- 3 -
TRONG gần một năm trời, Lê-Thành-Vân đã nghiệm thấy rằng bà Vũ-Đại đối với chồng rất là kính nể, nhưng hình như không yêu một cách nồng nàn, tha thiết. Ông lại nhận thấy mấy tháng gần đây, bà thích nghe truyện của mình lắm. Tuy thế, ông cũng vẫn còn rụt rè chưa dám ngỏ nỗi lòng với bà Vũ-Đại. Một là vì chưa có cơ hội, hai là lỡ mình xét đoán sai lầm. Nhất đán nói ra, bà Vũ-Đại không bằng lòng, nói với chồng thì nguy to. Một người chồng như Vũ-Đại không thể coi thường trêu vào được.
Gia dĩ, ông lại ít thì giờ, chỉ có thứ năm, chủ nhật mới có thể lại nhà Vũ-Đại. Thứ năm, ông phải đi làm chỉ có thể đến buổi tối một lúc. Còn chủ nhật thì bao giờ Vũ-Đại cũng có mặt ở đấy.
Từ khi ông về Hà-Nội, thấy cách ăn tiêu của Vũ-Đại sang trọng quá, ông sợ cứ đeo cái xe đạp thì bà Vũ-Đại có khinh chăng nên ông phải nhắm mắt vay cào vay cấu mua một chiếc xe hơi hai chỗ ngồi.
Đã là người ham chơi, lại có ô-tô nối thêm chân, Lê-Thành-Vân đã túng lại càng thêm tứng: chưa cuối tháng đã hết tiền.
Nhưng ông vẫn hi vọng một ngày kia được bà Vũ-Đại yêu thì tha hồ dư đật.
Có mấy lần, Lê-Thành-Vân mời hai vợ chồng Vũ-Đại đi ăn cơm, nhưng chỉ có Vũ-Đại nhận lời lấy cớ rằng không thể để thằng Minh, thằng Bích ở nhà một mình được. Nhiều lần Lê-Thành-Vân muốn cho cả chúng đi, nhưng Vũ-Đại lấy cớ trẻ con không thể xô bồ với người lớn.
Lê-Thành-Vân ngầm xét biết bà Vũ-Đại có nhiều mỹ cảm với mình, nhưng thiếu cơ hội, nên chưa có dịp mà bộc bạch tâm sự.
Thì một hôm cơ hội đến.
Một hôm Lê-Thành-Vân đến nhà Vũ-Đại thì chỉ thấy có một mình bà Vũ-Đại ở đấy.
– Bác đã lại.
Chẳng chào, Lê-Thành-Vân hỏi ngay:
– Bác trai đâu?
– Nhà tôi vừa được dây nói ở hàng Kèn gọi có việc gấp. Nhà tôi đi ngay, chẳng biết việc gì.
– Thế Minh, Bích dâu?
– Hai cháu đi chơi đường Cổ-Ngư với cô chú cháu.
– Thế ra vợ chồng bác Tham Liễn đã đến rồi à?
– Cô chú nó đến từ tám giờ, vừa mới dẫn các cháu đi chơi khôi.
Trong một năm nay, Lê-Thành-Vân đến chơi, bao giờ Vũ-Đại cũng có mặt ở phòng khách, nên muốn nói gì cũng không thể đưọc. Giản hoặc, đôi khi có ngồi một mình vời bà Vũ-Đại trong năm ba phút, nhưng vì ít thì giờ quá, nói ra sợ không kịp. Trong những trường hợp ấy, nếu không đắc thắng thì nguy. Vì vậy, Lê-Thành-Vân muốn ngỏ lời mà dùng dằng gần một năm, chưa có cơ hội nào ngỏ được.
Tuần nào Vũ-Đại có đi đâu vắng, thường bảo cho Lê-Thành-Vân biết chủ nhật ấy, chủ nhật nọ mình không có nhà. Vũ-Đại cứ tưởng Lê-Thành-Vân vì mình mà đến chơi, chứ có biết đâu Lê-Thành-Vân đến vì vợ mình.
Mỗi lần Lê-Thành-Vân được tin ấy là mỗi lần buồn rũ, tuy biết bà Vũ-Đại ở nhà một mình mà cũng không dám lại. Nếu cứ liều đến, nhất đán gia nhân hay Minh, Bích bép xép mà Vũ-Đại biết thì tất sinh nghi.
Mà Vũ-Đại đã nghi thì hết hi vọng. Vì thế nên Lê-Thành-Vân đành phải nén lòng.
Lần này, thấy có một mình bà Vũ-Đại, Lê-Thành-Vân bèn không muốn để cho một cơ hội hiếm có bay đi, nên khi chén nước bà Vũ-Đại rót mời, ông chưa kịp uống, đã khởi thế công:
– À thế nào, bài thơ «Xuân Cảm» của tôi đăng ở báo Phụ-Nữ hôm qua, có được không hở bác?
– Hay. Hay lắm. Nhưng sao vịnh xuân mà giọng buồn đến thế khiến cho người xem phải não ruột. Bác thì buồn gì?
Lê-Thành-Vân bèn làm bộ âu sầu cúi đầu xuống vê cái khăn trải bàn một lát, rồi mới ngửng đầu nhìn bà Vũ-Đại mà nói bằng một giọng thất vọng:
– Tôi buồn lắm bác ạ. Buồn chết đi được. Những khi đêm khuya, đốt ngọn đèn nghĩ đến nỗi niềm không sao cầm được nước mắt. Nhưng một mình mình biết, một mình mình hay, nào ai thấu đến cho mình.
Lê-Thành-Vân nói đến đấy lại nhìn bà Vũ-Đại như có ý trách móc:
– Tôi đau đớn trong gần một năm nay một thứ đau không thể tả ra được. Nhiều lúc tôi không muốn nghĩ đến, nhưng không thể được, Bác xem tôi độ này có phải hốc hác hơn năm ngoái nhiều không? Cứ thế này mãi thì tôi không thể sống được, bác ạ.
Lê-Thành-Vân thở dài, cúi mặt xuống, đầu nghẹo hẳn sang một bên như là buồn rầu thất vọng lắm. Bao nhiêu sức lực như đã bị nỗi sầu kia thu hết, cái cổ dường như không còn đỡ nổi cái đầu nữa.
Bà Vũ-Đại thấy thế bèn hỏi:
– Tôi thiết tưởng cảnh bác chẳng có gì là buồn cả.
– Phải, người đời họ tưởng thế mà bác cũng tưởng thế, tệ thay! Cái sầu, cái khổ, cái đau, cái đớn ở trong trái tim này, ai có biết cho đâu (Lê-Thành-Vân vừa nói vừa lấy tay chỉ vào ngực). Tôi khổ sở lắm, bác ạ. Nhiều khi tôi thấy những đám ma đi qua đường, tôi tự hỏi sao tôi không theo họ xuống nằm ở dưới ba tấc đất cho rồi còn đeo một cõi đời thất vọng làm gì? Tôi thấy đời tôi không còn một chút sinh thú nào. Nhiều lúc tôi muốn cắt cổ, cắn lưỡi chết ngay đi cho xong, nhưng nghĩ rằng nỗi tâm sự trong lòng chưa tỏ cho ai biết (Lê-Thành-Vân nhìn chăm chăm vào bà Vũ-Đại) thì chết, nhắm mắt làm sao cho được?
– Ai mà làm cho bác buồn đến thế?
