Chương 18 Việt Nam Quốc Dân Đảng và Phát Diệm -
Trong những đảng phái tranh đấu sát cánh với Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm trong công cuộc chống Việt Minh và chống thực dân Pháp, Đại Việt Duy Dân và Việt Nam Quốc Dân Đảng được coi là những đoàn thể đã đóng góp đắc lực nhất.
Sau khi Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia và các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách Mạnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) phải rời Hà Nội ‘chạy’ sang bên Tầu, Phát Diệm trở thành nơi ẩn náu an toàn nhất cho mấy trăm anh em Việt Quốc, và nhân dịp này anh em Duy Dân và Việt Quốc đã hợp tác chặt chẽ với nhau, sát cánh với Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc trong công cuộc tranh đấu chung.
Những thành tích cách mạng oanh liệt dưới lá cờ của Việt Nam Quốc Dân Đảng của những dân Phát Diệm, thuộc bậc tiền bối của chúng tôi, mà không thấy nói tới trong quyền VNQDĐ Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927--1945 của Hoàng Văn Đảo, như việc ông Nguyễn Thái Học về ẩn náu ở nhà ông Cai Tổng Sự ở Hướng Đạo năm 1929. Cũng như những chi tiết khác về ông Nguyễn Minh Luân, một thanh niên Phát Diệm, đoàn viên đoàn cảm tử của Ký Con Đặng Trần Nghiệp, người ném bom vào ngục thất Hỏa Lò ở Hà Nội và cũng là liệt sĩ cùng bước lên máy chém với liệt sĩ Ký Con Đặng Trần Nghiệp ở cổng ngục thất Hỏa Lò Hà Nội. Chúng tôi mong được đóng góp thêm vào Đảng sử VNQDĐ và mong nhận được những lời chỉ giáo để được tự hào về những thành tích cách mạng của dân công giáo Phát Diệm, con cháu của những bực tiền nhân như cụ Tiên Điền Sứ Nguyễn Công Trứ và Cụ Sáu Trần Lục.
Trong công cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và Cộng sản, người Công Giáo Phát Diệm đã đấu tranh dưới mầu cờ của Việt Nam Quốc Đảng ngay từ ngày đảng ra đời giữa đêm lễ Giáng Sinh năm 1927. Khởi đầu, tỉnh đảng bộ Ninh Bình với chi bộ 13 người trong đó có 7 người là Công Giáo, và hầu hết đều là người vùng Phát Diệm.
Noi gương nhà cách mạng Phan Bội Châu chủ trương kết hợp dân tộc trong công cuộc chống Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã kết nạp nhiều người Công Giáo, nên trong số 13 liệt sĩ lên đoạn đầu đài ở Yên Bái sau cuộc Tổng Khởi Nghĩa 10-2-1930 thất bại, có 2 người Công Giáo. Một trong số 2 người này là Lê Hữu Cảnh, cựu chủng sinh, người đã được Việt Nam Quốc Dân Đảng tín nhiệm cử lên thừa kế Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học, lãnh đạo Đảng cho tới ngày 10-7-1930 thì bị Mật Thám của Pháp bắt tại Hải Phòng. Ông Nhượng Tống đã viết về Lê Hữu Cảnh trong sách Hoa Cảnh Nam như sau:
‘Nhà anh (Lê Hữu Cảnh) vốn theo Thiên Chúa Giáo, lúc trẻ anh chẳng những là một học sinh rất chăm học mà còn là một tín đồ rất ngoan đạo. Có lẽ vì thế mà người ta trông thấy anh rất hớn hở, khi hô xong câu: ‘Việt Nam vạn tế’ rồi đâm đầu vào máy chém, Nếu Chúa đã hy sinh để chuộc tội cho nhân loại, thì anh cũng đã hy sinh vì giải phóng cho đồng bào chứ sao? Ai còn có thể dâng mình cho Chúa và cho đất nước nữa hơn anh được.’
Sau vụ thực dân René Bazin, chủ sở mộ phu cho các đồn điền cao su ở miền Nam Việt Nam và bên Tân Thế Giới (Nouvelle Caledonie), bị Việt Nam Quốc Dân Đảng ra lệnh ám sát và ngày mồng 9 tháng 2 năm 1929 tại Chợ Hôm ở phố Huế thành phố Hà Nội, 3 đoàn viên trong ban ám sát là Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Lê Thành Dị đã thi hành bản án bằng 1 phát đạn bắn vào má và một phát đạn vào cổ tên thực dân Bazin và hắn đã đền những tội ác của hắn. Sau đó cả ba ông Viên, Lân và Dị chạy tới nhà một đồng chí là Nguyễn Thái Trác ở Chợ Đuổi, tức đường Goussard và từ đó biến đi không để lại tông tích.
Sau khi ám sát Bazin xong, một bản án được ghi trên ngực của hắn và có ký tên là Việt Nam Quốc Đảng, nên tụi mật thám Pháp ở Hà Nội điên cuồng tung ra một màng lưới dầy đặc truy tầm các lãnh tụ Việt Nam Quốc Đảng, nhưng Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và mấy đồng chí trong đó có nhà Sư tên Trạch, cả cô Giang lẫn cô Bắc, đều chạy thoát về ẩn náu ở làng Hướng Đạo, tại nhà ông Trần Sự, lúc bấy giờ đang giữ chức Cai Tổng của tổng Hướng Đạo, chỉ cách thị xã Phát Diệm khoảng một cây số rưỡi, đồng thời ông Cai Tổng Sự cũng giữ cả chức chánh trương giáo xứ Hướng Đạo.
Hướng Đạo là một xã gần hầu hết là người Công Giáo, và nhà ông Cai Sự rất rộng rãi, xây trên một thửa đất rộng 3 mẫu, và nhà có tới 7 chuồng trâu, hơn nữa lại là nhà an toàn cho các lãnh tụ VNQDĐ. Vì ông Cai Tổng Trần Sự là một trong 7 người Công Giáo trong chi bộ 13 người Tỉnh đảng Bộ VNQDĐ Ninh Bình đầu tiên, nên ông đã kết nạp được rất nhiều vị tổng lý trong vùng gia nhập vào các tổ chức của Đảng, trong số đó phải kể tới ông Cai Tổng Châu ở Lạc Thiện, ông Lý Cầu, chánh hương hội làng Lưu Quang, ông Giáp Úc ở làng Hướng Đạo, và ông Thơ Sáng ở Hòa Lạc là chú ruột của anh Trần Hữu Huyên hiện nay ở vùng Hoa Thịnh Đốn.
Sỡ dĩ trong suốt thời gian trốn tránh thực dân Pháp ở Hướng Đạo, ông Nguyễn Thái Học và các đồng chí được sự bảo vệ của cả một màng lưới các đồng chí thuộc giới tổng lý, tuyệt đối trung thành với Đảng, nên ngoài việc về ẩn nấu ở đây, nhiều cuộc hội họp cũng đã được ông Nguyễn Thái Học triệu tập với sự tham dự của Sư Trạch, cô Giang, Cô Bắc lại còn có các lãnh tụ VNQDĐ ở vùng Thanh Hóa, Nam Định và huyện Yên Mô ở tỉnh Ninh Bình cũng về họp nữa như Ông Cự, Ông Tú Kiều, Ông Cử Phương, cụ Cả Lữu v.v…
Theo lời ông Trần Thiện, cháu của ông Cai Tổng Sự, hiện ở Houston, Texas, một thời giữ chức chỉ huy trưởng Tổng Bộ Tự vệ Công Giáo Phát Diệm trong khi cha Tổng Hoàng Quỳnh sang giúp địa phận Bùi Chu tổ chức Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc, nói với chúng tôi là sau vụ Tổng Khởi Nghĩa ngày 10-2-1930 ở Yên Bái bị thất bại và 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong đó có Đảng trưởng Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài đền nợ nước. Ông Cai Tổng Trần Sự cũng bị mật thám của thực dân Pháp bắt giữ và đưa ra tòa xử án phát vãng chung thân lên nhà tù Lao Bảo ở miền rừng thiêng nước độc ở thượng du Trung Việt gần tỉnh Tchepone ở bên Lào và ông Cai Sự đã chết ở trong tù và gia đình đã cố công đi tìm xác, nhưng không thấy.
Trong khi về khám nhà ông Cai Tổng Sự, mật thám của thực dân Pháp đã bắt được nhiều ‘bom’ lửa làm bằng hộp thiếc của trà Tầu Chính Thái và Ninh Thái, ngoài ra lại còn đủ các loại khí giới cũng rất nhiều tài liệu của VNQDĐ. Chúng đã đào xới tìm tòi tang chứng ở khắp vườn tược và ngay nền nhà cũng bị đào tung lên nữa.
Trong số thân nhân của ông Cai Tổng Trần Sự bị mật thám Pháp bắt có con trai cả của ông Sự là ông Cả Hanh và sau khi bị quản thúc tại gia suốt từ năm 1930 đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật Bản đảo chánh Pháp, việc trình diện mới chấm dứt, nghĩa là mỗi tuần lễ phải lên trình diện ở huyện đường Kim Sơn. Và cứ đến các ngày lễ kỷ niệm của VNQDĐ hay của các nhà cách mạng Việt Nam là ông Cả Hanh phải ra nằm ngủ suốt đêm ở điểm canh làng Hướng Đạo.
Ngoài ra con rể và cháu của ông Cai Tổng Sự: Ông Ba Huyền, ông Phó Huế và Phó Tời cũng bị đầy ải chung thân, người đi Côn Đảo, người lên Lao Bảo và tất cả 3 người này đều bị chết rũ tù. Riêng thân phụ ông Trần Thiện là cụ Chánh Nghị, chánh hương hội làng Hướng Đạo là em thúc bá của ông Cai Tổng Sự cũng bị Mật Thám Pháp bắt giam, sau nhờ sự vận động nên được Pháp trả tự do.
Làm cách mạng đánh Pháp dành độc lập cho Việt Nam vào thập niên 1930, việc tiên phải nghĩ ngay đến việc đánh chiếm Hà Nội. Có thể nói rằng ‘Lấy được Hà Nội là lấy được tất cả’, cho nên ngay từ đầu Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đặc biệt chú ý đến các địa điểm chiến lược và cố gắng tuyên truyền vào các lớp Hạ Sĩ Quan người Việt Nam ở trong các thành của quân đội Pháp.
Nguyên chi bộ Không quân ở căn cứ Bạch Mai ngoại ô Hà Nội, Việt Nam Quốc Dân đã kếp nạp được 22 đảng viên, hầu hết đều là cai, đội do đội Môn tức Trần Văn Môn làm chi bộ trưởng. Còn ở hai trại thứ 4 và thứ 9 của linh Khố Đỏ trong thành (Citadelle) và trại binh Khố Xanh ở Đồn Thủy, không kể các binh đoàn, chỉ kể nguyên số cai và đội Khố Đỏ và Khố Xanh, đã có đến 200 người là đảng viên cán bộ VNQDĐ.
Sau ngày Nguyễn Thái Học bị bắt hụt ở Võng La thuộc tỉnh Phú Thọ, và sau hàng ngàn bom ở Bạch Mai và Thái Hà gần Hà Nội bị khám phá. Ở Hà Nội, Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ còn lại đoàn Ám Sát là đáng kể, và đoàn này được đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khắc Nhu, song người lãnh đạo chính thức là Ký Con Đặng Trần Nghiệp.
Sáng sớm ngày 10-2-1930, Lương Ngọc Tốn, trưởng ban ám sát từ Bắc Ninh sang Hà Nội, lãnh chỉ thị của Ký Con, khi nghe tin cuộc Tổng Khởi Nghĩa, khai mào vào buổi tối cùng ngày tại Yên Bái, Hưng Hóa và Lâm Thao, và sau khi hai người chia tay, Ký Con triệu tập 5 đoàn viên trong đoàn cảm từ: Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng, Nguyển Minh Luân, Nguyễn Bá Tâm và Nguyễn Quang Triều, đều là học sinh trường Bách Nghệ (École Pratique d’Industries) ở Hà Nội.
Ký Con trao cho mỗi người một số bom và ra lệnh đúng 8 giờ tối phải ném vào những địa điểm:
20 trái ném vào tư thất của chính sở mật thám Arnoux.
8 trái ném vào nhà pha Hỏa Lò
2 trái ném vào sở Sen Đầm (Gendarmerie) của Pháp
2 trái vào sở cảnh sát quận I
2 trái ném vào sở cảnh sát quận II
Sau khi thi hành nhiệm vụ và hồi 9 giờ tối, các đoàn viên đoàn cảm tử về báo cáo công tác tại nhà của ông Đào Tiến Tường ở số 24 phố Hàng Giấy Hà Nội (Tài liệu đảng sử của VNQDĐ của Hoàng Văn Đào),
Đoàn viên đoàn cảm tử ném 8 trái bom vào ngục thất Hòa Lò là Nguyễn Minh Luân, một thanh niên quê ở Phát ngoại làng Phát Diệm, anh ruột của cha Nguyễn Gia Đệ, một vị chỉ huy nòng cốt của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc cùng với cha Hoàng Quỳnh, và ông Luân là chú ruột của ký giả Nguyễn Trọng, nguyên chủ tịch nghiệp đoàn ký giả Việt Nam trước năm 1975.
‘Thanh niên Nguyễn Minh Luân là một sinh viên xuất sắc ở trường Bách Nghệ, trong khi theo học ở trường này ông đã học được cách chế bom, đừng kể việc sản xuất các dụng cụ và võ khí thông thường. Quả bom đầu tiên, mặc dù không công phá mạnh như bom chế tạo ngày nay, nhưng cũng làm khiếp đảm bom thực dân Pháp, vì quả bom đó nói lên sự uất hận của người Việt đối với bạo quyền Nhà nước bảo hộ Pháp.
Những quả bom do ông Nguyễn Minh Luận tự chế và chính ông đã xử dụng để công phá một lỗ thủng ở tường ngục thất ‘Hỏa Lò’ giữa thành phố Hà Nội. Do lỗ hổng này, một số tù nhân chính trị đã trốn thoát được cảnh tù tội.
