- 4 -
LÚC Vũ-Đại đã bắn thêm được năm con chim nữa thì sáu giờ, nhưng vì tháng tư nên chưa tối.
Vầng kim ô quá nửa đã chìm vào cõi hư vô, còn tung những ánh sáng cuối cùng ra đỏ lóe một góc trời. Những đám mây xam xám, xanh xanh, vàng vàng, trắng trắng, bao bọc cả xung quanh như muốn nhuộm lấy màu hồng kia cho được thêm vẻ rực rỡ. Ở nơi chân trời tây, trên những đỉnh núi, màu hồng như đánh đuổi màu xanh mà chiếm lấy ngôi cao...
Nhưng phút chốc, màu hồng cũng dần dần nhạt đi: một bàn tay bí mật như đem tấm màn đỏ phủ dần lên cảnh vật... Bóng hoàng hôn bảng lảng. Các cô cắt cỏ hai vai nặng gánh, các cậu bé chăn trâu trở về cất giọng hát véo von, mấy con vịt sục tìm ở các vũng đã no nê, lắc la lắc lư trở về, tiếng kêu càng cạc. Luồng gió cứ thổi lướt qua những ngọn có xanh rì, không cho ngóc đầu lên. Cảnh hoàng hôn đối với thi sĩ thật là buồn. Nhưng đem câu ấy mà vận cho Vũ-Đại thì rất sai. Con người ta nhìn cảnh vật đều nhìn qua cái cảm giác của mình, cảm giác của mình mà vui thì cảnh buồn tẻ cũng hóa vui. Cảm giác của mình mà buồn thì cảnh vui cũng hoá ra buồn tẻ. Cho nên nói rằng cảnh này vui, cảnh kia buồn đều là không đúng cả.
Tẻ vui bởi tại lòng người mà thôi..
Thằng Minh, thằng Bích nghe tiếng hát, bèn bảo Vũ-Đại hát cho nghe, nhưng Vũ-Đại nào có biết hát. Trong đời ông còn thì giờ đâu mà luyện đến văn thơ. Mà dù có thừa thì giờ thì ông cũng chẳng hề bao giờ xem đến vì một người ưa những điều thiết thực như Vũ-Đại không bao giờ có cái óc mơ màng nó là nguồn thi cảm. Trong khi nhàn rỗi, Vũ-Đại ưa xem sách về khoa học hoặc về triết lý, ông cho là có ích cho sống hơn là những văn thơ véo von.
– Kìa, sao thày không hát đi?
– Thày có biết hát đâu. À, à thày hát câu này cho nghe nhé.
Ông giơ mũ, trông hai đứa con, tươi cười rồi ngâm to:
Này chó Minh cùng chó Bích
Đi bắn với thày có thích hay không?
– Thích, thích, nhưng thế không phải là câu hát. Thầy chỉ hát tầm bậy, tầm bạ, câu hát gì mà lại có chó!
– Ơ, lục bát đúng điệu ra phết mà lại bảo không phải là câu hát, thôi thế thì chịu. Thôi để về nhà bảo me hát cho nghe.
Lúc xe hơi bắt đầu chạy, thằng Bích cởi dây, tháo chim ra rồi chia.
– Con chim gáy này thày đã cho tao rồi, này một của anh Minh, này hai, của em, này ba, của Minh này bốn, của em, này năm …
Một phút nghĩ ngợi.
Ai lấy?
Ai đừng?
Nó lấy chắc thằng Minh không chịu, mà cho thằng Minh thì nó cũng không chịu nào. Khó nghĩ thay! Nó mân mê con chim sẻ đã trụi cả lông, thằng Minh thì chăm chú nhìn nó. Bỗng một câu nói cùng buột ra ở trên miệng chúng hình như cùng phát lộ ra bởi một tư tưởng.
– Thôi để cho me.
Sung sướng thay kẻ làm mẹ.
Thằng Minh, thằng Bích còn đang lấy làm đắc chí thì Vũ-Đại muốn trêu chúng bèn hỏi:
– Thế của thày đâu?
Chẳng nghĩ ngợi, mỗi đưa cho Vũ-Đại một con chim:
– Đây em cho thày một.
