← Quay lại trang sách

Chương 15 Phát Diệm, Bùi Chu chống tiêu thổ và tản cư-

Ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhằm bảo tồn lực lượng, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Việt Minh đã chạy bán sống bán chết rời khỏi Hà Nội. Thôi thì mạng ai người ấy chạy, gia đình ai người ấy lo, tất cả đều cố gắng lẩn tránh làn đạn nóng của quân đội thực dân Pháp. Bộ đội Việt Minh cũng như các cơ quan chính quyền bỏ chạy trước nhất, nên dân chúng bỏ chạy theo, và vô cùng hoang mang khi được nghe Việt Minh tuyên truyền rằng hễ chạy được và thoát chết ấy là thắng lợi lớn vì đã bảo tồn được lực lượng.

Ngoài việc tuyên truyền rằng hễ chạy được là thắng lợi, Việt Minh lãnh đạo dân Việt kháng chiến chủ trương tiêu thổ tản cư, để gọi là ‘bảo tồn lực lượng’ và tích cực thi hành chính sách ‘vườn không nhà trống’. Đô thị bị tàn phá, nhà cửa của dân chúng và mọi cơ sở công cũng như tư được phá bình địa, đường xá bị cắt xẻ, cầu cống bị phá hủy, của cải nếu dân chúng chưa kịp mang đi phải đốt cháy bằng hết.

Dân phá nhà dân, dân quăng vứt đồ đạc của mình ra đường phố làm chướng ngại vật. Già, trẻ, trai, gái vác bị gậy tản cư theo lệnh của cán bộ Việt Minh. Có làm như vậy, người dân mới được coi là có lòng yêu nước, mới là trung thành với Hồ Chí Minh mà mọi người đinh ninh là Người Cha yêu độc nhất của dân tộc Việt Nam. Trong đầu óc của người dân Việt vẫn phảng phất một hình ảnh của Hồ Chí Minh với lời thề thốt ái quốc: ‘Thế không đi lính cho Pháp! Thề không đưa đường, chỉ lối cho Pháp! Thề không tiếp tế cho Pháp.’

Người dân ở các đô thị bị tiêu thổ tản cư, trong cảnh bị gậy có biết đâu đến sự thật phũ phàng là Người Cha yêu của dân tộc, đã thề thốt tại vườn hoa Ba Đình ỏ giữa thành phố Hà Nội, ngày tuyên ngôn Độc Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945 rằng ‘Không đưa đường cho Pháp, không chỉ lối cho Pháp’ lại chính là người đã ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, bán nước cho Pháp, đưa đường chỉ lối cho Pháp chiếm đóng một thành phố ở Bắc Việt, gây ra cuộc chiến tranh nghiền nát xương thịt nhân dân Việt Nam trong máu lửa đầy chết chóc và hoang tàn.

Điều tệ hại nhất cùng khốn nạn hơn nữa đối với dân tộc Việt Nam là Công Sản Việt Nam đã xử dụng chính sách ‘Tiêu Thổ Tản Cư’, Vườn Không Nhà Trống’, trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, với xương máu của hàng chục triệu dân chúng Việt Nam thành một chư hầu của đế quốc Cộng Sản, với một chính sách cộng sản ngoại lai và sai lầm đã chìm đắm nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong cảnh nghèo khổ, dốt nát đến nỗi đến Việt Nam được liệt kê là một trong năm quốc gia nghèo khổ vào bậc nhất thế giới.

Trong khi nước Việt Nam bị tan tành vì cuộc chiến tranh chống để quốc Pháp gọi là để dành độc lập, nhưng chỉ đạt được một nền độc lập khấp khểnh, với đất nước bị chia đôi, miền Bắc theo Cộng Sản, miền Nam trở thành Việt Nam Cộng Hòa. Để rồi sau đó Việt Minh lại phát động một cuộc chiến tranh thứ hai, tương tàn và hết sức đẫm máu, gọi là chống Mỹ để thống nhất đất nước, biến nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc Cộng Sản Liên Sô, đẩy cho 2 triệu con dân đất Việt phải bỏ nước ra đi tị nạn cộng sản, trên khắp thế giới.

Sau khi Cộng Sản Liên Sô bị hoàn toàn xụp đổ, Cộng Sản Việt Nam lại biến nhân dân Việt Nam, thành những kẻ ‘ăn xin’ viện trợ và đầu tư của tư bản thế giới để cứu nguy nền kinh tế đang dẫy chết, thì các quốc gia trước kia là thuộc địa của đế quốc Anh như Mã Lai, Nam Dương Quần Đảo, Ấn Độ v.v... đều đã đạt được nền độc lập quốc gia và tiến lên thành những quốc gia với nền kinh tế giầu mạnh và không hề phải trải qua một cuộc chiến tranh nào.

