← Quay lại trang sách

Chương 16 Các đảng phái quốc gia tranh đấu sát cánh với -Tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm -

Sau khi cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946, Việt Minh đã thẳng tay khủng bố các đảng phái quốc gia, một số khác phải rút về hoạt động trong bí mật, và Phát Diệm không những được coi như nơi nương tựa an toàn nhất trong thời gian bị khủng bố mà Phát Diệm lại còn là nơi các đảng phái quốc gia chân chính có thể ‘bung’ ra nhiều hoạt động chống cộng sản ở các tỉnh kế cận như Nam Định, Bùi Chu, Thái Bình, Phủ Lý, Thanh Hóa, Vinh và Hà Nội.

Trong số các đảng phái quốc gia hoạt động một cách rất đắc lực ở Phát Diệm phải kể tới đảng Đại Việt Duy Dân và Việt Nam Quốc Dân Đảng, tuy nhiên cũng có đảng đã mang lại cho Phát Diệm một số phiền nhiễu như đảng Dân Tộc, vì quá hăng say và chủ trương quá khích. Hơn nữa vì đảng viên đảng Dân Tộc được thâu nhận một cách bừa bãi, bị đối phương xâm nhập dễ dàng, nên đảng Dân Tộc là đầu mối cho Việt Minh tung ra nhiều vụ đàn áp như vụ Phúc Nhạc, Văn Hài.

Ngoài ra chúng tôi cảm thấy không thể không nói tới đảng Xã Hội, vì chính đảng này đã để cho một số đảng viên phá vỡ chính sách chính trị rất khôn khéo của Đưc Cha Lê Hữu Từ là triệt để chống Cộng Sản, nhưng đồng thời hợp tác với Việt Minh chống thực dân Pháp để dành độc lập cho Tổ Quốc. Nhóm đảng viên Xã Hội này đã qua mặt Đức Cha Lê Hữu Từ, tìm cách bắt liên lạc với thực dân Pháp về chiếm đóng Phát Diệm như đầu cầu trong âm mưu gọi là ‘giải phóng’ tỉnh Nghệ An nhất là Xã Đoài, quê hương của nhóm những người này.

Riêng đối với đảng Đại Việt Duy Dân, đảng này đã hoạt động rất mạnh ở Phát Diệm ngay từ khi bắt đầu tổ chức Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc năm 1946. Viết đến đây chúng tôi băn khoăn, và tự hỏi rằng không biết có nên đưa ra công khai một số hoại động của anh em Z (tên gọi tắt của đảng viên Duy Dân), đã diễn ra cách đây gần nửa thế kỷ ở Phát Diệm hay không?

Vì từ xưa đến nay Duy Dân vẫn chủ trương ‘trùm chăn’, chưa chịu tham chính, tuy nhiên, tin tưởng rằng anh em Z, trên khắp đất nước Việt Nam, từ ngoài Bắc đến trong Nam cũng như ở hải ngoại, vẫn tiếp tục hoạt động một cách rất hăng say, kín đáo và hữu hiệu. Và chúng tôi thấy rằng trên chính trường Việt Nam ‘Sờ’ vào đâu cũng cảm thấy màu sắc Duy Dân, nên khi viết những câu chuyện của một thời tranh đấu cách đây gần nửa thế kỷ, chúng tôi chỉ xin được nói tới hai đảng viên Z đã quá cố mà chúng tôi rất kính phục.

Hai vị này đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển đảng Duy Dân ở Bùi Chu và Phát Diệm và đặc biệt hai vị này đã giúp vào việc đảng Duy Dân tài trợ một ngân khoản rất lớn cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm trong kế hoạch mua võ khí ở Trung Hoa, và trong công tác di chuyển món tiền lớn này từ Bùi Chu về Phát Diệm. Một trong hai vị đã bị Công an Việt Minh sát hại, mà trong cuộc lễ an táng của vị này, một cuộc xô xát đẫm máu đã xẩy ra ở Phát Diệm hồi tháng 9 năm 1947, giữa Việt Minh và nhân dân Phát Diệm.

Ngày từ khi thành lập chiến khu Rịa thuộc Mât Trận Công Giáo Cứu Quốc, xứ Hòa Lạc và họ Vinh Trung ở xứ Phát Diệm được coi là như hai chiến khu vững chắc mà Việt Minh Cộng sản không kiểm soát nổi, vì Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Hòa Lạc và Vinh Trung được thành lập sớm nhất và võ trang khá đầy đủ. Nên ngay sau khi Việt Minh bắt đầu đàn áp các đảng phái quốc gia, và sau cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 3 năm 1946, Hòa Lạc được chọn là nơi một số lãnh tụ Duy Dân về ẩn náu một thời gian. Cũng từ đây các hoạt động của đảng Duy Dân ‘bung’ ra rất mạnh ở các tỉnh miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt.

Trong số những anh em Z tản cư về Hòa Lạc và Vinh Trung, người mà tôi kính phục nhất là ông Trần Thanh Đình, bí danh là ông Chùa, con cụ Cử Bồng Tiên, một vị khoa bảng danh tiếng ở tỉnh Thái Bình. Ông Đình đã đậu bằng cử nhân Luật Khoa thời Pháp thuộc, với bằng cấp này ông có thể gia nhập vào hàng ngũ quan lại thời thực dân Pháp. Nhưng ngược lại, ông chỉ thích ‘hoạt động cách mạng’ mà thôi, nên cả đời ông đã dấn thân phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc cho tới khi ông bị Cộng sản bắt giam và mang ra xử bắn ở Thủ Đức hồi năm 1976 về tội là lãnh tụ của đảng Đại Việt Duy Dân.

Trong gần 30 năm hoạt động cách mạng sát cánh với ông Trần Thanh Đinh, ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, tôi đã học hỏi được biết bao kinh nghiệm tranh đấu hào hùng của một đồng chí Duy Dân đáng mến và đáng kính phục này.

Trong một cuộc họp của anh em Z ở Vinh Trung năm 1947, tôi có đưa ra vấn đề cần phải võ trang thêm cho các đơn vị Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm trong công cuộc không những chỉ chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, mà lại còn chống cả đảng Cộng Sản nữa.

Vì tinh thần chống Pháp dành độc lập, nên Pháp Diệm quyết định không chấp nhận bất cứ một viên trợ võ khí nào của thực dân Pháp, thay vào số súng đạn do Pháp đề nghị viện trơ, tôi trình bầy cho anh em biết kế hoạch đã được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ là mua súng đạn ở Pak khoi, tức Bắc Hải. Đây là một tô giới của Pháp trước đây ở bên Trung Hoa, qua sự môi giới của một số thanh niên Công Giáo ở Trà Cổ, thuộc tỉnh Móng Cáy sát với biên giới Trung Hoa, thường đi lại buôn bán với Phát Diệm bằng thuyền buồm, vẫn được quen gọi là thuyền bát Trà Cổ.