– Em cũng cho thày một.
Thằng Minh thấy chỉ còn một con chim sẻ nhỏ xíu thon lỏn trong bàn tay, có ý buồn. Nó nhìn con chim gáy của thằng Bích có ý ghen tị:
– Thày ơi, em Bích một mình có «những» một con chim gáy to tướng …
– Thày cho một mình em mà.
Vũ-Đại đàn giải
– Thôi, thày cũng chả lấy, me cũng chả lấy, các con cũng đừng giữ lấy một mình, đem về bảo bếp nó quay rồi thày me với các con cùng ăn.
Thằng Bích không bằng lòng. Nó yên trí rằng con chim cu kia đã là vật sở hữu của nó thì không thể đem chia cho ai được.
– Chim sẻ quay rồi thì ăn chung, nhưng chim cu phải để riêng cho mình em ăn, không chia cho ai cả.
– Sao con tham ăn thế?
– Của em thì mình em ăn!
– Thế cái xe hơi này của ai?
– Của thày.
– Thế sao thày vẫn muốn cho con, cho anh con và cho me con đi. Nếu thày cũng nghĩ như con chiếm lấy một mình thì ba mẹ con lấy gì mà đi? Xe hơi này tuy là thày mua, nhưng là của chung: Của các con, của me con. Nhà cửa, tiền nong, đồ đạc cũng thế cả, của chung tất. Con chim cu này có đáng là bao nhiêu mà con lại muốn chiếm lấy một mình, thế con không thương anh, thương thày me à?
Thằng Bích thở dài:
– Thôi thế … thì cùng ăn vậy.
Kể lý luận thế thỉ trẻ con thật, những đối với trẻ con không thể dùng những lý luận người lớn. Kiến thức hẹp hòi nông nổi của trẻ con chưa có thể hiểu được những lý luận quá khó khăn, ta chỉ cần tìm những lý thuyết có thể đưa nó vào con đường phải là được rồi.
Dạy dỗ đứa trẻ tỉ như trồng một cái cây: Lúc bé, lúc lớn, mùa đông, mùa hạ, sự săn sóc không thể đồng nhau được, phải tùy thời mà thay đổi, miễn sao cây kia sinh ra được hoa thơm, quả ngọt là đạt được mục đích.
Xe hơi về đến cầu sông Cái thì trời tối. Thành phố Hanoi lúc ấy trông như một cảnh quần tiên dạ yến mà những đèn điện chạy suốt một dãy phố bờ sông là những ngọn đèn lưu ly làm cho sáng rực một góc trời.
Xe hơi theo đường bến Nứa, qua đường Cổ Ngư rồi cứ theo đường tàu điện mà lên Thụy.
Xe mới đậu ở trước cửa, một thiếu phụ trạc hai mươi bốn, hai mươi lăm, mặc toàn trắng chạy ra đón vui vẻ:
– Ba cha con đi đâu về tối thế? phạt cơm đấy nhé.
Thằng Minh, thằng Bích nhảy xuống nói tíu tít:
– Này chim cho me này, này «cu cu» này.
– Me ơi, con Lu nó làm ngã em.
Rồi chúng nó mỗi đứa nắm một tay mẹ lôi vào nhà.
★
TÒA nhà này có ba tầng
, làm theo lối kiến trúc mới qui mô thì theo khoa học của thái tây mà sự trang điểm bề ngoài thì theo mỹ thuật của Trung Hoa.
