Chương 14 Giám Mục Lê Hữu Từ - Cố vấn chính phủ-
Ngay sau khi phái đoàn Việt Nam Công Giáo Quốc do linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo vào gặp ông Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ Phủ, tôi liền từ Hà Nội về Phát Diệm để phúc trình lên Đức Cha Lê Hưu Từ về cuộc gặp gỡ này, đặc biệt là vụ Đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và biến thành Hội Nghiên Cứu Mác Xít. Cũng như việc ký thỏa hiệp cộng tác giữa Việt Minh và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) do ông Hồ Chí Minh ký với cụ Nguyễn Hải Thần.Và việc ông Vũ Hồng Khanh cùng một số quân Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Trung Hoa kéo về Hà Nội và nhất là việc báo của các đảng phái Quốc Gia đả kích rất mạnh Mặt Trận Việt Minh ở Hà Nội.
Việc độ đốc D’Argenlieu, Cao Ủy của Pháp tời Sài Gòn với đoàn tùy tùng và nhân viên, cùng việc quân đội Pháp tiến chiếm các thành phồ ở miền Nam Việt Nam. Và việc một phong trào chia rẽ Nam Bắc được phát động ở Sài Gòn, đòi tách rồi Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, đã được phân tách rất kỹ càng. Một điều gây nhiều chú ý là Đô Đốc D’Argenlieu, mới từ Pháp sang Sài Gòn nhậm chức Cao Ủy Pháp cũng là một thầy dòng khổ tu (Trappist) như Đức Cha Lê Hữu Từ.
Được biết ngày 24 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ra Vịnh Hạ Long gặp D’Argenlieu và đến ngày 19 tháng 5 năm 1946, D’Argenlieu tới Hà Nội thăm Hồ Chí Minh, Việt Minh ra lệnh treo cờ, gọi là mừng ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, nhưng sự thật là treo cờ để tiếp đón D’Argenlieu Cao Ủy Pháp ở Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 năm 1947, đô đốc D’Argenlieu giải ngũ, và trở về Pháp sống đời thầy dòng khổ tu như trước.
Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ ý muốn lên Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh, trước hết để đích thân cám ơn ông ấy đã cử phái đoàn chính phủ về dự lễ tấn phong giám mục của ngài và sau nữa để thảo luận về tình hình đất nước và ngài cử tôi lên Hà Nội ngay để gặp Phạm Văn Đồng, yêu cầu Đồng dàn xếp một cuộc tiếp kiến của ngài với ông Hồ Chí Minh.
Ngày mồng 6 tháng 11 năm 1945, Đức Cha Lê Hữu Từ cùng với cha Nguyễn Gia Đệ (hiện nay ở Montreal bên Canada) đã tới Bắc Bộ Phủ, và Hồ Chí Minh đã tiếp phái đoàn hết sức nồng hậu và có vẻ chân thành. Sỡ dĩ tôi nói tới thái độ chân thành của họ Hồ đối với phái đoàn, không biết là thật hay giả dối, vì trong câu chuyện nói với Hồ Chí Minh, Đức Cha Từ đã tỏ ra sự chân thành của một thầy dòng khổ tu, nói thẳng và nói thật điều ngài nghĩ, và nhất là tỏ ra lòng hăng say của ngài đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam. Ngài cũng không ngần ngại kể luôn cả câu chuyện đô đốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp cùng là một thày dòng khổ tu ở bên Pháp cùng một chi dòng với ngài.
Sự tiếp đón nồng hậu của họ Hồ đối với phái đoàn, có thế do việc Phạm Văn Đồng phúc trình đầy đủ về thân thế, sự nghiệp của Đức Cha Lê Hữu Từ và lòng hăng say của Công Giáo Phát Diệm nói riêng và Công Giáo Việt Nam nói chung đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho đất nước. Đây là những điều mà Phạm Văn Đồng đã nhận xét thấy và được nghe biết trong chuyến Đồng về Phát Diệm trong 6 ngày nhân dịp lễ tấn phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ và Đại Hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.