Chỉ vì những lãnh tụ khôn ngoan của họ đã biết chủ trương một cuộc tranh đấu dành độc lập theo tinh thần quốc gia dân tộc, chứ không ngu dốt như các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã chạy theo đế quốc cộng sản để dành độc lập bằng hai cuộc chiến tranh đẫm máu.

Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh tại có những âm mưu ngoan cố lợi dụng chính sách Tiêu Thổ Tản Cư song đôi với cảnh Nhà Không Vườn Trống để bần cùng hóa nhân, để dễ bề biến Việt Nam thành một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản, đồng thời Việt Minh lại còn dùng chính sách Tiêu Thổ Tản Cư nhằm vào việc phá vỡ và phân tán khối dân chúng còn có nhà cửa, vườn tược thì họ còn sống quây quần với nhau thành một giáo xứ, một xóm, thôn cố định, không sợ bị phân chia, do đó họ đoàn kết với nhau thành một lực lượng, đồng tâm nhất trí dám chống đối mọi áp lực của Việt Minh.

Việt Minh bắt đầu áp dụng chính sách Tiêu Thổ Tản Cư từ các đô thị ở miền Trung, từ quân khu Năm ra đến quân Khu Tư, riêng ở quân khu Ba, các đô thị ở tỉnh Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình v.v.. đã bị tàn phá bình địa, các đô thị và làng xã trù phú ở hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu đã bị Việt Minh đặt vào danh sách cần phải tiêu thổ ngay và chúng cũng mở những chiến dịch tuyên truyền kêu gọi dân chúng chuẩn bị tiêu thổ tản cư.

Nhưng Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, đã phản kháng kịch liệt chính sách tiêu thổ tản cư và ngài chủ trương kêu gọi toàn dân cương quyết ở tại chỗ để chống giặc giữ nước, và người công giáo cũng như người không công giáo đã hưởng ứng nồng nhiệt lời kêu gọi của Đức Cha Lê Hữu Từ.

Đứng trước sự phản kháng quyết liệt chính sách tiêu thổ tản cư, vườn không nhà trống của Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, Hồ Chí Minh ra lệnh cho chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh và Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình tổ chức một hội nghị mệnh danh ‘Hội Nghị Điền Thổ’ tại Nho Quan, triệu tập các điền chủ, thân hào nhân sĩ trong tỉnh để nghe lời giải thích với chính phủ về chính sách ‘Tiêu Thổ Tản Cư’. Hội nghị này được coi là rất quan trọng vì ngoài việc giải thích về chính sách của chính phủ, hội nghị lại còn tổ chức một cuộc họp giữa Hồ Chí Minh và Đức Cha Lê Hữu Từ.

Vì lý do an ninh, tôi đã không tháp tùng Đức Cha Lê trong cuộc hội họp này ở Nho Quan, nên xin trích sau đây hồi ký của Đức Cha Lê Hữu Từ nói về việc cứu Phát Diệm và Bùi Chu khỏi bị phá hoại và tản cư:

.................................................................................

‘Chương trình Cộng Sản có nhiều giai đoạn, đầu tiên lấy lòng dân và lợi dụng để nắm chính quyền, rồi chia rẽ dân để Cộng Sản mạnh. Họ đã dùng mánh khóe để bề ngoài thì làm cho dân và là chính dân làm, nên họ đã lập ra các đoàn thể cứu quốc, song trong ấy có những cán bộ, từ Quốc Hội cho đến các đoàn thể điều là người của đảng Cộng Sản hầu hết.

Như thế cũng chưa đủ, vì dân còn ở chung một nơi thì khối dân còn có lực lượng, nên họ bầy ra cách Tiêu Thổ Tản Cư, Vườn không Nhà trống, lấy lẽ cho khỏi tụi thực dân lợi dụng. Làm như thế thì cũng như phân sáp thời xưa, không còn ai biết tin ai nữa và hoàn toàn làm tay sai để bọn cộng sản điều khiển. Các làng bắt đầu phải phá hết các nhà ngói, rồi tập cư và sau tản cư thật, như tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa đã bị phá bình địa, rồi đến Ninh Bình, Phủ Lý cũng vậy..’

‘Khi nghe đồn cả Phát Diệm, Bùi Chu cũng sẽ đồng một số phận, tôi liền lên tiếng phản đối ngay và dân sự nhiều nơi hưởng ứng, Hồ Chí Minh thấy vậy liền lập cách mời tôi lên Nho Quan cùng với các thân hào, điền chủ, để thảo luận về đất ruộng. Họ cho xe camion đến Phát Diệm đón mọi người lên Nho Quan, đã có các vị cao cấp trong chính phủ đến đó, song họ giấu không cho biết có Hồ Chí Minh ở đó nữa.

Có cả chủ tịch Ninh Bình về mời tôi, song các cha sợ Viêt Minh lập mưu giả ăn cướp phục kích để ám hại tôi dọc đường, nên tôi quyết đến gặp để nói về việc tiểu thổ tản cư. Bề ngoài thì tôi nói rằng không đi, nhưng thực sự tôi đã thuê thuyền đi kín. Lúc camion đến Nho Quan mà không có tôi thì Việt Minh cao cấp đi theo Hồ Chí Minh rất băn khoăn, lập tức cho canot đến mời cha xứ Vô Hốt xuống ngay Phát Diệm để mời tôi; thì vừa lúc ấy thuyền tôi đi qua Nho Quan lên thẳng nhà Dòng Châu Sơn’.

Vừa tới Châu Sơn, làm lễ xong liền có ông chủ tịch Ninh Bình đến cùng với giấy Hồ Chí Minh mời tôi đến Nho Quan xơi cơm với ông’.

‘Thoạt trông thấy tôi, Hồ Chí Minh vội vàng chạy lại ôm lấy tôi cách thân thiết quá, khó tả; một tay bắt tay tôi, một tay ôm choàng lấy tôi, áp mặt vào mặt tôi và vỗ tay vỗ lưng tôi kêu bộp bộp, miệng nói: ‘Tôi nhớ Cụ quá, tôi nhớ Cụ quá! Đã lâu vì lửa đạn không gặp Cụ được, nhớ quá! Tôi cũng trả lời: ‘Tôi cũng nhớ Cụ lắm, nhất là vì có nhiều việc cần gặp Cụ, nay được gặp Cụ tôi mừng lắm.’

Song tôi không vỗ lưng ông ta vì tôi chưa học lối ấy. Còn cuộc hội đàm giữa ông Hồ và tôi diễn ra ngay sau đó trong bầu không khí nhiều lúc gay go nhưng cũng gọi được là thân mật.’

Lúc ăn cơm, họ dọn riêng một mâm cho tôi và ông Hồ, còn 6 bộ trưởng ngồi chung ở một mâm xa xa. Ông Hồ liền bảo: ‘Các chú kéo mâm lên gần đây tiếp chuyện Cố vấn cho vui.’ Tôi cũng phụ họa: ‘Thì chỗ người nhà cả, các chú cứ tự nhiên ngồi xích lại đây.’

Cơm xong họ mời lại một cái ghế phản (đi văng) có đặt sản hai cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện, nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên nhau, ông Hồ nói chuyện dí dỏm thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi bằng một giọng run run ông nói: ‘Xin Cụ làm Baptêm (rửa tội) cho tôi để cùng làm con Đức Chúa’

Nghe thế, tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói: ‘Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng nhưng vì là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự bị trước, nên để sau ta sẽ tính.’

Câu chuyện đang vui vẻ, thấy bưng lên một đĩa khoai lang buộc, ông Hồ lột vỏ mời tôi. Chúng tôi cùng ăn vui vẻ.

Sau đó, khoảng 3 giờ chiều, tôi đi với ông Hồ ra sân. Ở đây đã có mặt các thân hào nhân sĩ, điền chủ và dân chúng tập hợp sẵn với độ ngót ngàn người. Sau những tiếng hoan hô, ông Hồ bắt đầu nói cho dân chúng biết tại sao phải tiêu thổ. Ông nhấn mạnh: ‘Tôi là chủ tịch do dân bầu, tôi là đầy tớ của dân, tôi phải làm ích cho dân; nếu ngày nào tôi không làm ích cho dân, dân có người khác xứng đáng hơn, thì tôi sẽ rút về vườn trồng rau…’

Rồi ông đặt tay lên vai tôi vừa vỗ nhẹ vừa nói: ‘Tôi là chủ tịch của đồng bào, phần vì ở xa xôi, phần vì nhiều cớ tôi khó gặp được đồng bào, thì đây, có cụ Giám Mục Lê Hữu Từ là vị cố vấn của chính phủ và cố vấn riêng của tôi, tôi hoàn toàn tín nhiệm ngài; khi đồng bào không gặp được tôi thì đồng bào đã có ngài…’ Dân chúng hoan hô rất hăng hái..’

Từ sau ngày gặp ông Hồ ở Nho Quan, 20-4-1947, tôi bắt đầu đi thăm các nơi thuộc Phát Diệm và Bùi Chu, lấy cớ là để nói cho dân biết ý ông Hồ, song thật sự để hô hào chống tiêu thổ tàn cư. Mọi nơi đều hướng ứng nhiệt liệt, có những nơi tôi chưa kịp đến thì đã cử phái đoàn nài nỉ tôi đến thăm và tổ chức đón rước rất long trọng; còn Việt Minh thì cố sức ngăn trở việc tôi đi thăm các nơi…

Sau này Việt Minh áp dụng một lối mới hầu ngăn cản sự đi lại của tôi là xin tôi mỗi lần đi tới đâu xin báo trước để sửa soạn đón tiếp Cố Vấn cho phải phép, nhưng thật ra là chặn việc tôi đi thăm vì nhiều nơi tôi làm giấy thông báo mà địa phương ấy không bao giờ được giấy cả, một đôi khi còn dàn bộ đội bên đường để hạch hỏi và đòi tước khí giới vệ sĩ của tôi… Trong chuyến đi hô hào cống tiêu thổ tán cư này, linh mục Hoàng Gia Huệ địa phận Bùi Chu đã tặng tôi bài thơ:’

‘Bạch trĩ lai Quần Phương

Bách tính thoát tai ương

Thanh niên tàng Phát Diệm

Thử thị thánh nhân hương.’

........

Sau cuộc họp với Hồ Chí Minh ở Nho Quan, Đức Cha Lê Hữu Từ mở một cuộc thăm viếng các xứ đạo ở bên địa phận Bùi Chu để nhân danh Cố Vấn Chính phủ, ngài ngăn chặn mọi công tác tiêu thổ, tản cư của Việt Minh, và tôi được Đức Cha chỉ định phụ trách việc lập một đội vệ sĩ bảo vệ ngài và phái đoàn.

Tôi cho đây là một trách vụ rất khó khăn, vì phải nghĩ tới việc đối phó với những cuộc oanh tạc, có thể xẩy ra do phi cơ chiến đấu của thực dân Pháp, thời này quân đội Pháp đóng quân ngay ở tỉnh lỵ Nam Định, cách Bùi Chu chỉ có dăm chục cây số.

Sỡ sĩ lo ngại như vậy vì Đức Cha Lê Hữu Từ nổi tiếng là vị giám mục quyết liệt chống thực dân Pháp và việc bảo vệ cho Đức Cha Lê và phái đoàn lại càng khó hơn nữa vì phương tiện di chuyển được xử dụng là thuyền bồng chèo dọc qua kênh Cồn Liêu, đi từ Sông Đáy thuộc phủ Nghĩa Hưng sang tới Ninh Cường rồi một đoạn đường phải cuốc bộ. Riêng mình Đức Cha Lê là đi bằng cáng rồi lại xuống thuyền đi Bùi Chu.

Kênh Cồn Liêu không rộng gì cho lắm, mà tổ chức Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc của các xứ đạo ở hai bên bờ con kênh này, chưa được tổ chức hoặc chưa được huấn luyện thuần thục, nên không chắc gì có thể phụ giúp được nhiều trong trách vụ bảo vệ Đức Cha Lê và phái đoàn. Mà nếu Việt Minh ở các làng xã dọc hai bên kênh Cồn Liêu tìm cách ám hại Đức Cha thì vấn đề bảo vệ lại càng trở nên khó khăn vô cùng, nhất là chúng tôi nhận được tin Việt Minh có ý tổ chức ám hại Đức Cha Lê trong chuyến thăm viếng Bùi Chu này.

Cuộc thăm viếng Bùi Chu của Đức Cha Lê, cố vấn chính phủ dành được thắng lợi hoàn toàn, toàn thể lãnh thổ địa phận Bùi Chu đều không bị tiêu thổ kháng chiến và chính sách vườn không nhà trống của Viêt Minh đã thất bại. Điều đáng mừng nhất đối với tôi là cuộc thăm viếng kéo dài một tuần lễ của Đức Cha Lê và phái đoàn tại rất nhiều địa điểm ở Bùi Chu đã kết thúc trong sự an lành.