Một số Tầu Ô của người Trung Hoa đã được anh em thanh niên Trà Cổ móc nối và họ đã nhận lời cung cấp đủ mọi loại võ khí khá tối tân, nhưng điều kiện thanh toán thì chánh là phải trả bằng giấy bạc Đông Dương là loại giấy bạc do Ngân Hàng Đông Dương của Pháp phát hành và vẫn được lưu hành tại cựu tô giới Bắc Hải.

Được biết trong thời này giấy bạc do Việt Minh phát hành đều được lưu hành song song với giấy bạc Đông Dương. Vấn đề được đặt ra là tìm đâu ra một số lớn bạc Đông Dương để mua súng đạn ở bên Tầu?

Sau một hồi thảo luận ông Trần Thanh Đình và ông Tổng Văn Dung cho biết: ‘Chi bộ Duy Dân ở Bùi Chu có đủ quỹ để tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho việc mua võ khí cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm. Liền sau đó ông Dung và ông Lê Văn Chính ở Hòa Lạc được trao phó nhiệm vụ di chuyển số tiền 3 triệu đồng bạc Đông Dương này từ Quận Phương ở Bùi Chu về Phát Diệm để trao cho tòa Giám Mục Phát Diệm lo việc đưa ra ngoại quốc mua súng đạn.

Hối xuất chính thức của một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan (cũ) của Pháp, như vậy 30 triệu quan (Franc) Pháp là một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Việc đảng Duy Dân nhận tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm đã được trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ và ngài tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp này của đảng Duy Dân.

Chiều ngày mồng 5 tháng 9 năm 1947, ông Tổng Văn Dung và ông Lê Văn Chính mang một bị chứa 3 triệu đồng bạc Đông Dương từ Hòa Lạc xuống Phát Diệm, khi qua đồn công an ở Trì Chính ngay gần cầu Kiến Thái, ông Chính mang bị tiền đi trước, ông Dung đội một mũ mầu trắng đi sau, công an Việt Minh liền nhẩy ra hô to: ‘Anh đội mũ trắng hãy đứng lại, nếu không tôi bắn’, nghe thấy vậy, ông Chính bước thật nhanh và mang bị tiền đi thoát được sang phố Thượng Kiệm. Ông Dung đã bị công an Việt Minh bắt giữ ngay.

Ông Chính đã mang bị tiền vào ngay nhà chúng tôi ở phố Thượng Kiệm gần chân cầu Tri Chính, ông thở hổn hển cho tôi biết tin ông Dung bị công an bắt giữ. Đúng lúc ấy tôi đang bị cơn rốt rét ngã nước của chiến khu Rịa hành, nhưng trong trường hợp rất khẩn cấp như vậy, tôi vội vàng cùng ông Chính tới ngay tòa giám mục gặp Đức Cha Lê Hữu Từ báo tin cho ngài biết sự việc.

Đức Cha liền viết văn thư cho liên lạc viên hỏa tốc cầm sang ty công an, yêu cầu trưởng ty tới gặp Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, cùng thả tự do cho ông Tổng Văn Dung. Trong văn thư Đức Cha Lê xác nhận ông Dung là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc do Cố Vấn chính phủ cử đi công tác ở Bùi Chu.

Ty công an trả lời Đức Cha nói rằng trưởng ty Nguyễn Kiên Đạt đi vắng, và cho biết lý do ‘Tên Dung (mang giấy tờ tên Lê Văn Cương) hiện bị bắt giữ vì có báo cáo nói y là đảng viên đảng Duy Dân hoại động chống chính phủ tại xã Hòa Lạc.’

Toàn thể các đơn vị chiến đấu của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc được lệnh báo động và sẵn sàng trong tư thế chiến đấu để giải thoát ông Tống Văn Dung. Hai trung đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc của Vinh Trung và Hòa Lạc được lệnh chuẩn bị đánh úp ty Công An ngay trong đêm, nhưng đến khuya, tòa giám mục nhận được một lá thư của trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt hứa sẽ thả tự do cho ông Dung sáng sớm hôm sau. Do đó việc đánh úp ty công an để giải thoát cho ông Dung được hoãn lại.

Một giả thuyết được đặt ra là nếu Công An áp giải ông Dung đi Ninh Bình thì một là đi bằng canô theo sông Vạc từ bến ở Thượng Kiệm đi Ninh Bình và giờ canô khởi hành là 8 giờ sáng; hai là bằng đường bộ đi theo tỉnh lộ số 10. Kế hoạch được đặt ra là anh Trần Văn Xuân, sau này mang tên Nguyễn Văn Bình, cựu tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện thời đệ nhất Cộng Hòa, chỉ huy một trung đội tự vệ Vinh Trung lên phục kích ở đường cái quan Hồng Đức, chặn bắt giữ canô và giải thoát ông Dung. Trung đội thứ hai của Hòa Lạc dưới quyền chỉ huy của ông Lê Văn Phượng phục kích trên đường số 10 ở quãng cánh đồng trống ở giữa Tôn Đạo và Phúc Nhạc.

Nhưng một điều bất ngờ đã xẩy ra là công an đã áp giải ông Dung lên Ninh Bình bằng cách canô chạy trên sông Vạc tới đường cái quan Hồng Đức tức bến đò Lá cách Phát Diệm 10 cây số, thì đúng lúc đó trung đội tự vệ Vĩnh Trung cũng vừa tới nơi chưa kịp phục kích để nổ súng ra lệnh canô phải ghé vào bờ.

Anh Xuân sau đó báo cáo cho tôi biết là trông thấy ông Dung bị đẩy xuống sông, và công an bắn nhiều loạt súng hô hoán: ‘Tên Việt Nam nhẩy xuống sông’.

Trung đội tự vệ Vinh Trung dàn ra dọc bên sông, hy vọng ông Dung bơi được vào bờ, đồng thời hai công an Việt Minh cũng bắt canô ghé vào Đò Lá, lấy một thuyền mủng bơi dọc bờ sông cố tình bắt lại ông Dung, nhưng kết cuộc 2 công an viên này bị trung đội tự vệ Vinh Trung bắt giữ. Cuộc tìm kiếm được chấm dứt vào buổi tối, vì tên công an bị bắt khai rằng: ‘Khi ông Dung nhẩy xuống sông, hai tay ông ấy bị còng ra đằng sau lưng, nên anh em cho rằng một khi tay bị còng ra sau lưng thì ông Dung khó lòng bơi nối được vào bờ’

Tuy nhiên một số Tự Vệ Vinh Trung vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm dọc bên sông Vạc. Cho tới chiều ngày 7 tháng 9 năm 1947, khi chiếc canô do ông Tài Duyên lái từ Ninh Bình về Phát Diệm đến đầu xã Trì Chính, cảm thấy vật gì nặng vướng ở chân vịt, bác Tài Duyên liền kêu lên:

‘Anh Dung, nếu đích là oan hồn anh luẩn khuất đâu đây thì anh nổi lên, tôi vớt đem về Tổng Bộ an táng’.

Khi bác Tài Duyên cho ngừng máy canô lại, xác ông Dung nổi lên vướng vào bên hông canô và được loan truyền rất nhanh trong khối dân chúng Phát Diệm và mọi người đều tỏ ra phẫn uất về hành động dã man của Công An Việt Minh.

Bác Tài Duyên là người hoạt động rất hăng say trong Tổng Bộ Tự Công Giáo Cứu Quốc ở đơn vị gần đập Phú Vinh năm 1954 di cư vào Sài Gòn và năm 1975, bác Tài Duyên được di tản sang tới đảo Guam, rồi lại trở về Sài Gòn bằng tầu Việt Nam Thương Tín và bác đã đón cả gia đình vượt biển sang Mã Lai và được định cư tại Hoa Kỳ, thuộc cộng đoàn Tam Biên ở Orange County, California, bác đã qua đời tại đây cách đây hơn mười mấy năm.

Xác ông Dung đã được vớt lên tạm quàn ngay tại đầu cầu Trì Chính và được vị y sĩ thuộc bệnh viện Trì Chính khám nghiệm với sự hiện diện của đại diện ty Công An, các đại diện phủ hộ Việt Minh và Ủy Ban Hành Chánh phủ Kim Sơn, cùng ông thứ trưởng Bộ Thương Binh Ngô Tử Hạ và linh mục Trần Cao Đàm, giám đốc phòng chính trị Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc. Xác ông Dung được tẩm liệm và quàn tại điếm canh Phu Vinh để làm lễ quốc táng.

Ngay buổi tối sau khi vớt được xác ông Dung, một cuộc họp rất quan trọng đã được triệu tập tại tòa giám mục Phát Diệm dưới quyền chủ tọa của cha Phạm Quang Hàm, bí thư của Đức Cha Lê Hữu Từ, để thảo luận về việc tổ chức lễ quốc táng ông Dung, một đảng viên đảng Đại Việt Duy Dân đồng thời là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc. Nơi mai táng ông Dung đã được bàn cãi rất kỹ lưỡng, trước hết có đề nghị rằng sau các nghi lễ an táng chính thức do Đức Cha Lê Hữu Từ chủ tọa trước sự hiện diện của các cơ quan chính quyền Việt Minh và nhân dân Phát Diệm, quan tài sẽ được di chuyển về Hòa Lạc là quê quán của bà Dung để mai táng.

Chính sách của Đức Cha Lê Hữu Từ trong vụ ông Tổng Văn Dung bị công an tàn sát là cố giữ hóa khí đối với chính quyền Việt Minh, nhưng cương quyết chống đối chính sách đàn áp của Cộng Sản, và cố tránh không để cho thực dân Pháp lợi dụng gây rối. Nên nhân danh là người được ủy nhiệm bảo vệ sự an toàn cho Đức Cha Cố Vấn, cùng phái đoàn chính phủ, tôi đã phản đối đề nghị di chuyển quan tài ông Dung về chôn ở nghĩa trang Hòa Lạc.

Tôi viện lẽ rằng nếu đưa xác ông Dung về chôn ở Hòa Lạc, đám tang sẽ phải đi qua ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, là nơi ông Dung đã bị giam giữ và bị tra tấn tối hôm trước, chắc chắn dân chúng sẽ căm phẫn, nổi lên xông vào đập phá ty Công An, diệt trừ những tên công an tàn ác, nhất là tên trưởng ty công an Nguyễn Kiên Đạt là người đầu tiên không thể tránh được ‘búa tạ’ của nhân dân Phát Diệm về tội giết chết và hứa ‘cuội’ về việc thả tự do cho ông Tống Van Dung. Như vậy việc duy trì trật tự và giữ hòa khí đối với bọn Việt Minh sát nhân khó có thể thực hiện được.

Sau hết, cha Hàm đề nghị chôn ông Dung ở đất thánh ‘Nhà Chung’ là nghĩa trang dành riêng cho các linh mục và tu sĩ của địa phận Phát Diệm, và đề nghị này đã được hội đồng chấp thuận.

Tổng bộ tự vệ Công Giáo Cứu Quốc được trao trách nhiệm vận dụng quần chúng mọi nơi về tham dự lễ án táng và cho đây là một dịp để tỏ lòng căm phẫn của toàn dân phản đối chính sách tàn ác của Viêt Minh Cộng Sản. Đội Thanh NiênTiền Phong Phát Diệm phụ trách việc làm biểu ngữ với các khẩu hiệu khích động tinh thần quần chúng như: ‘Trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt phải đền mạng’ ‘Công An tàn ác và dã man đã giết cán bộ Công Giáo Tống Văn Dung’, ‘Đả đảo Cộng sản vô thần’, ‘Đả đảo tên công an Đạt giết dân lành’, ‘Vạn tuế Đức Cha Cố Vấn.’

Các phố cùng các đường trong thị xã Phát Diệm đều đầy nghẹt người, không khí hết sức ngột ngạt, vì mọi người chỉ muốn ‘ăn thây uống máu bọn công an Việt Minh’ đã giết chết cán bộ công giáo Tống Văn Dung. Trong khí thế ‘dầu sôi lửa bỏng’ này, một nhân vật cao cấp của chính phủ Việt Minh là ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, lại bị kẹt vào giữa đám đông dân biểu tình ở phố Thượng Kiệm.

Một em bé trinh sát thuộc trung đội tự vệ Hòa Lạc khám phá ra rằng ông Huỳnh có đeo khẩu súng lục trong người, nên lệnh báo động được loan ra, đúng lúc anh em Tự Vệ bao vây bắt trói ông Huỳnh mà tôi đã quen biết trong mấy lần lên Bắc Bộ Phủ gặp ông Hồ Chí Minh. Tôi liền ra lệnh cởi trói và dìu ông Huỳnh vào trong nhà 4 tầng lầu của cụ Ngô Tử Hạ, ở ngay giữa phố Thượng Kiệm.

Sau khi giải thích cho ông Huỳnh biết về những hành động tàn bạo của ty Công An địa phương đã giết một cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc và khi ông Huỳnh cho tôi biết là khẩu súng lục của ông bị tự vệ tước khẩu súng về, và chỉ 5 phút sau tôi đã trao trả khẩu súng cho ông Huỳnh, và mời ông lên lầu nhà cụ Ngô để quan sát cuộc lễ an táng do Đưc Cha Cố Vấn Chính phủ Lê Hữu Từ chủ tọa.

Đúng 3 giờ chiều, Đức Cha Cố Vấn cùng đoàn tùy tùng gồm các linh mục, các ‘ông già’ tràng Lý Đoán Thượng Kiệm và các đoàn thể đã tới địa điểm hành lễ an táng. Về phía chính quyền có mặt cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ của Phát Diệm, thứ trưởng bộ Thương Binh, đại diện ông Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Ái, phủ bộ Việt Minh đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình; Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Vệ Quốc Quân, và ông Nguyễn Cao Đàm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Kháng Kim Sơn.

Trong khi Đức Cha, mặc phẩm phục hành lễ, ngồi đợi dân chúng diễn hành trước linh cữu của ông Tống Văn Dung, một liên lạc viên chạy về báo tin cho tôi biết có cuộc xô sát giữa Công an và đoàn biểu tình ở trước ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, tôi liền quay sang báo cáo tin này với Đức Cha Lê và ngài bảo tôi đi xem sự việc ra sao.

Tôi bảo anh Quý, có hỗn danh là Quý Chột, đưa cho tôi khẩu súng máy Thompson và khi đi qua trụ sở của phủ bộ Việt Minh, nhà cô Am ở phố Thượng Kiệm, tôi thấy lố nhố ở trên lầu trụ sở này mấy tên Việt Minh cầm lựu đạn trong tay, sẵn sàng thẩy xuống đám đông, dân chúng đứng đầy nghẹt dưới đường. Tôi liền bắn lên cửa sổ trên lầu trụ sở này một tràng súng máy, bắt đóng cửa sổ lại và ra lệnh dân chúng biểu tình bao vậy thật chặt.

Tiếp tục tiến lên tới cầu Trì Chính, đeo súng lên vai để tỏ thiện chí hòa bình, khi tới giữa cầu tôi hô to lời yêu cầu muốn nói chuyện với đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và tuyên bố: ‘Tự Vệ Công Giáo không đánh nhau với Vệ Quốc Quân, yêu cầu Vệ Quốc Quân hợp tác với nhân dân trừng trị bọn Công An sát hại dân lành’.

Viên đại đội trưởng yêu cầu tôi ra lệnh giải tán dân chúng biểu tình lúc này đứng đầy khu vực quanh đồn Vệ Quốc Quân, trông thấy cảnh hết sức nguy hiểm cho dân biểu tình là nếu vệ quốc quân ném lựu đạn từ các lỗ châu mai trên lầu xuống thì một số lớn dân chúng sẽ bị thiệt mạng, tôi ra lệnh dân chúng vẫn tiếp tục bao vây nhưng rút xa ra ngoài ở phía Chợ Cói.

Tiến lên tới cổng bệnh viện Trì Chính, tôi được báo cáo là cuộc đụng chạm ở ty Công An đã chấm dứt vì các Công An viên Việt Minh đã bỏ trốn hết trước uy lực như vũ bão của dân biểu tình, nhưng sau đó tôi biết sự thực là anh em Tự vệ ở Tự Tân do ông Quản Toản cầm đầu cùng với đoàn biểu tình đã tấn công vào trụ sở ty Công An trước, nhưng vì các công an Việt Minh đã rút lui, nên tình thế mới trở lại yên lành.

Quay trở về khu vực hành lễ, tới đầu cầu Trì Chính, nhìn xuống tôi trông thấy cảnh hỗn độn, tan hoang đang diễn ra ở giữa phố Thượng Kiệm, thì ra dân chúng biểu tình đã tấn công đập phá tan tành trụ sở của phủ bộ Việt Minh, trên lầu và dưới nhà cùng ở sân sau 8 anh cán bộ bị dân chúng đả thương nằm dài trong vũng máu. Trên khắp các phố, một số thanh niên tay dao, tay lựu đạn cùng với dân biểu tình đang xông xáo đi tìm các cán bộ Cộng Sản để thanh toán. Dưới gầm một nhà sàn ở đầu phố Phú Vinh thấy lôi ra xác của một anh cán bộ cộng sản.

Trước tình thế hỗn loạn này, tôi ra lệnh cho anh em tự vệ xử bắn tại chỗ những kẻ gây rối loạn hay cướp bóc, một mặt tôi ra lệnh cho dân biểu tình lánh mặt vào trong các nhà của dân chúng hay trong các đường hẻm, và các đường phố trong thị xã đều được đặt trong tình trạng thiết quân luật và một lệnh đặc biệt được loan truyền khắp nơi là khi thấy Vệ quốc quân xuống phố giữ trật tự thì mọi người đều hô to khẩu hiệu ‘Hoan Hô Vệ Quốc Quân’,‘Đả Đảo Công An'. Mặt khác tôi lại xung phong lên gặp lại đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và yêu cầu cho Vệ Quốc Quân xuống phố tái lập trật tự. Viên đại đội trưởng nhận lời yêu cầu của tôi và cho quân xuống phố giữ trật tự.

Sau khi biết chắc Vệ Quốc Quân sẽ xuống phố để văn hồi trật tự, tôi liền vọt ngay về nhà cụ Ngô Tử Hạ, và nói cho Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, biết về các sự việc xẩy ra, đúng lúc này cụ bà Ngô Tử Hạ mời chúng tôi ra ngoài bao lơn xem dân chúng Phát Diệm hoan hô Vệ Quốc Quân và đả đảo Công An. Vũ Đình Huỳnh tỏ ra rất xúc động và hứa với tôi rằng: ‘Ngay sáng sớm mai tôi rời khỏi Phát Diệm và tôi sẽ báo cáo lên ông Hồ Chí Minh biết rõ về những câu chuyện xẩy ra ở Phát Diệm’.

Kết quả trông thấy là tên Nguyễn Kiên Đạt, trưởng ty Công An bị hạ tầng công tác và một bức điện văn của Hồ Chí Minh đánh về cho cơ quan hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình, đã lọt vào tay chúng tôi, qua một giáp điệp nhị trùng, Hồ Chí Minh nói rằng: ‘Dù một số cán bộ của chính quyền bị thiệt mạng, nhưng tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, và tới tấp hết phái đoàn nọ đến phái kia được Hồ Chí Minh cử về trấn an Đức Cha Lê và nhân dân Phát Diệm, và khu an toàn Phát Diệm đã được công nhận.

Trở lại vấn đề Vệ Quốc Quân xuống phố vãn hồi trật tự, đi đến đâu được dân chúng hoan hô đến đó nên họ chỉ còn có một việc phải làm là tản thương mấy anh cán bộ Việt Minh bị dân chúng ‘đập’ cho chết hoặc chết đi sống lại.

Trở về nơi hành lễ an táng, linh cữu ông Dung vẫn còn nằm đó do anh em Tự Vệ Vinh Trung canh gác và tôi được báo cáo về các sự việc xẩy ra. Nguyên do là sau khi tôi được Đức Cha Lê bảo lên giải quyết vụ xô xát xẩy ra ở ty Công an, thì cha Đoàn Độc Thư vừa bước lên diễn đài để đọc bài điếu văn, ngài chưa kịp khai khẩu, thì một phát súng ‘bí mật’ phát ra, viên đạn ghim vào tường gạch rồi rơi xuống ngay gần chân Đức Cha Lê. Tin Đức Cha Cố vẫn bị mưu sát được loan ra, dân chúng bắt đầu náo động, cuộc lễ an táng được ngưng lại và tiểu đội hộ vệ được lệnh bảo vệ Đức Cha, cụ Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Ngọc Ái và trung đội trưởng Vệ Quốc Quân Nguyễn Văn Hoàn trở về tòa giám mục.

Trên đường đi về tòa Giám Mục, Đức Cha Lê đi giữa khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, bên trái là trung đội trưởng Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Ngọc Ái khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, khi đi qua trụ sở Ủy ban Hành Kháng Kim Sơn ở nhà cụ Bố Chiểu, tên Ái định vùng chạy vào trụ sở này, nhưng bị dân chúng cản lại, nên chạy theo bám lấy cụ Ngô Tử Hạ. Bốn người đi thành hàng ngang, nhưng muốn vào khu an toàn phải đi qua cổng rào làng kháng chiến ở trước nhà cụ Hội Ngọc. Vì cổng này chỉ rộng đủ cho 3 người đi lọt, nên Nguyễn văn Ái bị lọt lại, liền bị cụ trùm Nhật lôi cổ quật nhào xuống đường, dân chúng nhào tới đánh đòn ‘hội chợ’ và cuối cùng bị thanh toán bằng một phát đạn súng lục.

Khi trở về tòa giám mục để báo cáo tình hình, Đức Cha Lê hỏi tôi về trường hợp tên Ái bị đả thương đến chết và tôi được ủy nhiệm để giải quyết vấn đề này cho êm đẹp. Ngay khi được tin báo cáo là xác tên Ái bị vùi ở đống tro ở nhà Gạo, nơi đặt kho lẫm thóc lúa của nhà chung, tôi liền tới và thấy xác tên Ái bị nhiều vết thương và thấy chỉ còn lại có chiếc quần lót thiếu quần dài. Lý do là khi kéo xác tên Ái từ cổng rào vào tới nhà Gạo, đường dài trên nửa cây số, chiếc quần dài đã bị vướng mắc, mất trên đường.

Tôi ra lệnh phải tìm bằng được chiếc quần này, và xác tên Ái đã được chuyển sang nhà thương các bà Dòng Đức Bà Truyền Ciáo, xác được tắm rửa và thuốc đỏ được bôi trên các vết thương và băng bó cẩn thận. Sáng hôm sau một văn thư được Tổng Bộ Tự Vệ gửi sang phủ bộ Việt Minh báo tin: ‘Ông Nguyễn Ngọc Ái bị dân chúng đả thương nặng, được đưa vào nhà thương Phú Vinh cứu chữa, nhưng ông đã tắt nghỉ ngay lúc tối’ và yêu cầu phủ bộ cho người tới lãnh xác.

Tới sáng hôm sau tòa giám mục công bố một bản báo cáo về vụ xô sát xẩy ra chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm 1947, với chữ ký của Đức Cha Lê, Cố Vấn Chính Phủ, cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng bộ Thuơng Binh và Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Vệ Quốc Quân, bản báo cáo chính thức đó được viết như sau:

Chúng tôi, Giám Mục Lê Hữu Từ, Cố Vấn Chính phủ, Ngô Từ Hạ, đại biểu Quốc Hội, thứ trưởng bộ Thương binh, Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Cảnh vệ Kim Sơn, tường thuật vụ xô xát xẩy ra tại Phát Diệm, chiều ngày 8 tháng 9 năm 1947 đúng như chúng tôi thấy.

Nhân đồng bào Lê Văn Cương tức Dung bị Công an Kim Sơn bắt giải đi Ninh Bình, rồi 2 hôm sau thấy xác trôi trên sông Vạt, đồng bào địa phương xin làm lễ an táng, nên lúc 2 giờ rưỡi chiều 8-9-47, cùng cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh, ông Nguyễn Nguyễn Ngọc Ái, chủ tịch phủ bộ Việt Minh Kim Sơn và ông Nguyễn Cao Đàm, phó chủ tịch Ủy ban Hành -Kháng Kim Sơn, chúng tôi đi ra chợ Phú Vinh, nơi để xác ông Cương. Vì các đoàn thể từ hai mạn Đông Tây về rất đông nên phải đi lại xếp chỗ cho tiện. Trong khi chờ đợi, chúng tôi ở gần xác ông Cương, trước điểm sở Phú Vinh.

Khi buổi lễ sửa soạn bắt đầu thì đột nhiên nghe súng nổ, dân chúng đang đi, liền ầm ầm chạy. Rồi lại tiếp tiếng súng và một viên đạn rơi ngay gần chân tôi. Chúng tôi vội đứng lên tạm trú vào điếm sở. Vì thấy tình thế càng nguy và dân chúng sôi nổi quá, sự nguy hiểm cho cụ thứ trưởng Ngô Tử Hạ, ông Ái chủ tịch, và ông trung đội Hoàn, nên linh mục Đoàn Độc Thư, thừa ý tôi, ra lệnh cho tự vệ phải bảo vệ tính mệnh cho các vị ấy. Hai ông Phan Văn Kim và Trần Văn Tuyển chỉ huy tự vệ, liền hô to với dân chúng: ‘Thừa lệnh Đức Giám Mục, anh em tự vệ và dân chúng phải bảo toàn tính mệnh cho cụ thứ trưởng, ông Ái, chủ tịch và ông Hoàn, trung đội trưởng’

Thế rồi chúng tôi đi về mạn nhà chung, tôi đi trước, cụ Ngô Tử Hạ khoác tay hai ông Ái và Hoàn đi sau. Chúng tôi đi rất vội vàng. Nhưng được một quãng, ông Ái vùng vằng giằng tay ra lùi lại gần trụ sở Ủy Ban Kháng Chiến Kim Sơn. Vì tình thế quá nguy, nên chúng tôi mạnh ai nấy bước, về được đến nhà chung bằng yên. Đến khi chúng tôi tìm ông Ái thì mới biết trong khi ông lùi lại, ông bị dân chúng quá phẫn uất về việc định ám hại tôi, nên xông vào đánh ông bị thương. Vì vết thương quá nặng, nên ông đã tắt nghỉ tại nhà thương Phú Vinh ngay lúc tối. Nhờ bộ đội cảnh vệ giữ được trật tự, nên tình thế trở lại yên ổn rất mau. Cụ Ngô Tử Hạ được người nhà chung bảo vệ trở về nhà, còn trung đội Hoàn, nghỉ lại trong nhà chung một đêm, rồi sáng hôm sau trở về trại.