Ngay sau vụ bom nổ ở miền nơi làm cho dân chúng ở thành phố Hà Nội xôn xao, ông Nguyễn Minh Luân bị nghi ngờ, mật thám và chó săn của Pháp truy nã ông đã trốn thoát khỏi Hà Nội và chạy về quê quán là Phát Diệm.
Cha Nguyễn Gia Đệ nói:
‘Khi đó, tôi là người con thứ năm trong gia đình, mới vào quãng 9, 10 tuổi. Một buổi sáng tôi thức dậy, đang khi nằm ngủ ở chiếc sập gụ ở gian nhà ngoài, tôi thấy một người to lớn đã nằm bên, thì hóa ra ông anh ở tỉnh chạy về ngủ độ! Ông không có thổ lộ cảnh chạy trốn mật thám đang tầm nã, ông chỉ ăn sáng sơ sơ, rồi ông đi ra khỏi nhà, và nghe ông chạy xuống Văn Hải, tìm đến nhà người quen để ở trọ, và để tránh những tay mật thám của chính phủ bảo hộ đang lùng bắt.
Bấy giờ mấy ông lý trưởng các làng xã được cấp báo và để chó săn, hết sức truy nã để lập công với chính phủ bảo hộ. Ông anh tôi Nguyễn Minh Luân được mật báo, nên liều mạng chạy về vùng Nam Định, rồi chạy tuốt lên miền Bắc: Cao Bằng, Lạng Sơn gì đó. Không bao lâu ông bị lộ tông tích và bị bắt giải về Hà Nội, và bị bắt giam trong nhà pha ‘Hỏa Lò’.
Bị giam một thời gian, rồi bị thực dân Pháp đưa ra xử ở Hội Đồng Đề Hình và bị xử tù chung thân phát vãng đến xứ Guinée- một thuộc địa của Phát ở mạn Nam Mỹ Châu- nhưng vì đau yếu và bị sốt rét nên ông Nguyễn Minh Luân chưa phải lên đường đi ở tù chung thân. Trong khi chờ đợi để đi Guinée, Bà Cố, gọi là bà Cố vì có 2 người con làm linh mục là cha Nguyễn Định Tường và cha Nguyễn Gia Đệ, cứ mỗi lần đi canô từ Phát Diệm lên Hà Nội thăm con, bà Cố thường vào nhờ cha Sở nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, để nhờ ngài vào khám đường thăm nom ông Nguyễn Minh Luận, đem quà của bà Cố và nhất là lo giúp phần thiêng liêng cho người con.
Cha Đệ nói tiếp:
‘Nói đến đây, tôi nhớ lại và cảm phục tình mẹ con vô cùng cảm động, mặc dù con bị tù tội. Tội với chính phủ Pháp bảo hộ, nhưng đối với đất nước quả là một gương về tinh thần ái quốc. Mẹ tôi thương con, nên cố gắng mỗi tuần lên Hà Nội thăm con, không quản đường xa, không quản khó nhọc. Tôi còn nhớ mỗi lần đi Hà Nội về, mẹ tôi thường mua đậu phộng, bánh tây với kẹo lạc, có lần cả cà rem đựng trong bình thủy đem về cho các con ở nhà.
Thế rồi, một hôm mẹ tôi đi Hà Nội về, trông vẻ mặt sầu não, hỏi ra thì ông anh tôi, mang cơn bệnh thương hàn quá nặng, nên đã qua đi trong Hỏa Lò, trước những ngày phải đi tù ở Guinée và trước khi chết, anh tôi đã lãnh các bí tích theo nghi lễ Công Giáo đầy đủ.’
Tuy nhiên về cái chết của liệt sĩ Nguyễn Minh Luân theo sử gia Hoàng Văn Đào viết trong quyển ‘Việt Nam Quốc Dân Đảng Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954,’ trang 167 thì Đặng Trần Nghiệp tức Ký Con cùng 6 đồng chí là Lương Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Nhi, Nguyễn Quang Triểu, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Trọng Bằng và Phạm Văn Khuê đã lên đoạn đầu đài đặt tại Cổng Ngục thất Hỏa Lò vào cuối năm 1930 để đền nợ nước, riêng Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Liên, và Mai Duy Xứng được Tổng Thống Pháp ân giảm từ án tử hình xuống khổ sai chung thân.
Dù sao đi nữa, chúng tôi nghĩ cha Nguyễn Gia Đệ có thể hãnh diện hơn nữa để nói rằng: ‘Đời cách mạng của người anh tôi, mặc dù chưa có gì là công thành danh toại, nhưng ai cũng cho là một liệt sĩ chết vì quê hương, chết vì tinh thần quốc gia, nên đã được sử sách nhắc đến tên tuổi, mỗi khi nói đến Nguyễn Thái Học thì cũng nhắc đến Nguyễn Minh Luân, người anh thứ hai của chúng tôi.’