Chương 19 Thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử tị nạn Cộng sản -
Cuộc đàn áp đẫm máu của Việt Minh đối với giáo dân ở Phúc Nhạc, sau 11 ngày bao vây và 3 ngày lục soát, Công an Việt Minh bắt dẫn đi 596 người và 13 người chúng đem ra xử bắn ở Núi Cánh Diều ở tỉnh lỵ Ninh Bình, là một điều làm cho chúng tôi phải suy nghĩ nhiều, để rút kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh sống còn đối với Cộng sản vô thần, khi Việt Minh coi thường những thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Riêng đối với bộ đội không mà thôi đã có 20 người bị dân chúng Phúc Nhạc hạ sát, ấy là chưa kể tới con số thường dân bị mất mạng, nguyên một mình cụ Bá Thức, 70 tuổi, đã dùng kiếm chém gục 3 mạng bộ đội trước khi cụ bị hạ bởi một quả lựu đạn của Việt Minh tung nổ dưới chân.
Trong suốt thời gian Phúc Nhạc bị Việt Minh bao vây, tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm theo dõi rất sát mọi biến chuyển và khi cuộc bao vây chấm dứt với 596 giáo dân bị bắt giữ, một cuộc họp đã được triệu tập ở tòa Giám Mục để rút kinh nghiệm hầu tìm giải pháp bảo vệ giáo dân khắp nơi. Và đặc biệt bảo vệ khu An Toàn Pháp Diệm chống lại mọi âm mưu của Việt Minh, bội ước lời hứa của Hồ Chí Minh về tính cách tự trị của khu, và nhất là đề phòng một cuộc bao vây khu An Toàn Phát Diệm.
Lúc này dân tị nạn cộng sản từ khắp nơi đổ về tá túc một ngày một gia tăng rất nhiều, dân số trong khu An Toàn đã lên tới hơn 30 ngàn người.
Đây thật là một bài toán khó có giải đáp về vấn đề cung cấp lương thực cho một số dân đông đúc như thế, nếu khu An Toàn bị bao vây trong nhiều ngày, như trường hợp ở Phúc Nhạc, ngoài ra chúng tôi cũng tính tới vấn đề phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng để có thể bảo vệ được khu An Toàn, nếu một cuộc xung đột xẩy ra.
Dân chúng kể cả dân tị nạn đều cương quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ Phát Diệm chống lại cuộc đàn áp của bọn Cộng sản Việt Minh vô thần. Nhưng trên cương vị lãnh đạo, Đức Cha Lê Hữu Từ, các linh mục và chúng tôi đều hết sức cố gắng tìm ra những giải phát ôn hòa trước hết để bảo vệ nhân mạng cũng như tài sản của toàn dân.
Điều lo ngại nhất của chúng tôi là quân đội thực dân Pháp lợi dụng tình trạng bất ổn đem quân xâm chiếm Phát Diệm, như vậy người Cộng Giáo sẽ bị cáo buộc là giúp cho thực dân Pháp đạt lại chính quyền thuộc địa ở Việt Nam.
Trong một cuộc họp riêng với Đức Cha Lê Hữu Từ tại tòa Giám Mục để thảo luận về những phương sách bảo vệ Phát Diệm trong trường hợp Việt Minh gia tăng áp lực đòi kiểm soát khu An Toàn, dù rằng Hồ Chí Minh đã chính thức trao quyền cai trị khu vực này cho Đức Cha. Và rút kinh nghiệm ở bài học Việt Minh bao vây Phúc Nhạc đòi bắt giữ các ‘côn đồ’, chúng tôi đã tình nguyện cùng với một số chiến hữu khác có tên trên danh sách của Việt Minh nêu danh các ‘côn đồ’ Phát Diệm cần phải diệt trừ, rút lui vào bí mật và nếu cần rời khỏi Phát Diệm đi lánh nạn Cộng sản ở nơi khác kể cả ‘dinh tê’ vào khu vực của Pháp như Hải Phòng chẳng hạn, để Việt Minh không còn lý do bắt ‘côn đồ’ để tấn công.
Do đó khu An Toàn đã thực sự an toàn cho đến ngày 16 tháng 10 năm 1949 là ngày quân đội thực dân Pháp xâm chiếm Phát Diệm và vẫn còn an toàn cho tới ngày mồng 2 tháng 7 năm 1954 là ngày dân Phát Diệm bắt đầu rời khỏi Phát Diệm di cư vào Nam Việt Nam, khi Hiệp Định Genève chia đội đất nước được ký ngày 21 tháng 7 năm 1954.
Việc chúng tôi chấp nhận bỏ Phát Diệm ra đi để bảo toàn cho khu An Toàn Phát Diệm khỏi bị Việt Minh tấn công, đã làm cho Đức Cha Lê Hữu Từ ngỡ ngàng nhất là đối với mối tình đồng chí hướng thâm sâu giữa Đức Cha và chúng tôi trong những năm cùng nhau tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam trong tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Kể từ thời gian bí mật hoạt động dưới thời Phát Xít Nhật Bản tới thời gian công khai hợp tác với Việt Minh trong cuộc tranh đấu chống Pháp thực dân và nhất là trong công cuộc tranh đấu chống Cộng Sản vô thần bảo vệ Đức Tin.
Đức Cha Lê Hữu Từ đã từ chối đề nghị chấp nhận ra đi của chúng tôi vì ngài cho đó là một hy sinh quá to lớn và đầy hiểm nguy vì thành tích cách mạng chống thực dân. Pháp của chúng tôi. Ngài nói:
‘Anh Minh, cha không muốn quyết đinh ngay về việc anh chấp nhận hy sinh ra đi để bảo đảm an toàn cho khu An Toàn Phát Diệm vì thấy trước những khó khăn anh sẽ phải chịu với bọn thực dân Pháp một khi anh ra tới Hải Phòng. Hãy để cho cha cầu nguyện, xin Chúa soi sáng cho quyết định của cha và ngày mai hãy trở lại gặp cha.
Ngày hôm sau tôi đã trở lại gặp Đức Cha Lê Hữu Từ và ngài đưa cho tôi một tờ giấy viết thư của tòa Giám Mục để trắng mà ngài ký sẵn kèm theo cả ấn tín, ngài nói:
‘Con hãy cầm tờ giấy viết thư mà cha đã ký sẵn để con đánh máy và điền tên những người cùng đi với con. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho con,‘
Tôi rất cảm động cầm lấy tờ giấy viết thư mà Đức Cha đã ký sẵn kèm cả ấn tín và nói đùa lại rằng:
‘Con cám ơn Đức Cha đã tin tưởng nơi con mà ký sẳn cùng cả ấn tín nữa. Con sẽ dùng giấy này để viết thành một văn tự Đức Cha nhận bán Nhà Chung Phát Diệm cho con’.
Đức Cha cười và nói:
‘Con muốn làm gì cũng được cha tin nơi con’
Và tôi quỳ xuống hôn nhẫn của ngài và ngài ban phép lành cho tôi.
Trong cuộc ly biệt rất thân tình này tôi cũng đã thưa cùng Đức Cha về một người đồng chí hướng của tôi trong đảng Đại Việt Duy Dân hiện mới về tá túc tại khu An Toàn Phát Diệm là ông Lê Quang Luật, một người đã trở nên rất thân tín với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha bí thư Phạm Quang Hàm, trong công cuộc chống Cộng sản vô thần tại Phát Diệm. Sau này ông Luật đã một thời làm thủ hiến Bắc Việt và bộ trưởng bộ Thông Tin trong chính phủ đầu tiên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Danh sách 5 người đã được điền vào thơ giới thiệu bằng tiếng Pháp mà Đức Cha đã ký sẵn, trong số 5 người này thì 4 người được Việt Minh liệt kê là ‘côn đồ Phát Diệm’, với bộ ba Minh, Nguyên, Ngoạn và Thanh sau này là đại tá Thanh và một nhân vật khác nữa là ông Quản Bình, một ‘côn đồ’ có hạng chống Việt Minh Cộng sản ở cống Phát Diệm. Trong bộ ba của chúng tôi thì anh Lê Ngọc Ngoạn mới qua đời gần đây ở Sài Gòn.
Do sự móc nối của ông Quản Bình, chúng tôi đã rời khỏi Phát Diệm, lên thuyền bát đậu ở Núi Nẹ ở ngoài biển đông để đi Trà Cổ, một giáo xứ Công Giáo ở Móng Cáy sát với biên giới Trung Hoa. Sở dĩ gọi là thuyền bát vì những thuyền này chuyên chở chén bát và đồ sứ sản xuất ở Trà Cổ đi bán khắp nơi ở Bắc Việt.
Kéo buồm lên đi được một ngày thì thuyền phải vào tránh bão ở cửa Lạch Lác tức cửa sông Hồng Hà thuộc địa hạt Bùi Chu, trận bão kéo dài quá 5 ngày, chúng tôi thấy rằng nếu tiếp tục tránh bão ở đây lâu hơn nữa thì chắc chắn không thể thoát được khỏi tay tụi du kích Việt Minh ở vùng này, nên chúng tôi quyết định cử ông Quản Bình đi thuê một thuyền chài chuyên môn đánh cá ở cận duyên để trở về Phát Diệm, sửa soạn một cuộc vượt biên khác.
Các anh em Tự Vệ Cộng Giáo ở Ba Đê và Vinh Trung được báo động về sự trở về của chúng tôi nên chúng tôi được bảo vệ một cách hết sức cẩn mật trong mọi di chuyển từ Cồn Thoi về khu An Toàn Phát Diệm.
Tưởng rằng chúng tôi đã đi khỏi Phát Diệm rồi nên sự theo dõi của Công An Việt Minh có thể lơ là hơn, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy rằng để bảo đảm cho khu An Toàn Phát Diệm khỏi bị Việt Minh quấy phá, chúng tôi cần phải rời đi ngay càng sớm càng tốt. Và phương tiện đi bằng thuyền bát là loại thuyền chuyên đi biển không có nữa nên chúng tôi phải thuê thuyền chài là thuyền đánh cá loại nhỏ chuyên đánh cá trong sông ngòi, không có cả đến cái la bàn để tìm phương hướng.
Ngày mồng 7 tháng 11 năm 1947, thuyền chúng tôi kéo buồm rời khỏi cổng Phát Diệm trực chỉ Lạch Đài, bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới lạ vượt biển khơi trong mùa thu đầy gió bão ở Vịnh Bắc Việt. Chúng tôi chỉ mong được thuận thuyền xuôi gió thoát khỏi tay tàn ác của quỷ đỏ Việt Minh. Lần ra đi này thiếu ông Quản Bình ở lại, không dám ra biển khơi bằng loại thuyền chài chuyên đánh cá trong sông. Và ông Bình đã được thay thế bằng anh Trần Văn Xuân ở Vinh Trung, và từ đây anh Xuân đã đội tên Nguyễn Văn Bình, sau này là quận trưởng quận Củ Chi và tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện dưới đời tổng thống Ngô Đình Diệm.
Khi đang thuận buồm xuôi gió ở ngoài khơi Diêm Điền thuộc tỉnh Thái Bình thì cột buồm cái của thuyền bị gẫy làm đôi, may lúc này trời yên biển lặng nên thuyền chỉ còn có cây buồm nhỏ và cuối cùng cũng lê lết được tới Đồ Sơn.
Trong đêm tối, trông thấy mấy ngọn đèn mờ mờ ảo ảo ở phía chân trời, biết là chúng tôi sắp tới Đồ Sơn, anh em chúng tôi đều sấp mình xuống cám ơn Thiên Chúa đã cứu giúp chúng tôi qua mọi hiểm nguy trên biển cả. Nhưng riêng tôi, tôi rất bàng hoàng lo âu vì chúng tôi sẽ nằm trong cảnh trên đe dưới búa, thoát được khỏi tay bọn quỷ đỏ nhưng từ đây lại phải sống với bọn quỷ trắng nổi tiếng tàn ác đối với những người cách mạng quốc gia.
Sau khi mặt trời mọc, thuyền chúng tôi kéo buồm lên kèm theo lá cờ trắng ở trên đỉnh cột buồm từ từ tiến vào bãi biển Đồ Sơn, trung tâm nghỉ mát thời trước. Chúng tôi đều ra đứng ở mũi thuyền, hai tay dơ lên và nước mắt chảy quanh vì cảm thấy nhục nhã vô cùng, nhớ lại những lời thề nguyền quyết chống Pháp đến hơi thở cuối cùng mà nay sắp sửa bước vào cuộc đời làm nô lệ cho Pháp.
Từ trên sườn đồi 4 chiếc xe thiết giáp chạy xuống bãi biển đón tiếp chúng tôi, và quân lính Pháp lố nhố khắp nơi trong thế sẵn sàng ứng chiến để đón những thuyền nhân tị nạn cộng sản tới Đồ Sơn xin sống nhờ dưới sự che chở của người Pháp. Còn gì nhục nhã hơn nữa!
Thuyền của chúng tôi được chỉ dẫn để cập vào cầu tầu và một trung úy người Pháp chỉ huy một tiểu đội binh sĩ tiến ra, tôi cũng bước lên cầu để trình bầy lý do tại sao chúng tôi tới đây và đưa cho ông ta xem lá thư giới thiệu của Đức Cha Lê Hữu Từ và từ đây chúng tôi coi mình là những thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử của những người phải rời bỏ quê hương để tị nạn cộng sản.
Sau một hồi liên lạc vô tuyến về cấp chỉ huy, vị trung úy Pháp bảo chúng tôi theo ông ta về bộ chỉ huy. Khi rời khỏi con thuyền mỏng manh, chúng tôi không quên quay lại cám ơn ông bà Tiếp, chủ thuyền và quay sang người Trung úy Pháp để xin tiếp tế thêm nước ngọt và nếu được, một ít thực phẩm cho chiếc thuyền quay trở về ngay Phát Diệm.
Vì ngày chúng tôi tới Đồ Sơn là ngày 11 tháng 11, lễ Đình Chiến (Armistice) kỷ niệm ngày ký Hiệp Định Versailles chấm dứt trận Đệ Nhất Thế Chiến, nên người Pháp đều nghỉ và một số binh sĩ về Hải Phòng dự cuộc duyệt binh, nên chúng tôi được sống thảnh thơi trong câu lạc bộ của đơn vị đồn trú và tới tối lại được mời tham dự bữa tiệc mừng lễ.
Đây là lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh không được thưởng thức rượu vang chính cống của Pháp, nên bữa cơm đầu tiên này là một kỷ niệm không thể quên được. Sau khi đã hơi ngà ngà say và ăn những miếng bí tết thơm ngon, anh em chúng tôi nhắc với nhau rằng: ‘Đừng quên Tổ Quốc Việt Nam và coi chừng đừng để bơ sữa làm mờ con mắt’. Những ngày đầu được người Pháp chính thức tiếp đón như vậy đấy nhưng những ngày sống với thực dân Pháp ở Hải Phòng là những chuỗi ngày đau khổ nhất trong đời người của chúng tôi.
Sáng hôm sau chúng tôi được dồn lên một chiếc xe GMC đưa về Hải Phòng, một điều làm cho chúng tôi hơi ngạc nhiên là một người hạ sĩ Pháp đến hỏi tôi là các anh muốn xuống xe tại đâu? Tôi cứ nghĩ rằng họ sẽ đưa chúng tôi về cơ quan an ninh làm thủ tục giấy tờ này khác, may mà chúng tôi đã có sẵn địa chỉ của cụ Giáo Mỹ, người đồng hương hơn nữa lại thân với cụ thân sinh của chúng tôi nên tôi trả lời xin cho chúng tôi xuống đường Chavignon, tức là ngõ Cố Đạo, số nhà 26,
Cụ Giáo Mỹ đã sinh sống lâu năm ở Hải Phòng và thời bấy giờ cụ giữ chức trưởng phố, nên trong những ngày đầu sống ở đây, chúng tôi cảm thấy thoải mái, nhưng đây chỉ là mấy ngày đầu tiên của một chuỗi ngày sống trong phập phòng, lo sợ dưới bàn tay sắt đá của sở mật thám nổi danh tàn ác của thực dân Pháp.
Nghĩ lại trong suốt cuộc đời tranh đấu của tôi lúc lên voi, lúc xuống chó, bắt đầu từ ngày dấn thân vào cuộc đời làm cách mạng chống Nhật, chống Pháp từ khi mới có 22 tuổi đầu, tới ngày phải sống ở Hải Phòng chịu khổ nhục vào tù ra khám của thực dân Pháp vì phải tị nạn cộng sản. Ngày mừng lễ sinh nhật thứ 27 của tôi diễn ra trong nhà pha Hