← Quay lại trang sách

Chương 17 Những cuộc xô xát đẫm máu xẩy ra tại Phát Diệm -

Sau khi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ đêm ngày 19-12-1946 Việt Minh thấy rằng cần phải đoàn kết toàn dân trong công việc kháng chiến chống thực dân Pháp thì mới có thể dành được độc lập và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng chủ trương rằng công giáo không thể không cùng đứng chung một chiến tuyến với toàn dân trong công cuộc chiến đầu dành Độc Lập cho Tổ Quốc

Nhưng khốn nỗi công cuộc kháng chiến dành độc lập đó không còn giữ được tính chất liên hiệp quốc gia như trước nữa mà đảng Cộng Sản hầu như giữ độc quyền lãnh đạo chính phủ Việt Minh. Nên lập trường chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là người công giáo hợp tác cùng toàn dân trong công cuộc chống thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc nhưng triệt để chống cộng sản vô thần theo tôn chỉ Phụng sự Thiên Chúa và Tổ Quốc.

Ngay trong thời kỳ kháng chiến, Việt Minh vẫn đề cao chủ thuyết Các Mác và Lêninít, báo Sự Thật, cơ quan tuyên truyền chủ nghĩa Mác viết: ‘Chúng ta cần phải nói ngay rằng: ‘Cộng sản là vô thần, và vô thần là thế nào? Là không tin có trời cũng như không tin có một vị toàn năng, toàn thiện, tạo dựng nên và sai khiến vạn vật và loài người… vật chất là nguồn gốc của những cảm giác và ý niệm và tư tưởng là sản phẩm của vật chất…’

Từ học thuyết Duy Vật của Các Mác suy diễn ra lý tưởng vô thần, vô tôn giáo của Cộng Sản, mà Lênin tổ sư của Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố: ‘Tôn giáo là thuốc phiện mê dân, tư tưởng đó là viên đá góc tường của chủ thuyết Mác Xít’, nên trong một bức thư gửi cho Đức Cha Lê Hữu Từ đề ngày 2-3-1947, Hồ Chí Minh viết: ‘Lý tưởng Duy Thần và học thuyết Duy Vật không hợp nhau là lẽ tất nhiên…’ một khi lý tưởng Duy Thần của Công Giáo không thể hợp tác với lý tưởng Vô Thần, nên Cộng sản coi sự hợp tác giữa Công Giáo và Cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc, chỉ là giai đoạn.

Trong khi Hồ Chí Minh đóng trò mềm mỏng thì cán bộ Cộng sản khắp nơi dở trò đàn áp Công Giáo. Một số nhân vật đầu não của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trong đó có chúng tôi đã bị Việt Minh bắt giữ một thời gian rồi thả ra mà không hề nói lý do tại sao lại có những cuộc bắt bớ ấy. Ngoài ra nguyên tại giáo phận Phát Diệm, từ năm 1946 đến những tháng đầu của năm 1947, khoảng 5,000 người vừa công giáo vừa không công giáo đã bị Cộng sản bắt giữ, đây chỉ tính trên những đơn xin can thiệp của thân nhân những người bị bắt giữ, gửi tới văn phòng Đức Cha Cố Vấn chính phủ ở Phát Diệm.

Khi nhận được thư phản kháng quyết liệt của Đức Cha Lê Hữu Từ về việc chính quyền Việt Minh đàn áp nhân dân, Hồ Chí Minh cấp tốc gởi 3 phái đoàn về Phát Diệm trong 5 ngày, và mang lệnh thả tự do cho một số người bị bắt, sỡ dĩ Hồ Chí Minh có những hành động mau lẹ và nhượng bộ như vậy là vì tình hình chính trị của đất nước có chiều hướng thay đổi. Chính là việc Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lời yêu cầu của nhân dân sửa soạn đứng ra nói chuyện với Pháp và hơn nữa dân chúng Phát Diệm cương quyết chống lại mọi việc đàn áp của Công sản bằng võ lực, do đó nhiều cuộc xô sát đẫm máu đã xẩy ra tại nhiều nơi ở giáo phận Phát Diệm.