Nhà quay lưng ra mặt hồ Tây, ngoảnh mặt ra đường. Xung quanh là vườn rộng độ ba mẫu, trồng toàn cây ăn quả, cành lá rườm rà. Những cây có hoa và những cây cảnh trồng cho vui mắt rất ít, chẳng qua thưa thớt mấy bụi hồng, mấy khóm huệ, năm ba cây mào gà, dâm bụt. Đủ biết chủ nhân chỉ ưa sự thực tế có ích lợi hơn là những sự phù phiếm, dẫu sự phù phiếm có đem lại cho ta vẻ mỹ quan. Ở phía sau liền ngay với hồ có một khu đất rộng độ hai sào để trống, có đủ các khí cụ tập thể thao. Ta đứng ở đấy, tưởng chừng đến một góc sân trường thể dục, nào barre fixe, nào barres parallèles, nào thang leo, nào đu dây. Nhưng một điều lạ là xen vào với những thứ đồ tập người lớn lại có đủ barre fixe, barres parallèles, khuôn khổ làm cho trẻ con tập. Gần đó có một cái nhà bát giác ; trong ấy bàn ghế bày biện khuôn khổ theo trẻ con cả. Khắp vườn, đường đi đều trải sạn coi rất sạch sẽ. Nhà này ba tầng thì tầng dưới xây hơi thấp để cho gia nhân đầy tớ ở. Tầng trên dùng làm buồng ngủ. Tầng giữa chia ra làm ba khu. Gian giữa vừa rộng, vừa dài là phòng khách bày biện theo lối Tây. Bên trái là phòng ăn và có một phòng khách nhỏ bày theo lối ta. Khu bên hữu có ba buồng nhỏ. Khu này để riêng cho thằng Minh, thằng Bích. Ba buồng đều có cửa thông với nhau. Phòng giữa là phòng khách riêng để cho chúng nó tiếp các bạn bé con. Bốn cái ghế bành, một cái bàn và một cái đi-văng bé vừa khẳm cho chúng nó ngồi trông thật là xinh. Đệm, gối ở trên cũng tương đương với bàn ghế hình như đã thửa riêng cho chúng, thêu những hình thuộc về khoa học, nào súng trái phá, xe tăng, xe lửa … Trên tường treo các tranh ảnh ngộ nghĩnh rất thích hợp với tính tình trẻ con, cùng các ảnh chụp chúng từ lúc bé cho đến ngày nay để kỷ niệm cái đời dĩ vãng của chúng. Đối diện với cửa thông ra phòng khách, ở giữa tường là một bức ảnh truyền thần thật to của Vũ Đại và vợ.
Mỗi khi có đứa bạn nào đến chơi, thằng Bích thằng Minh thường trỏ vào mà bảo:
– Đấy, ảnh thày me tao đấy. Mày xem có cừ không?
Chúng nói với một vẻ tự đắc.
Bên trái buồng này là buồng học của chúng. Giữa buồng là hai cái bàn nhỏ làm theo lối bàn giấy tân thời cùng hai ghế xoay nhỏ có đệm lò-xo bọc da. Đối điện là cái bảng đen và cái bàn lớn: chỗ Vũ-Đại ngồi để chúng học. Xung quanh tường treo toàn các bức địa đồ và tranh ảnh dùng cho học trò các trường. Giáp tường kê la liệt nhưng tủ kính đựng toàn sách. Đại để buồng này là một buồng giấy của người lớn rút nhỏ lại.
Ở bên phải buồng khách là cái buồng nhỏ bày đủ các thứ đồ chơi, nhưng toàn đồ chơi có tính cách khoa học, từ thằng người leo đu, cho đến cái máy chớp bóng pathé baby! Cưa, dũa, đục, xe lửa đều chạy bằng một cái máy điện tự động nhỏ. Ở giữa là cái bàn ping-pong hai đầu kê hai cái bục nhỏ để cho vừa tầm chúng đứng. Nếu thày me chúng có đánh với chúng thì chỉ phải cất một cái bục đi là đủ.
Lúc ba cha con Vũ-Đại vào tới phòng khách thằng Bích liền bỏi:
– Me ơi, cơm đã chín chưa? Em đói lắm rồi.
-Cơm chín rồi, nhưng con trai mẹ phải rửa chân tay thay quần áo đi đã chứ.
– Mợ đã pha thuốc tím để rửa cái nhọt cho nó chưa?
– Đã.
Hai đứa ở gái vội vã đón chúng đưa đi tắm rửa. Lúc vào phòng ăn thì chúng đã súng sính trong hai bộ kimono bằng nhiễu màu sặc sỡ, nhác trông như hai con bướm. Hai cái ghế nhỏ có khớp vặn cao thấp đã để riêng cho chúng. Chúng ngồi ăn ngoan ngoãn y như là người lớn. Vú Minh, Vú Bích bữa nào cũng đứng đằng sau để xem chúng nó có sai bảo gì.
Cơm xong kéo cả ra buồng khách. Minh, Bích xúm lại nói chuyện với mẹ. Còn Vũ-Đại thì ngồi xem báo.
Chuyện chán, thằng Minh rủ thằng Bích đánh cờ. Thằng Minh giữ hùm thua luôn hai ván, bèn bảo mẹ:
– Mẹ phụ với con, thua luôn 2 bàn mất hai xu rồi.
Rồi lôi mẹ bắt ngồi xuống cạnh. Thằng Bích không chịu, đuổi mẹ đi. Nhưng thằng Minh nhất định không nghe, cứ giữ mẹ lại. Thằng Bích liền cầu cứu:
– Thày ơi, mẹ chỉ anh Minh thì thày lại đây chỉ con.
Ta trông bốn cái đầu châu vào nhau dưới ánh sáng rực rỡ của mấy ngọn đèn trăm nến, ta trông bốn khuôn mặt tươi tốt vui vẻ ở trong gian phòng lộng lẫy ấy, ta tưởng chừng như bao nhiêu sự sung sướng ở trên đời, trời đã góp cả lại đem ban cho gia đình này.
Thằng Bích nhờ bố chỉ, vây ông hùm thằng Minh chặt cứng trong hang, nó cầm đồng xu đút vào túi rồi đắc chí leo lên lòng bốngồi, cười khanh khách:
– Em với thày cao cờ lắm, chứ me với anh Minh «cà mèn» lắm.
Thằng Minh tức:
– Thế em giữ hùm xem nào?
Thằng Bích lắc đầu.
– Thế mà nó dám nói «tướng» mẹ nhỉ.
Rồi nó cũng sà lên lòng mẹ.
Mẹ nó bá cổ hôn:
– Con có yêu mẹ không?
– Mẹ cứ hỏi lẩn thẩn, chẳng yêu mẹ thì yêu ai?
– À thế mẹ hỏi: Thầy, mẹ, con yêu ai hơn?
– Em yêu mẹ hơn, em yêu thày hơn.
– Mẹ hơn, thày hơn, cùng hơn cả!
Đồng hồ gõ tám tiếng. Vũ-Đại bèn nói:
– Thôi đi học chứ, tám giờ rồi.
Thằng Minh còn nóng «báo thù», muốn đánh nữa, dùng dằng chưa muốn đi.
– Thôi chịu khó đi học đi rồi mai mẹ cho đi xem hát
Khi thằng Minh thằng Bích đã vào buồng, học rồi, Vũ-Đại nghiêm mặt trách vợ:
– Mợ không biết dạy con, cái bổn phận của chúng nó là phải học, hà cớ gì lại phải bảo như thế?
– Thì nói cho con nó mừng để nó vui lòng mà đi học, có làm sao?
– Ấy, những cái mừng, cái vui ấy nó sẽ mở đường cho những thói xấu sau này. Ví dụ lần này bảo cho nó đi xem hát để nó học thì lần sau nó muốn đi xem hát, nó lại làm nũng không chịu học. Một lần như thế, hai lần như thế, ba bốn lần như thế, rồi nó yên trí sự học là một việc khổ cần phải thưởng, có phải hư thân mất nết đi không? Muốn cho đi xem hát hỏng thì cứ cho đi thứ năm, chủ nhật hai lần ban ngày. Nhưng học thì cứ bắt nó học để cho nó yên trí sự đi xem hát bóng với sự học, hai thứ cũng như nhau. Trẻ con cần phải đào tạo cho nó những thói quen tốt. Những thói quen ấy có ảnh hưởng rất sâu xa về sau này. Mợ cứ xem như tôi thì biết. Một cái thói nhỏ vặt có từ tấm bẻ mà tám chín năm trời mới bỏ được thì mợ đủ hiểu thói quen là cái bản ngã thứ hai. Trước kia lúc chúng nó còn bé, mỗi khi khóc, mợ cứ đem kẹo cho ăn thì chúng nó mới nín. Mợ có biết tại làm sao không? Là bởi trước kia, mỗi lần chúng nó khóc mợ cứ lấy kẹo dỗ chúng nó. Tôi đã tốn bao nhiêu thì giờ mới trừ được những tính hư ấy.
– Khốn, nhưng trông chúng nó khóc, thương lắm.
– Thương thế không phải là thương.Thương không phải đường là hại con đấy.
Những câu nói có ý nghĩa ấy giá khéo điều khiển chêm vào một giọng âu yếm, thì người vợ nào chẳng phải vui lòng nghe. Nhưng nói một cách lạnh lùng quá thành thử người nghe phải buồn, cho là có ý trách mắng mình. Vũ-Đại là người ngay thẳng có ngờ đâu đến chỗ u ẩn ở trong tâm lý. Mà bà Vũ-Đại, có phải là người có can đảm nghe nói những lời thực ấy đâu!
Cái đó cũng không thể trách bà được, vì bà chỉ là một người đàn bà, mà lại là một người đàn bà đa cảm.
Tình cảm chính là cái máy tự động nó sai khiến những tư tưởng và hành vi của phái yếu.
Đàn bà con gái thường xử theo tình, ít xử theo lý.
Thế cho nên muốn cho người đàn bà theo ý muốn của mình, phải làm sao đoạt được tình cảm của họ đã. Tình cảm của người đàn bà khó hiểu lắm, bí mật lắm. Nó thường thay đổi luôn. Có khi nó làm cho họ tối tăm đi mà cũng có khi nó làm cho họ sáng suốt ra. Ta thấy lắm người đàn bà rất thông minh mà làm lắm điều rất dại dột đến nỗi chỉ lấy một chút thông minh của họ khiến lý trí của họ mờ tối đi, không xét đến lẽ phải nữa. Thường thường, đàn bà đã ưa người nào thì dù người ấy trái cũng cho là phải, mà đã không thì dù người ấy phải cũng cho là trái.
Bà Vũ-Đại là người lắm tình cảm. Bà nghe chồng nói mà bà buồn là vì chồng bà chỉ đem những lý luận mà lý luận với thông minh của bà, chứ không hỏi gì đến tình cảm của bà cả. Bà tuy là người có học thức, nhưng sự học thức chỉ là những khí cụ để mở mang cho sự thông minh, chứ không phải là những ánh sáng để chỉ nẻo đưa đường cho tình cảm. Vẫn biết rằng có thông minh thì mới có biết suy xét, nhưng khi tình cảm đã sôi nổi lên đến cực điểm thì đừng có nói đến suy xét nữa.
''La Femme est éternellement enfant'' – ''Người đàn bà vĩnh viễn là trẻ con''. Câu nói kia nghĩ cho cùng ra rất là có lý, mà lại bao hàm nhiều sự xét đoán rất đúng nữa.
Thật, đàn bà họ rất quan tâm đến những cái nhỏ nhặt mà trong gia đình, người chồng thường vì không để ý chiều vợ những cái nhỏ nhặt ấy nên thành ra xích mích. Muốn cho một người đàn bà được hài lòng với ta, phải coi họ như một con chim non cần phải sống dưới đôi cánh ấm áp của người mẹ. Cái tính tình cao thượng, cái bản lĩnh ngay thẳng, cái khí phách trượng phu đối với họ sẽ không có ý nghĩa gì, nếu ta không biết chiều họ những cái nhỏ nhặt để cho họ yên trí rằng lúc nào ta cũng để ý đến họ. Chỉ những cái nhỏ nhặt ấy là đối với họ có giá trị, là làm cho họ cảm động.
Ta thấy nhiều người tinh thần, hình thức rất khá mà bị vợ đi ngoại tình với một kẻ tinh thần, hình thức kém mình, ta cũng đừng lấy làm lạ. Cũng như đứa trẻ con bao giờ nó cũng thích cái áo lòe loẹt, dù cái áo ấy chỉ bằng giấy, là bởi màu sắc ấy làm cho nó thích mắt cũng như sự chiều chuộng nhỏ nhặt đã làm cho đàn bà thích tình.