Trong cuộc tiếp kiến này, Hồ Chí Minh đã nhân danh chính phủ mời Đức Cha Lê Hữu Từ vào Hội Đồng Cố Vấn của Chính phủ sau Cựu Hoàng Bảo Đại, và hứa sẽ đáp lễ bằng một cuộc về viếng thăm Phát Diệm. Đức Cha Lê đã nhận lời mời của Hồ Chí Minh vào Hội Đồng Cố Vấn và ngài tỏ ra vẻ hân hoan được đón tiếp ông Hồ tại Phát Diệm.
Cuộc vi hành của Hồ Chí Minh về Phát Diệm thăm Đức Cha Từ và phủ dụ đồng bào ở Phát Diệm đã diễn ra một cách hết sức đột ngột, và ngay đến Ủy Ban Hành Chánh địa phương do Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lãnh đạo cũng không được thông báo gì hết. Khi ông Hồ về thăm Phát Diệm, tôi đang bận công tác tại Hà Nội, nên xin trích sau đây bài tường thuật của cuộc viếng thăm ấy, được ghi ở trang 86 trong quyển sách ‘Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945 - 1954’, tác giả là Linh mục Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn và hiện nay quyển sách này đã được tái bản ở Hoa Kỳ và có bầy bán ở các tiệm sách Việt Nam trên khắp các tiểu bang.
..........
"…Thấy tình hình căng thẳng giữa Công Giáo Phát Diệm và chính quyền (địa phương) có thể nguy hại đến chính sách của Việt Minh, nên Hồ Chí Minh, vẫn theo đuổi chính sách mềm dẻo đối với Công Giáo, đã thân về Phát Diệm thăm Đức Cha Lê và phủ dụ đồng bào.
Ngày 25-01-1946 trời lạnh gió rét, cũng là ngày sau cùng của tuần tĩnh tâm hàng năm của các linh mục Phát Diệm. Ông bô Kế giữ cửa nhà chung Phát Diệm chạy vào trình Đức Cha:
''Bẩm Đức Cha, có ông nào muốn vào hầu Đức Cha có việc gì, ông đội mũ, chống gậy, mặc áo bốn túi… Ông đã vào tới đây’'.
Đức Cha quay ra hô lên:
'‘A! Cụ Hồ đã cho tin giãn không về mà…’ (vì sau bức điện tín Ô. Hồ báo tin về thăm Phát Diệm, một điện tín khác nói: không biết có về được không?)
Đức Cha đưa Hồ Chí Minh lên phòng riêng đàm luận. Trong khi đó các linh mục tụ hội tại nhà Công Đường (phòng khách của Đức Cha) Dân chúng Phát Diệm được huy động đến chào mừng.
Sau chừng 1 tiếng đồng hồ đàm luận. Đức Cha dẫn Hồ Chí Minh xuống Công đường để các linh mục chào. Hồ Chí Minh nói lời cám ơn rồi hô to ba lần:
'‘Đức Chúa muôn năm’'.
Tiếp sau đó, dân chúng rước Đức Cha và ông Hồ ra nhà Hát Lớn để chào mừng. Đại diện các đoàn thể và dân chúng đọc lời chúc thọ. Các chúng sinh thuộc đại chủng viện và các thày giảng, đồng ca bài ‘Em không nghe mùa thu…’ (4 bè) mừng Hồ Chí Minh. Trước đó cha Nguyễn Gia Đệ độc ca bài ‘Hồ Chí Minh muôn năm’ bài ca do Vũ Đình Huỳnh, bí thư của ông Hồ mang từ Hà Nội về.
Đáp từ, Hồ Chí Minh đứng lên dõng dạc nói:
‘Thưa Cụ Giám Mục và tất cả anh chị em đồng bào các giới.