Trong khi chờ mở cuộc điều tra, chúng tôi mong rằng thượng cấp hết sức khôn khéo để nhân tâm trở lại yên tĩnh và không có gì làm cho dân tình thêm phẫn uất.

Làm tại Phát Diệm ngày 9-9-1947

Ký tên: Giám Mục Lê Hữu Từ

Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh

Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng

Trong bức thư luân lưu số 21 đề ngày 12-9-1947 của Đức Cha Lê Hữu Từ gửi cho các cha và các giáo hữu trên toàn địa phận Phát Diệm, ngài có ghi đầy đủ bản báo cáo nêu trên vì ngài e ngại rằng có nhiều tin đồn được loan truyền trong dân chúng không đúng sự thật và ngài viết thêm:

‘Như anh em đã thấy trong vụ xô xát này, tôi lâm vào tình thế rất hiểm nghèo, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã đoái thương gìn giữ tôi an toàn tính mệnh. Vì thế tôi xin anh em cùng với tôi hết lòng cám ơn Chúa và Đức Mẹ…’ và kết thúc bức thư luân lưu ngài xin những hội các bà, các trẻ con phải ra sức kêu xin Chúa cất các sự cheo leo đang đe dọa Giáo Hội Việt Nam.

Ngay sáng hôm sau mồng 9 tháng 9, năm 1947, Việt Minh cử một số đoàn viên của nghiệp đoàn xe kéo dưới quyền anh Ninh (Rỗ) tới nhà thương Phú Vinh lãnh xác tên Nguyễn Ngọc Ái và đưa lên huyện lỵ Yên Mô để chôn cất. Được biết lễ an táng được tổ chức trọng thể và dĩ nhiên Việt Minh cũng vận động nhiều dân chúng Yên Mô tham dự và đưa ra khẩu hiệu: ‘Trả thù cho đồng chí Nguyễn Ngọc Ái’ và nhiều người cho chúng tôi biết thêm là hầu như trên mộ chí của Ái, Việt Minh có cho khắc tên của 3 người mà chúng cho là thủ phạm gây ra vụ Ái bị dân chúng Phát Diệm đập chết. Tin tình báo của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc cho biết Việt Minh đã điều động sư đoàn 304 về bao vây Phát Diệm nên lệnh báo động được ban hành, không những chỉ cho các đơn vị Tự Vệ Công Giáo tại Phát Diệm không mà thôi, mà lệnh này còn đặt tất cả mọi đơn vị Tự Vệ Công Giáo ở các giáo xứ trong vùng, trong tình trạng báo động sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.

Riêng trong khu vực chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ như Vinh Trung, Vinh Ngoại, Vinh Chợ và Thượng Kiệm, và các khu vực khác cũng vậy, tất cả các đầu đường giong đều được rào kín lại hết, nhiều lũy tre và cây cối được hạ nằm xuống đầy đường như chướng ngại vật và mọi sự di chuyển của dân chúng trong khu xóm đều theo một hệ thống đường gọi là ‘Chiến khu’, được thiết lập nối liền từ vườn nhà nọ sang vườn nhà kia và các nhà ở khu phố đều đục tường thông sang nhà bên cạnh, không một người lạ mặt nào có thể lọt vào được trong các khu xóm.

Ngoài những tự vệ được võ trang đều hăng hái xung phong vào các công tác bảo vệ tòa giám mục chống lại mọi sự xâm nhập của bộ đội Việt Minh, tình hình Phát Diệm trở nên hết sức ngột ngạt và căng thẳng, nhưng chúng tôi rất yên tâm tin rằng tuy sư đoàn 304 của Việt Minh bao vây Phát Diệm một cách rất chặt chẽ nhưng chúng không dám tấn công vào Phát Diệm. Lý do vì một tay gián điệp nhị trùng tên Trần Điển gốc người Trà Cổ ở Móng Cáy, tế tử của Phát Diệm, đã cung cấp cho chúng tôi một bản sao của một công điện Hồ Chí Minh gửi cho Trần Lâm, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh & Kháng chiến tỉnh Ninh Bình, ra lệnh ‘Tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, bức công điện này được sao gửi cho một số cơ quan công quyền của Việt Minh. Sở dĩ Hồ Chí Minh gửi công điện cấm bộ đội Việt Minh không được ‘đụng’ tới Phát Diệm, có thể vì họ Hồ đã được Vũ Đình Huỳnh báo cáo cho biết rõ những sự việc liên quan đến việc xô sát xẩy ra ở Phát Diệm.

Đúng vào thời gian này tình hình chính trị ở Việt Nam có nhiều biến chuyển rất quan trọng, nên lý do chính trong việc Hồ Chí Minh không dám cho bộ đội ‘đụng’ tới Phát Diệm là vì Cựu Hoàng Bảo Đại sau một thời gian ẩn mình, im lặng ở Hồng Kông lại đột nhiên tuyên bố, ngày 5 tháng 9 năm 1947, rằng ông sẵn lòng theo ý nguyện của nhân dân Việt Nam đứng ra lãnh đạo quốc gia một lần nữa.

Đến ngày 10 tháng 9 năm 1947, Cao ủy Pháp ở Đông Dương thời bấy giờ là Bollaert tuyên bố tại Hà Đông rằng Pháp ưng thuận về nguyên tắc cho Việt Nam độc lập, và Cựu Hoàng có chiều hướng nhận lời đứng ra điều đình với Pháp nên Hồ Chí Minh vội vàng ủy cho Trần Lâm chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình cùng một phái đoàn hùng hậu về Phát Diệm ngày 15 tháng 9, 1947 để trấn an Đức Cha Lê Hữu Từ.

Trong cuộc yết kiến, ông Chánh án Tường đã trình với Đức Cha Từ; ‘Biến cố ngày 8-9-47 chỉ là hậu quả của chế độ dân chủ trong buổi phôi thai. Cán bộ chính phủ kém mềm dẻo, hành động cách máy móc; dân chúng thì nông nổi chưa ý thức đủ bổn phận người dân trong một quốc gia mới dành độc lập, nên xin Đức Cha Cố Vấn truyền thả tự do cho các cán bộ bị bắt giam và giải tỏa tình trạng báo động.

Phần chính phủ đã cho hạ tầng công tác ông trưởng ty Công an Kim Sơn Nguyễn Kim Đạt (người chịu trách nhiệm về việc thảm sát cán bộ công giáo Tống Văn Dung) và đã thuyên chuyển Đạt đi nơi khác. Một ngày gần đây Hồ Chí Minh sẽ gửi phái đoàn cao cấp về trình với Đức Cha Cố vấn một giải pháp có ích lợi cho cả đôi bên. ‘ Sỡ dĩ ông chánh án Tường được cử ra trình bầy với Đức Cha Lê là vì ông ta là người công giáo quê ở xứ Bích Tri tỉnh Hà Nam.

Với việc Cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố với quốc dân ngày 18-9-1947 rằng đã từ ngôi báu vì hạnh phúc của dân; nay nếu dân muốn vời ra giúp việc điều đình với Pháp, thì cũng sẵn lòng đòi hỏi Độc Lập và Thống Nhất cho hợp với nguyện vọng chung; cộng thêm việc phái đoàn chính phủ Việt Minh về yết kiến Đức Cha Lê Cố Vấn với những lời lẽ khoan dịu sau vụ chủ tịch phủ Việt Minh Nguyễn Ngọc Ái bị nhân dân dập chết. Nên dân tình nói chung và dân Phát Diệm nói riêng đang chịu những áp lực của việc bị bao vây bởi sư đoàn 304, tỏ ra rất xôn xao và có nhiều tin đồn thổi bất lợi cho đường lối chính trị của Phát Diệm. Vì thế Đức Cha Lê đã cho lập nhiều phái đoàn đi tới các giáo xứ của địa phận để minh định lập trường của người Công Giáo trước thời cuộc đang biến chuyển mạnh với việc Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính. Theo đó người Công Giáo nên:

-Bình tĩnh và sáng suốt để nhận định thời cuộc.

-Sáng suốt nhận định các âm mưu của bọn phản động chia rẽ sự đoàn kết giữa lương và giáo.

-Tôn trọng kỷ luật, khôn ngoan trong hành động đừng để Công Giáo mang tội với Tổ Quốc.

Ngoài việc lập các phái đoàn đến giáo xứ để giải thích Đức Cha Lê Hữu Từ còn minh định rõ lập trường của ngài đối với chính phủ Hồ Chí Minh trong bức thư luân lưu số 22 đề ngày 25-9-1947.

‘Cụ Hồ Chí Minh đã thấu hiểu mưu mô của bọn phản động. Cũng như tôi, Cụ đã đau lòng và lo ngại trước những việc đáng tiếc xẩy ra có hại cho sự đoàn kết giữa Công Giáo với Chính phủ. Để hàn gắn và làm êm dịu ngay những vết thương chia rẽ ấy, vừa đây, Cụ đã đặc phái ủy viên thân tín là cha Phạm Bá Trực, phó chủ tịch ban Thường vụ Quốc hội về thảo luận với tôi.’

Đáp lại mối thịnh tình trước sau của Cụ đối với Công Giáo và riêng tôi, xin các cha truyền cho bổn đạo phải trọng kính và tùng phục chính phủ nơi các viên chức địa phương, phải hết lòng hợp tác trong những công việc có lợi cho Tổ Quốc, đừng hành động gì, đừng có thái độ khiêu khích bất cứ trong ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi kẻo rồi ‘cái sẩy nẩy cái ung’ hàn gắn không kịp’.

‘Nói tóm lại, tình thế hiện nay thật rất mực nghiêm trọng, nếu người Công Giáo không biết tôn trọng kỷ luật, không khôn ngoan trong hành động, có thể nên cớ cho Công giáo mang tiếng, mang tội với Tổ Quốc là điều tôi hết sức khuyên can và trừng phạt’.

Được biết cha Phạm Bá Trực đã tiết lộ cho Đức Cha Lê Hữu Từ biết rằng: ‘Khi xẩy ra biến cố ngày 9-9-1847 mà Nguyễn Ngọc Ái bị chết, đa số nhân viên chính phủ muốn đem quân về làm cỏ Phát Diệm, nhưng Hồ Chí Minh đã cản lại, nói rằng: ‘Bây giờ ta đang xây nhà thì dĩ nhiên những đống gạch vụn bừa bãi phải có, khi xây xong thì hốt đi có khó khăn gì’.

Trong bức thư luân lưu, Đức Cha Lê Hữu Từ cũng yêu cầu các cha nhắn nhủ anh em giáo hữu mệnh lệnh của ngài đã ban bố ngày 8 tháng 2 năm 1947: Cấm bổn đạo gia nhập đảng phái chính trị. Sở dĩ có lệnh cấm này vì ngày 20 tháng 1 năm 1947, bốn thanh niên công giáo người làng Văn Hải và như Tân là Hạnh, Mão, Long, Quỳnh đã gia nhập đảng cộng sản và về làng Văn Hải quấy rối theo lệnh của Việt Minh, nên bị dân chúng uất ức đập chết cả 4 tên. Sau đó 60 người dân Văn Hải bị Việt Minh bắt giữ và tra tấn, nhờ có Đức Cha Lê can thiệp với Hồ Chí Minh nên mới được thả tự do.

Trong những năm tranh đấu hào hùng nhất của Phát Diệm chống thực dân Pháp và Cộng Sản dưới quyền lãnh đạo của Đức Cha Lê Hữu Từ, các đoàn viên của hai đoàn thể cách mạng quốc gia Đại Việt Duy Dân Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hoạt động một cách rất đắc lực, hoàn toàn dưới danh nghĩa Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm.

Tuy nhiên cũng có một số đảng viên của đảng khác như đảng Dân Tộc lại hoạt động một cách quá hăng say, hơn nữa lại còn chủ trương bạo động quá khích ở một số xứ đạo. Hơn nữa đảng Dân Tộc lại còn bị cán bộ Việt Minh xâm nhập, xúi làm bậy và là đầu mối cho Cộng Sản tung ra nhiều vụ đàn áp tại Bình Sa và Phúc Nhạc. Đức Cha Lê Hữu Từ cho là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”, gây ra những hoàn cảnh khó khăn. Trong thư luân lưu số 23 ngày 15 tháng 10 năm 1947, ngài viết như sau:

‘Từ ít lâu nay, sự an ninh trong địa phận, nhất là trong vùng Kim Sơn bị đe dọa và hầu như mất hẳn, làm cho các Cha và anh em sống những giây phút hồi hộp lo sợ, mà tôi rất đỗi đau lòng.’

Trước hết ta phải nhận lỗi chúng ta. Vì trong giáo hữu cũng như nhà Đức Chúa Lời (tu sĩ) ít kẻ sống đúng tinh thần Phúc Âm, ít ăn năn đền tội mình và đền tội cho kẻ khác.

Một cớ nữa do kinh nghiệm rút được ở những cuộc vây bắt Bình Sa (từ ngày 4-10-1947) và Phúc Nhạc (từ ngày 7 tới 14 tháng 10-1947). Số là bọn người dùng danh nghĩa đảng phái lẩn lút vào dân lương thiện đã có những hành động quá khích như cướp của giết người… Chính phủ đã nhiều lần yêu cầu tôi cộng tác để tiêu trừ bọn côn đồ. Dầu tôi chẳng muốn đem con bỏ chợ, nhưng vì là một công ích cho sự an ninh toàn dân, tôi không thể làm khác hơn là thinh lặng một đôi lần.

Tôi đau đớn vô cùng khi thấy đồng bào bị chồng chất tai ương: nào là phải hy sinh để trường kỳ kháng chiến, nào là bọn côn đồ bóc lột quấy nhiễu, rồi tiếp đến những ngày hoang mang sợ hãi khi công an bộ đội đến vây bắt côn đồ, sợ rằng ‘giặc chẳng bắt, bắt thầy tu’ lại còn thêm cái nạn tư

thù thừa cơ báo oán…!

Vì vậy xin các cha và anh em giáo hữu, đừng để bọn đó lẩn lút trong xứ trong dân, kẻo mai ngày sinh cớ xẩy ra những vụ khác to lớn hơn. Bọn chúng sẽ là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà…’

Việt Minh Cộng sản thường cho cán bộ xâm nhập các xứ đạo dưới danh nghĩa đảng phái để hoạt động và xúi làm bậy rồi báo cáo về. Bởi vậy khi tới lúc phải triệt hạ thì Việt Minh đã có đủ dữ kiện và nếu Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ có hạch hỏi thì bằng cớ sẽ được tung ra. Vụ Phúc Nhạc với Cao Thắng là điển hình nhất mà chúng viện lý do là ‘bắt côn đồ’.

Danh từ Côn Đồ, Viêt Gian và Phản Động thường được Việt Minh dùng để bắt giữ những người chúng muốn bắt: linh mục, tu sĩ Công Giáo hay các thượng tọa, đại đức, tu sĩ Phật Giáo, vẫn có thể trở thành côn đồ, việt gian, phản động dưới con mắt của Việt Minh.

Tinh thần chống Cộng sản của dân chúng Phát Diệm, mỗi ngày một gia tăng có thể đưa tới sự kiện: nhiều sự xô sát có thể xẩy ra do tinh trạng báo động ở các xứ đạo mà Pháp có thể lợi dụng để tung quân về chiếm đóng Phát Diệm với lá bài Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính, và đặt Phát Diệm vào một tình thế rất khó xử, nên Hồ Chí Minh đã cử linh mục Phạm Bá Trực, quốc vụ khanh, lãnh đạo phái đoàn chính phủ, về yết kiến Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, đệ trình một văn thư đưa ra giải pháp ‘gọi là có lợi cho cả đôi bên’.

Theo đó Việt Minh đề nghị: Vì tôn trọng và cảm mến tài đức của Cố Vấn, Hồ chủ tịch muốn được san sẻ một phần trách bằng cách nhường hẳn quyền cai trị toàn phủ Kim Sơn gồm 40 xã ấp, có 32 giáo xứ thuộc các tổng Như Sơn, Hồi Thuần, Hướng Đạo, Tự Tân và Truy Lộc với khoảng 150 ngàn dân số. Các cơ quan hành chính, quân sự… của chính quyền rút đi hết, để Đức Cha Lê Cố Vấn toàn quyền tổ chức; ủy cho linh mục quốc vụ khanh toàn quyền đại diện Chủ tịch Chính phủ, tham khảo ý kiến Cố vấn và báo cáo về để Chính phủ quyết định….

Đức Cha Lê Hữu Từ đã nhã nhặn từ chối đề nghị của chính phủ Việt Minh và cám ơn lòng tốt của ông Hồ Chí Minh, lý do viện ra để từ chối là vì ngài là Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo, trên cương vị Cố Vấn chính phủ, ngài tranh đấu không phải là mục đích tham quyền cố vị, nhưng vì trước hết là phục vụ Giáo Hội và Tổ Quốc, sau nữa là để bảo vệ cho quyền lợi của dân chúng bị áp bức.

Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng ‘tri kỷ tình thâm của Hồ Chí Minh’ Đức Cha Lê bằng lòng nhận một khu vực rất nhỏ, một nửa xã Phát Diệm từ đường số 10 trở lên bề ngang rộng một cây số và dài 3 cây số, bao trùm họ Phát Trung và Phát thượng. Ba mặt được bao bọc bởi ba sông đào ngăn cách các họ đạo: Phát Ngoại, Lưu Phương, Vinh Trung, và Vinh Chợ. Tòa Giám Mục là trung tâm điểm và được đặt tên là Khu An Toàn Phát Diệm.

Khu An Toàn Phát Diệm được hợp thức hóa trong một hội nghị triệu tập trụ sở của Ủy Ban Hành chánh, Kháng chiến Kim Sơn do linh mục quốc vụ khanh chủ tọa với đông đủ các cơ quan chính quyền địa phương cùng phủ hộ Việt Mnh và các thân hào nhân sĩ trong số đó có đại đức Trí Dũng, chùa Phổ Quang Đồng Đắc và linh mục Phạm Ngọc Chi (sau này là giám mục).

Trong Khu An Toàn Phát Diệm, Đức Cha Lê, Cố vấn chính phủ, có toàn quyền tổ chức những cơ sở cần thiết và nhân viên và cán bộ của chính quyền không được xâm nhập nếu không có phép của tòa Giám Mục. Nhờ ở Khu An Toàn này biết bao nhân vật trong các đoàn thể cách mạng quốc gia đã tránh được bàn tay độc tài, tàn ác của Cộng sản và cũng từ đây nhiều chiến dịch chống cộng sản đã được phát động lan tràn tới Miền Trung và vùng đồng bằng Bắc Việt.