– Ai? Ai, ôi! Nếu tôi có thể nói ra được thì còn nói gì? Khốn khổ cho tôi, tôi lại đứng vào cái địa vị không thể nói được, nên chỉ có thể như Mộng-Hà xưa kia đem những giọt máu hồng ở trong trái tim tả thành những bài thơ sầu thảm để giải bày cho ai biết mà thôi. Nhung nghĩ cho cùng, Mộng-Hà còn sung sướng hơn tôi nhiều, chàng còn được người yêu hạ cố tặng lại mấy bài thơ, còn tôi... còn tôi nào có được một lời an ủi. Nếu tôi có thể giật được quả tim trong ngực ra cho bác xem thì bác mới biết được nỗi buồn rầu, đau đớn của tôi, tôi đau đớn không biết chừng nào mà...
Bà Vũ-Đại hình như cảm động:
– Ổi, cái buồn ở đời ai mà chẳng có, cứ gì bác?
– Phải đời là một biển thảm chất ngất những nổi buồn rầu, nếu không thế sao con người ta lúc mới sinh ra đã mở miệng khóc. Tuy buồn vậy, nhưng nếu ở đời này mà gặp một người tri kỷ hiểu cho nhau thì cái buồn đó chính là hạnh phúc, bởi vì nhờ có cái buồn đó ta mới hiểu lòng nhau.
– Bác nói hạnh phúc, tôi tưởng hạnh phúc chỉ là câu nói cửa miệng, không bao giờ hiện ra sự thực được. Nó chỉ ở trong mộng tưởng.
– Sao lại gọi là mộng tưởng. Mộng tưởng hay sự thực cũng ở như mình. Phải có cái can đảm ra nắm lấy hạnh phúc. Phải biết đau xót vì nó. Phải có lòng tín ngưỡng ở nó. Thứ nhất phải có lòng tín ngưỡng. Tôi tưởng như tôi, trong đời nếm trải bao nhiêu mùi cay đắng cơ hồ không còn biết sống làm vui nữa, tôi đang coi cái chết là vị thuốc cứu cánh để thoát nợ thì bỗng trời run rủi cho gặp... một người. Tôi bỗng nổi lòng tín ngưỡng, tôi tin rằng người ấy sẽ mang lại cho tôi cái hạnh phúc hằng ao ước. Tôi hình như thấy ai một ánh sáng hi vọng nẩy nở ở trong lòng, rồi hình như nghe thấy một tiếng gọi ở đâu đâu, rồi tôi tưởng chừng như đã nắm cái hạnh phúc ở trong tay. Rồi từ đấy, trong người tôi bỗng đột khởi lên một sức mạnh huyền bí nó bắt tôi phải yêu, phải yêu để mà sống, phải khổ để mà yêu. Tôi lấy sự hi sinh đời tôi cho người ấy làm hạnh phúc thứ nhất ở đời. Ôi, hạnh phúc, hạnh phúc nó có phải ở tòa lâu đài lộng lẫy này đâu, nó có phải ở như những đồ đạc quí giá này đâu, nó có phải ở như chiếc Talbot tám máy kia đâu? Nó có phải ở như tháng lương hơn trăm bạc của tôi đâu? Nó ở như cõi lòng, ở như trái tim. Trái tim đã yêu thì nhìn cái gì cũng là hạnh phúc cả. Trăng trong, nước biếc, sương núi, mây ngàn. Nó hiển hiện ra ở trong cái không khí của người yêu. Lúc đêm khuya tôi được đứng nhìn cái cửa sổ buồng người yêu ngủ, tôi cho là hoàn toàn hạnh phúc.
Bà Vũ-Đại nghe Lê-Thành-Vân nói tưởng chừng như nghe một đoạn tình sử ở trong truyện. Bà cứ ngồi im cúi mặt xuống, Lê-Thành-Vân lại nói tiếp:
– Ôi! loài người ích kỷ, loài người khốn nạn đã đem bao nhiêu là đạo đức, là danh giá, bao nhiêu câu sáo, mép, bao nhiêu là luật lệ ngu si, chế độ khốc liệt làm cho giảm thi vị cuộc đời đi. Đi đến đâu cũng điếc tai về những câu: «bổn phận, đạo đức». Bổn phận là gì? Bổn phận loài người là gì? Là phải thờ những cái gì cao thượng, những cái gì vĩ đại, những cái đẹp đẽ. Mà cái gì cao thượng, cái gì vĩ đại, cái gì đẹp đẽ cho bằng: hi sinh một đời mình cho người mình yêu.
– Thế nhưng mà...
– Đã là cao thượng, đã là vĩ đại, đã là đẹp đẽ thì không có: «thế nhưng mà». Yêu là nhất, là tuyệt đích, là cứu cánh. Nó là cái nguồn tối cao sinh ra can đảm, sinh ra những cái nên thơ …
– Nhưng mà sống ở đời cũng phải theo thói đời chứ chẳng lẽ...
– Ồi, thói đòi, thói đời. Nó có hai cách: một cái thói đời đê bèn, nhỏ nhặt là sống chết về danh lợi, về những cái nhà to đẹp như cái nhà này, một cách nữa cao thượng hơn là sống về tinh thần, là sống về quả tim đó. Bác đã xem nhiều sách, tất bác cũng rõ, nào có ai dám bảo thế là đê hèn, nào có ai dám cho ái tình là nhơ nhuốc? Ôi, thói đời, những cái thói đời ô trọc đã vẽ vời ra bao nhiêu chế độ khốc liệt để chia rẻ hai quả tim nó muốn yêu nhau. Nó đã ngăn cản không cho hai người họ đã muốn sống vì nhau trong vòng tình ái rực rỡ. Nhưng dù loài người làm thế nào, ái tình bao giờ cũng vẫn thắng, hoặc một năm, hoặc năm mười năm. Mà đã đến lúc ấy thì không còn sức mạnh gì ngăn cản được nữa. Sấm sét chẳng sợ, búa rìu cũng chẳng kinh.
Bà Vũ-Đại lặng im, cúi đầu nghĩ ngợi. Lê-Thành-Vân tiến lại nắm lấy tay. Bà Vũ-Đại vội vàng rụt tay lại nói:
– Sao bác lại thế, lỡ nhà tôi biết thì còn ra thế nào?
– Biết thì bác ấy đâm, chém, băm vằm, mổ xẻ tôi ra là cùng, chứ cấm thế nào được lòng tôi yêu mình, cấm thế nào được óc tôi không nghĩ đến mình, móc thế nào được hình ảnh mình ở trong trái tim tôi ra? Mình ơi! Tôi phải chết, tôi phải chết, vì tôi yêu mình mà chết, nhưng trước khi tôi chết, tôi muốn được mình yêu …, nghe câu nói cuối cùng của tôi: yêu mình mà chết. Ôi, tôi phải chết, sống ở trên đời mà không được mình yêu thì sống để làm gì?
Lê-Thành-Vân nói đến đây, bỗng khóc nức nở, mắt đầm đìa những lệ. Khéo thay, tấn kịch ông đóng thật là hoàn toàn, thật là một tay tài tử đóng tấn kịch đời giỏi hơn một tay nhà nghề đóng trò ở trên sân khấu.
Ông thấy bà Vũ-Đại dường như cảm động, ông liền xích lại gần nắm tay bà để lên mặt như cầu bà đùm bọc. Lần này bà Vũ-Đại không rút tay lại nữa. Bà Vũ-Đại thấy trái tim đập mạnh, máu nóng đưa lên mặt, hai mắt hoa lên, trong người như mất hết nghị lực, không tự chủ được nữa. Lê-Thành-Vân vừa muốn bá lấy cổ bà để hôn thì tiếng xe hơi xình xịch đã đến ngay trước cửa. Bà Vũ-Đại liền vùng đứng dậy, đẩy mạnh Lê-Thành-Vân mà chạy sang buồng ăn.
Dù sao, cái bước khó nhất, Lê-Thành-Vân đã bước được rồi. Mà cái bước nguy hiểm nhất, bà Vũ-Đại cũng đã bước rồi.