Mặc dầu buổi sơ khai, chính phủ bận rộn rất nhiều, tôi cũng dành thời giờ ưu tiên đích thân về thăm Cụ Tân Giám Mục khá kính và viếng cảnh Phát Diệm, nơi đã được mệnh danh là Địa Linh Nhân Kiệt.. Tôi rất mừng vì thấy anh chị em đồng bào ở đây đoàn kết và yêu nước… Tôi rất mừng vì thấy anh chị em không thể mỗi ngày tiếp xúc với anh chị em được nên tôi (để tay lên vai Đức Cha Lê) đặt cụ Giám Mục Từ làm cố vấn chính phủ của tôi. Có việc gì anh chị em cứ trực tiếp với Cụ Giám Mục Cố Vấn, cụ sẽ cho tôi hay và cùng giải quyết…’
Hồ Chí Minh, với lối ăn mặc đơn sơ, giọng nói dõng dạc và cử chi tỏ ra thân mật nên đã cảm hóa được quần chúng đối diện, Chính tác giả đã nhìn thấy 2 cụ già rớt nước mắt vì cảm động khi ông Hồ bước đến cầm lấy tay và hỏi han sức khỏe.
Thế là từ đó, Đức Cha Lê Hữu Từ chính thức là cố vấn chính phủ và được mọi người xưng hô là Đức Cố Vấn…’
.. .......
Lý do của cuộc thăm viếng Phát Diệm của ông Hồ Chí Minh cùng việc chính thức tuyên bố Đức Cha Lê Hữu Từ giữ chức cố vấn chính phủ và thái độ mềm mỏng cùng mị dân của họ Hồ là để làm dịu đi lòng căm phẫn của dân chúng Phát Diệm đối với cơ quan hành chánh tỉnh Ninh Bình trong vụ tuyên bố kết quả gian dối của cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 6 tháng giêng năm 1946.
Trong cuộc bầu cử này tỉnh Ninh Bình là một đơn vị bầu cử theo liên danh. Liên danh của Công Giáo đưa ra gồm 4 ứng cử viên: linh mục Phạm Ngọc Chi, sau này là giám mục địa phận Bùi Chu và Đà Nẵng; linh mục Lê Nguyên Kỷ, mới chết cách đây mấy năm ở xứ Sao Mai, Chí Hòa Sài Gòn; cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ Công Giáo, sau này giữ chức Thứ Trưởng bộ Thương Binh; và ông Trần Văn Triêm, thầy giáo lớp Moyen II, của người viết, hiện nay đang tị nạn Cộng sản ở California, trong khi đó Mặt Trận Việt Minh cũng đưa ra một danh sách gồm 4 ứng cử viên: các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi.
Cuộc vận động bầu cử đã diễn ra rất sôi nổi và đúng ngày bầu cử Đức Cha Lê Hữu Từ cùng các linh mục và giáo dân nô nức đi bỏ phiếu. Theo kết quả sơ khởi thì liên danh của Công Giáo dẫn đầu số phiếu ở các huyện trong tỉnh, nhưng đến khi có quan hành chính tỉnh Ninh Bình tuyên bố kết quả thì liên danh của Việt Minh là các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi trúng cử nhưng lại thêm 1 ứng cử viên của liên danh công giáo là cụ Ngô Tử Hạ.
Cảm thấy có sự gian lận trong cuộc bầu cử, vì đây là cuộc bầu cử theo liên danh trúng, không lý do gì một mình cụ Ngô Tử Hạ trúng cử, trong khi 3 ứng cử viên khác lại không, nên Đức Cha Lê Hữu Từ cho đánh điện tín lên phản đối chính phủ, mặc khác ngài ra lệnh sửa soạn một cuộc biểu tình ‘đả đảo bầu cử gian lận’. Hồ Chí Minh liền đánh điện tín trả lời và thông báo địa phương đã có sự lầm lẫn trong việc cộng phiếu và linh mục Phạm Ngọc Chi được trúng cử, nhưng Đức Cha Lê đã đồng ý để cho linh mục Phạm Ngọc Chi từ khước sự trúng cử ấy.
Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đắc cử với 98% số phiếu, Võ Nguyên Giáp trúng cử ở Nghệ An với 97% số phiếu, cựu hoàng Bảo Đại trúng cử ở Thanh Hóa. Đây là một cuộc bầu cứ một chiều, chỉ những lãnh tụ và người thân Việt Minh mới trúng cử, thái độ của hai đảng phái quốc gia là không phản đối và không tham gia cuộc bầu cử. Và Việt Minh đặc biệt dành 70 ghế dân biểu cho phe đối lập tham dự Quốc Hội không cần bầu cử. Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận 50 ghế và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội nhận 20 ghế.
Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến, Quân sự ủy viện Hội, ban Cố Vấn, ban Thường Trực Quốc Hội và Ủy ban đặc biệt Pháp Viện được trình diện trước phiên họp Quốc Hội đầu tiên vào ngày mồng 2 tháng 3 năm 1946.
Cụ Ngô Tử Hạ ngồi ghế Chủ Tịch Quốc Hội, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch, 4 bộ dành cho Việt Minh 4 bộ dành cho 2 đảng Việt Cách và Việt Quốc. Bộ Quốc Phòng và Nội Vụ trao cho nhân vật trung lập là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Anh, riêng Quân Sự Ủy Viên Hội do Võ Nguyên Giáp giữ chức chủ tịch và phó chủ tịch là Vũ Hồng Khanh. Cựu Hoàng Bảo Đại giữ chức cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.
Việc bầu cử quốc hội và thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia là một bước tiến cần thiết để họp thức hóa chính quyền Việt Nam đối với cả Trung Hoa lẫn Pháp quốc. Pháp lúc này đã chiếm được rất nhiều tỉnh ở Nam Bộ và miền Nam Trung bộ cùng vùng Cao nguyên và lăm le ra chiếm Bắc Việt với cuộc điều đình ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc để Pháp ra thay thế quân đội Trung Hoa tước khí giới quân đội Nhật Bản.
Trong khi kêu gọi nhân dân đoàn kết chống Pháp dành độc lập, Hồ Chí Minh thường tiếp xúc bí mật với một thiếu tá người Pháp tên Sainteny, đã đến Hà Nội ngay sau ngày Việt Nam cướp chính quyền, Họ Hồ tỏ ra thân thiện với người Pháp vì tin tưởng rằng đảng Cộng sản Pháp trong thời gian đã có ảnh hưởng rất mạnh ở chính trường Pháp Quốc và ngày 16 tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Sainteny và tuyên bố bằng lòng đàm phán với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.
Việc Hồ Chí Minh nhận định với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là một nền độc lập khó hiểu và được dân chúng coi như là một hình thức Hồ Chí Minh ‘bán nước’ cho Pháp. Ngay đến Tổng Bộ Việt Minh cũng bất đồng ý kiến với lập trường này và các đảng phái quốc gia phân đối dữ dội gọi Hồ Chí Minh là phản quốc, cõng rắn cắn gà nhà.
Việc thuyết phục Tổng Bộ Việt Minh chấp nhận lập trường Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là điều không khó khăn lắm đối với Hồ Chí Minh. Riêng đối với các phái quốc gia, nguyên việc lập chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến giữa Việt Nam và các đảng phái quốc gia, nhất là việc Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận chức phó cho Võ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân Sự Ủy Viên Hội trong đó có 9 ủy viên hỗn hợp để chuẩn bị về quân sự, đã làm giảm đi rất nhiều sự chồng đối và có thể nói là mọi sự bất mãn của phe quốc gia đã được dẹp bỏ. Nên Hồ Chí Minh có thể công khai tuyên bố sự thỏa hiệp với thực dân Pháp mà lúc này Việt Minh tuyên truyền là thỏa hiệp với người Pháp mới.
