anh bất giác rùng mình. Zaripa nổi bật lên giữa đám đông đang vào ga tấp nập. Vẻ mặt cô hoàn toàn dửng dưng với hết thảy những gì đang diễn ra chung quanh. Tái nhợt như một thây ma, cô lặng lẽ bước đi, mắt chẳng nhìn chẳng thấy, như đang trong cơn mê ngủ, cũng chẳng buồn để ý đến chung quanh, cứ như thể quanh cô chẳng hề có gì đang tồn tại. Cô như kẻ mù lòa đi giữa sa mạc, đầu hơi ngẩng lên, đôi môi đau xót, mím chặt. Edigej dừng lại khi cô đến gần. Zaripa lững thững bước tới, dường như phải lâu lắm cô mới vượt qua được cái khoảng cách ngắn giữa hai người, vẫn cái dáng như đang mơ ngủ, và nhìn cách đi với đôi mắt trống rỗng ấy, Edigej phát hoảng lên. Tưởng chừng cả một thế kỷ đã trôi qua, tối tăm, lạnh lẽo, khắc khoải, đợi chờ, Zaripa mới đến được bên anh, tay cầm mảnh giấy, đựng trong chiếc phong bì với dòng địa chỉ đánh máy như Kazangap đã tả. Và vừa đến nơi, cô đã nói ngay, môi vẫn mím chặt:

- Anh đã biết cả rồi ư?

Edigej chậm rãi cúi thấp đầu.

Zaripa gieo người xuống ghế, đưa hai tay lên bưng mặt và ôm chặt lấy đầu như thể nó có thể vỡ tung ra từng mảnh. Rồi khóc nấc lên cay đắng, rúm ró người lại, phó mặc bản thân cho nỗi tang thương và mất mát. Cô khóc ròng, thu người thành một khối đau khổ, càng lúc càng chìm sâu vào bản thân, vào nỗi đau đớn khôn cùng. Còn Edigej ngồi bên cô, tâm trạng anh cũng hệt như lúc người ta lôi Abutalip đi. Anh sẵn sàng thế chân Abutalip, đứng vào địa vị bạn, hứng chịu hết mọi nỗi đau khổ không chút suy tính, miễn che chở được cho người thiếu phụ, tránh được cho cô cái tai họa tày trời kia. Tuy nhiên, anh hiểu rằng không gì có thể an ủi được cô, cất được gánh nặng trên đôi vai gầy guộc kia, chừng nào cơn xúc động choáng người do nỗi bất hạnh kia mang đến chưa nguôi.

Hai người cứ ngồi lặng như thế trên chiếc ghế dài, trong mảnh sân rộng trước cửa ga. Zaripa khóc ròng, chốc chốc lại nấc lên, và trong một lúc sơ ý, cô đã để vuột mất khỏi tay chiếc phong bì nhàu nát đựng bên trong mảnh giấy ác nghiệt.

Giờ thì ai cần đến nó nữa, mảnh giấy ấy, khi chính con người thật, có tên trong đó, đã không còn nữa? Nhưng Edigej vẫn nhặt chiếc phong bì lên, cất nó vào túi áo. Rồi anh rút khăn tay trong túi mình ra, dúi vào tay Zaripa, ép chặt mấy ngón tay ấy lại cho chiếc khăn khỏi tuột đi, bắt người thiếu phụ phải nâng nó lên, chấm những giọt nước mắt ràn rụa. Nhưng cả việc đó nữa cũng chẳng giúp ích được gì.

Điệu nhạc truyền qua chiếc loa phóng thanh đặt trên nóc nhà ga, như một khúc nhạc tang, buồn khôn xiết. Bầu trời tháng Ba xám xịt, ướt át, sà thấp xuống, chụp trên đầu thị trấn Kumbel. Gió giật từng cơn khiến lòng người càng u ám thêm. Người qua kẻ lại, nếu để mắt đến Zaripa và Edigej, chắc sẽ nhủ thầm: rõ khổ, anh chị chắc lại xích mích gì với nhau đây, xem chừng anh ta chắc đã quá nặng lời với vợ đấy mà... Nhưng hóa ra chẳng phải ai cũng nghĩ thế.

- Khóc đi, khóc nữa đi... Các bạn - một giọng nói đầy thông cảm chợt vang lên bên tai Edigej - Vị cha già kính mến của chúng ta đã tạ thế rồi. Mất Người, chúng ta rồi sẽ ra sao đây?

Edigej ngẩng đầu lên. Trước mặt anh là một thiếu phụ choàng áo dạ thô cũ kỹ của binh sĩ, tay chống nạng. Một chân cưa cụt đến gần sát bẹn. Anh biết bà ta. Đó là một cựu chiến binh, trước làm tại quầy bán vé nhà ga. Người nữ cựu chiến binh nước mắt ràn rụa, vừa chống nạng bước đi vừa nức nở, miệng không ngớt lẩm bẩm: "Khóc đi. Khóc nữa đi. Mất Người, chúng ta rồi sẽ sống thế nào đây?", Rồi vừa nức nở, vừa đi xa dần, kéo lê đôi nạng đã mòn, cặp dưới nách, khiến đôi vai hơi nhô lên một cách thiếu tự nhiên. Cứ sau tiếng "cạch" khô khan của đôi nạng gỗ chạm đất, Edigej lại nghe một tiếng "cộc" vang lên từ chiếc ủng lính cũ kỹ, vẹt gót, độc nhất, của bà cựu chiến binh...

Edigej chỉ hiểu được câu nói của bà ta, khi anh nhìn thấy một đám người bất thần vây quanh trước cửa ga. Ai nấy đều ngước nhìn lên một bức chân dung lớn vẽ Stalin, mặc quân phục, viền băng tang, do mấy người đang bắc thang treo lên ngay giữa cửa chính.

Anh đã hiểu vì lẽ gì điệu nhạc trên đài phát thanh lại ngân lên bi thương đến vậy. Giá lúc khác, anh đã đứng lên, chạy đến bên những người đang vây quanh trước cổng ga, để nhìn xem điều gì đã xảy ra với bậc vĩ nhân mà, nếu thiếu Người, không ai có thể hình dung nổi cục diện thế giới sẽ xoay chuyển ra sao. Nhưng lúc này, nỗi đau khổ riêng tư cũng đã choán hết cả lòng anh rồi. Anh không hề thốt ra một lời nào. Cả Zaripa nữa, chị ch?