Trước vụ ông Tống Văn Dung, một cán bộ Công Giáo Cứu Quốc bị Việt Minh hạ sát, gây ra vụ dân chúng Phát Diệm đả thương đến trí mạng chủ tịch phủ bộ Việt Minh Nguyễn Ngọc Ái và một số cán bộ. Ngoài ra một cuộc nổi dậy của dân chúng Văn Hải ở miền duyên hải Phát Diệm chống lại sự xâm nhập của Việt Minh đã làm cho 4 cán bộ cộng sản bị thiệt mạng.

Xã Văn Hải đông dân và trù phú vào bậc nhất miền duyên hải Kim Sơn và thanh niên Công Giáo xứ Văn Hải rất hăng hái trong công cuộc chung, ông Chánh Bích giữ chức chủ tịch khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải với linh mục Vũ Hữu Văn là cố vấn chỉ đạo. Cha chính xứ Văn Hải là linh mục Nguyễn Thiên Khuyến, Ủy ban hành chính kháng chiến xã Văn Hải là ông chánh Văn và tất cả các ủy viên trong ủy ban đều là người công giáo cả.

Xã Văn Hải có 4 ấp thì 3 ấp toàn tòng công giáo, ấp thứ 4 có ít người nhất thường gọi là ấp lương vì không có ai là công giáo cả. Ấp này nằm sát với xã Truy Lộc, một xã hoàn toàn theo Việt Minh, nên xã bộ Việt Minh Truy Lộc được trao trách nhiệm phải triệt hạ bằng được các tổ chức Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải trong 4 giáo xứ Văn Hải, Tân Khẩu, Tân Mỹ và Cồn Thoi.

Du kích Việt Minh của mấy xã lân cận thường tổ chức những buổi thao dượt ở xã Vân Hải gọi là để cho du kích học tập sẵn sàng đối phó với trường hợp thực dân Pháp đổ bộ chiếm đóng Văn Hải, đây chỉ là một lý do để du kích sửa soạn xâm nhập. Việc này làm cho tinh thần giáo dân Văn Hải rất căng thẳng nên họ quyết chiến đấu bảo vệ xóm làng và nhất là bảo vệ giáo xứ và thánh đường. Và chúng tôi được ông Chánh Bích báo cáo đầy đủ về những hoạt động của du kích Việt Minh và để đề phòng mọi bất trắc, các đại đội Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở các xứ bộ miền duyên hải đều được đặt trong tình trạng báo động, và việc du kích quấy rầy dân chúng được thông báo cho Ủy ban Hành chánh Kháng chiến nhưng tỉnh không hề can thiệp.

Khi được tin mật báo là du kích Việt Minh có chương trình mở cuộc ruồng bắt các linh mục chính xứ ở miền duyên hải và bắt giữ một số viên chức xã, vào dịp Tết Đinh Hợi (1947), và Văn Hải sẽ là thí điểm đầu tiên; ông Quản Mỹ, ủy viên xã đồng thời là chỉ huy đơn vị tự vệ công giáo cứu quốc Văn Hải, liền ra tay tấn công trước, bằng việc kéo nhau sang ấp lương phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã bộ Việt Minh. Nên tối 5 giờ chiều ngày hôm sau thứ bẩy 20 tháng giêng năm 1947, du kích Việt Minh kéo nhau tới bao vây bắt ông Quản Mỹ trong nhà xứ Văn Hải.

Trong khi du kích dẫn giải ông Mỹ ra khỏi nhà xứ, có linh mục Vũ Hữu Văn đi theo thì đúng lúc Hướng Đạo sinh, cắm trại ở khuôn viên bên cạnh nhà thờ, tưởng rằng du kích Việt Minh bắt giữ cha Văn, liền kéo chuông nhà thờ báo động dân chúng đến tiếp cứu và xông ra ném đá gạch vào bọn du kích. Ông thủ Tường múa song kiếm xông ra đấu với tên cán bộ Quýnh, ông bị chém đứt một tai, nhưng liền đó tên Quýnh, bị anh Mai hạ thủ bằng đòn sóc đánh vào hạ bộ, nằm chết dẫy đành đạch.

Không ai bảo ai giáo dân ùa ra loạn đả bọn du kích đập chết 3 tên cán bộ khác là Hạnh, Mão và Long, một điều khá trớ trêu là phía du kích Việt Minh không thấy nói tên nào bị thương cả nhưng 4 người bị đả thương đến chết đều là người công giáo được dân chúng Văn Hải gọi là giáo gian, còn về phía dân chúng 9 người bị thương. Đến 12 giờ đêm, Việt Minh cho người tới thương lượng với linh mục Vũ Hữu Văn để một đại đội du kích tới thu lượm 4 xác chết.

Sau khi giáo dân xung đột với du kích Việt Minh, người ta thấy cửa kính nhà thờ bị đập vỡ, một cánh cửa ra vào bị gẫy và 3 nơi đường Thánh giá bị bể rớt, nhiều người cho rằng Ninh Bình biết, nhưng hầu như tỉnh bộ Việt Minh cố ý lờ đi và những thiệt hại vật chất ấy do du kích Viêt Minh gây ra, nhưng có người khác cho rằng chính thanh niên Văn Hải đã gây ra mấy vụ đổ vỡ này để có chứng cớ buộc tội du kích Việt Minh đập phá nhà thờ.

Giáo dân xứ Văn Hải sống một đêm hãi hùng lo sợ, nam phụ lão ấu hầu như thức trắng đêm đề phòng một cuộc trả thù của Việt Minh, 4 đại đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Tân Khẩn, Tân Mỹ, Như Tân và Cồn Thoi tới trợ lực cho anh em ở Văn Hải và chúng tôi ở trên Phát Diệm cũng đặt các đơn vị chiến đấu trong tư thế báo động sẵn sàng can thiệp nếu cuộc xung đột lan rộng. Trong khi đó Việt Minh cũng điều động quân tới bao vây kín xã Văn Hải, tới 9 giờ sáng, một phái đoàn của chính quyền tới xứ đường để thảo luận với linh mục Vũ Hữu Văn, cố vấn chỉ đạo Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải.

Trong khi cuộc thảo luận đang diễn ra ở xứ đường thì công an đổ người đi ruồng xét bắt giữ 40 thanh niên Công Giáo và ra lệnh phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã Văn Hải. Nhưng công an chưa kịp ra tay nổi lửa thì lệnh báo động được ban ra dân Văn Hải đổ ra đầy đường ngõ, quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ xóm làng và giải thoát cho những người bị bắt, làm cho mấy cán bộ chính quyền cùng công an phải bỏ chạy thục mạng. Tuy nhiên khi kiểm điểm lại thì vẫn còn 13 giáo dân bị công an Việt Minh dẫn giải đi mất.

Ngay trước cuộc xung đột xẩy ra Đức Cha Lê Hữu Từ cố vấn chính phủ đã được báo cáo rất đầy đủ về những hoạt động gây rối của du kích Việt Minh làm giáo dân Văn Hải phẫn uất đến cực độ, nên những việc đáng tiếc đã xẩy ra không ai kịp ngăn cản. Đức Cha Lê đã can thiệp thẳng với Hồ Chí Minh để xin tha cho những người bị bắt, đến ngày mồng 4 tháng giêng Đinh Hợi, Việt Minh thả tự do cho 3 người và dần dần thả hết tất cả 13 người, tuy Việt Minh không kiểm soát được xã Văn Hải, nhưng có tin cho biết gần 60 người dân bị Việt Minh bắt tỉa từng người một, khi có việc đi ra khỏi xã Văn Hải.

Để trấn an các giáo dân đang hoang mang lo sợ, Đức Cha Lê, cố vấn chính phủ về Chánh đường Văn Hải dâng thánh lễ ngày chúa nhật 19 tháng 3 năm 1947, tháp tùng Đức Cha Lê có một phái đoàn của chính quyền Việt Minh gồm có Nguyễn Công Truyền, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình, Đào Gia Lựu, trưởng ty Công an tỉnh và các viên chức của phủ bộ Kim Sơn. Nhiều ngàn giáo dân các giáo xứ miền duyên hải cũng kéo về Văn Hải tham dự cùng với các chủng sinh trường lý đoán Thượng Kiệm và trường thử Trì Chính.

Trong bài giảng thuyết tại nhà thờ, Đứa Cha Lê nói với giáo dân Văn Hải: ‘…Trong biến cố vừa qua, chúng con đã vì lầm mà sát hại mấy người của chính phủ, đối với Chúa đó là tội phạm vào giới răn thứ 5, ‘Chớ giết người’. Chúng con hãy ăn năn và đi xưng tội Chúa sẽ tha thứ…’

Sau thánh lễ, một cuộc ‘mít tinh’ đã được tổ chức để nhân dân miền duyên hải chào mừng Đức Cha Lê Cố vấn và phái đoàn của chính phủ, trước mặt nhiều ngàn giáo dân chúng, Đức Cha Lê đã lên diễn đài, hướng về phía phái đoàn chính phủ, chỉ vào mặt ông Nguyễn Công Truyền mà nói: ‘…Nguyên nhân gây ra vụ biến động Văn Hải là do các ông gây ra, chính những hạ cấp của các ông đã làm những việc thất nhân tâm nên bị nhân dân quá phẫn nộ, đã tự động vùng dậy. May mà mấy cán bộ hạ cấp của các ông đã chịu thay cho các ông, nếu không chính các ông là người phải chịu hình phạt ấy của nhân dân…’

Rút kinh nghiệm đau thương ở vụ biến động Văn Hải và vụ ông Tống Văn Dung ở Phát Diệm, Việt Minh đã bị thất bại nặng nề vì nhiều cán bộ bị dân chúng nổi lên đả thương đến trí mạng, nên cuộc Việt Minh đàn áp Phúc Nhạc đã diễn ra theo chiều hướng có kế hoạch đàng hoàng. Tuy nhiên trong cuộc xung đột này cả 2 bên quần chúng và Việt Minh đều bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng vì cuộc đàn áp của Việt Minh có liên hệ tới những tổ chức của đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Đảng Dân Tộc dưới quyền lãnh đạo của Cao Thăng và Cai Khoan hoạt động rất mạnh tại Phúc Nhạc, đặc biệt cả 2 người này đều là bạn học cùng lớp với tôi trong mấy năm ở trường các Sư Huynh Thiện Giáo ở Phát Diệm, Cao Thăng là bí danh của anh Trần Văn Lý sinh quán ở Phát Diệm. Khoan là người Phúc Nhạc, sở dĩ gọi là Cai Khoan vì Khoan là cai trong cơ ngũ Khố Xanh của Pháp thời trước. Trong thời gian Cao Thăng hoạt động ở Phúc Nhạc vẫn liên lạc thường xuyên với tôi trong công cuộc tranh đấu chung nên nhiều người lầm lẫn nói rằng đảng Dân Tộc và Duy Dân cũng là một.

Chi bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Phúc Nhạc dưới quyền lãnh đạo của ông Tào sau này là quận trưởng quận Yên Khánh nên thường gọi là ông Quận Tào hoạt động rất đắc lực ở quận Yên Khánh trong đó có Phúc Nhạc, cũng như Cao Thăng và Cai Khoan, ông quận Tào cùng với anh Vi đều cùng phối hợp những hoạt động chống Cộng Sản với chúng tôi ở Phát Diệm. Trong thời gian sau này trong trận chiến Yên Cự Hạ nơi con trai tướng Pháp De Lattre de Tassigny chết, ông Quận Tào rất nổi tiếng với những trận du kích đánh vào hậu cần của sư đoàn 304 và 308 của Việt Minh và khi di cư vào Nam năm 1954 ông quận Tào định cư ở tỉnh Bến Tre và bị xe lôi đụng chết.

Trở lại câu chuyện Phúc Nhạc bị bao vây trong gần 2 tuần lễ trước khi bị Việt Minh triệt hạ, nguyên là ngày mồng 6 tháng 10 năm 1947, tân chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Khánh Chiến tỉnh Ninh Bình là Trần Lâm cùng với trưởng ty Công an Đào Gia Lựu, tiểu đoàn trưởng Vệ Quốc Quân Trần Văn Khung đột nhiên xin tới thăm Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ vào khoảng 8 giờ tối, gọi là để Trần Lâm ra mắt Đức Cố vấn Chính phủ. Đồng thời để trình bầy về việc Phúc Nhạc bị hai đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng lũng đoạn, gây ra nhiều rắc rối đối với chính quyền; phái đoàn cũng trình lên Cố vấn những tài liệu đã thâu thập được, chứng minh những hành động phi pháp của các phần tử gọi là ‘Côn Đồ’ ẩn náu trong khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phúc Nhạc.

Trước những lời trình bầy buộc tội các ’Côn Đồ’ của phải đoàn tỉnh bộ Ninh Bình, Đức Cha Lê hiểu ngay rằng đây chỉ là những chứng cớ nại ra để triệt hạ Công Giáo, nên ngài trả lời: ‘Nếu quả thật có những hành động không tốt đẹp ấy thì tôi cũng không dung thứ, những các ông phải thận trọng, tránh việc làm thiệt hại tới tài sản và tính mạnh của dân lành’

Ngay sáng sớm ngày hôm sau, một liên lạc viên của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được cấp tốc phái đi báo tin cho khu bộ Phúc Nhạc biết mà đề phòng, nhưng phải mất tới gần 2 ngày liên lạc viên mới lọt được màng lưới dầy đặc bộ đội Việt Cộng bao vây Phúc Nhạc, chỉ cách Phát Diệm có 11 cây số.

Khi nhận được tin, ông Tào và các anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương tìm nơi ẩn náu, cho rằng ‘tránh voi không xấu mặt’, nhưng ngược lại cánh ông Cao Thắng và Cai Khoan và đảng viên đảng Dân Tộc nhất quyết cùng với khu bộ VNCGCQ tổ chức bố phòng, chiến đấu đến cùng.

Hồi 4 giờ sáng ngày thứ bẩy mồng 9 tháng 10, bộ đội Việt Minh mở cuộc tấn công vây kín và bắt đầu xâm nhập vào khắp nơi cùng một lúc. Dân chúng được báo động ùn ùn kéo ra ứng chiến. Đến 6 giờ sáng, súng bắt đầu nổ, cuộc giao tranh diễn ra ác liệt kéo dài suốt cả ngày. Đến chập tối, sau khi đạn dược đã cạn và dân chúng bắt đầu mệt mỏi vì quân số quá ít không địch lại được với bộ đội, tuy nhiên cũng đã hạ được 20 tên vừa bộ đội vừa công an, dân quân rút về cố thủ ở khu thánh đường và tiểu chủng viện Phúc Nhạc, bộ đội Việt Minh đã làm chủ tình hình và dân quân bao vây kín hai địa điểm này.

Cuộc bao vây kéo dài, mọi sinh hoạt trong xã Phúc Nhạc đều bị ngưng trệ: chợ cấm họp, các tiệm buôn đều đóng cả, nhà xử và tiêu chủng viện phải xuất gần hết lúa gạo trong kho lẫm để nuôi ăn hơn 1000 người bị kẹt trong vòng vây.

Sau 11 ngày bao vây và 3 ngày lục soát, Việt Minh bắt dẫn đi 596 người và nhờ ở sự can thiệp tức thời của Đức Cha Lê, Việt Minh thả tự do hầu hết những người bị bắt và chỉ giữ lại 20 người, rồi sau đó thả thêm 7 người nữa. Còn 13 người thuộc thành phần lãnh đạo đảng Dân Tộc trong đó có Cai Thắng và Cai Khoan đã bị Cộng sản kết án tử hình và đem ra xử bắn tại Núi Cánh Diều ở Ninh Bình.