Đây là một điều hết sức trớ trêu và đau lòng làm cho nhiều người đặt câu hỏi tại các đảng phái quốc gia đang từ chủ trương chống đối mọi thỏa hiệp với thực dân Pháp, bỗng nhiên các đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng ‘chui đầu’ vào chia nửa phần trách nhiệm với Việt Minh trong việc ký kết ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, cái hiệp định sơ bộ ‘bán nước’ của Hồ Chí Minh cho thực dân Pháp.
Trước đây Hồ Chí Minh chủ trương điều đình trên nguyên tắc ‘Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp’ nhưng đến khi hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 được ký thì Việt Nam chỉ được Pháp công nhận là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng trong Liên Bang Trung Ấn và trong Liên Hiệp Pháp.
Rồi thêm một điều đau lòng nữa là về phía Việt Nam, chính phủ Cộng Hòa phải sẵn sàng thân mật tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế cho quân đội Trung Hoa theo như hiệp ước quốc tế… và Pháp được đóng quân tại các địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cay, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên Phủ, Huế, Tourane (Đà Nẵng).
Trong thời gian Việt Minh, với sự đồng ý của hai đảng Việt Cách và Việt Quốc, điều đình với Pháp, thì tôi và anh Trần Ngọc Ngoạn (Cựu tu sĩ dòng Châu Sơn, một đảng viên Việt Quốc) được Đức Cha Lê Hữu Từ ủy lên Hà Nội liên lạc và tiếp xúc với cụ Nguyễn Hải Thần và các lãnh tụ đảng phái quốc gia, để đại diện ngài đặt thành vấn đề việc các đảng phái quốc gia hợp tác với Việt Minh trong công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc.
Chúng tôi đã thất vọng hoàn toàn vì sự chia rẽ, giành giật nhau, thiếu hẳn sự nhất trí của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, trong kế hoạch đương đầu với Việt Minh cũng như trong chủ trương chống thực dân Pháp.
Khi được tin Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, tôi lại được hân hạnh tháp tùng Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, Cố Vấn Chính Phủ tới Bắc Bộ Phủ để phản đối ông Hồ và chính phủ.
Gặp ông Hồ, Đức Cha Từ đã nói một cách hết sức thẳng thắn:
‘Cụ tranh đấu cho độc lập gì mà lại nhận nước Việt Nam tự do trong Liên Hiệp Pháp tức ‘au sein de l’Union Francaise’. Au sein theo tôi hiểu là trong lòng của Pháp, là bú sữa người Pháp. Các đảng phái quốc gia cùng toàn thể quốc dân đang lớn tiếng quy trách chính phủ đã phạm một tội tầy đình đối với lịch sử, với dân tộc, khi cụ ký Tạm Ước 6-3-46 rước Pháp vào Bắc Bộ. Họ châm biến tinh thần nội dung bản Tạm Ước, bới móc và mỉa mai lời thề của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Cụ đọc ngày 02-9-45 tại vườn hoa Ba Đình trước hàng vạn đồng bào với lời thề: thề không chỉ đường cho Pháp Bây giờ, hỏi ai đã công khai rước Pháp?’
Trước những lời tấn công như vũ bão của Đức Cha Từ, họ Hồ mặt đỏ gay nhưng ông ta bình tĩnh trả lời:
‘Thưa Cụ, cái thế của mình bây giờ phải quỳ mà đi tới Độc Lập, xin Cụ cứ tin tôi đi.’
Và Đức Cha Từ đáp lại:
‘Được, tôi tin Cụ lần này.’
Trên đường về Phát Diệm, Đức Cha Từ nói với tôi:
'‘Anh Minh ạ, Hồ Chí Minh đang bán nước, cái bán nước của Hồ Chí Minh là hòa hoãn với Pháp để tiêu diệt đảng phái quốc gia. Bởi vậy chúng ta phải làm thế nào để giúp đỡ họ’'.
Từ đây Phát Diệm đã vạch ra một con đường cùng các tôn giáo, đảng phái và toàn dân quyết chống đối Việt Minh, đồng thời tích cực chống thực dân Pháp dành độc lập cho tổ quốc Việt Nam.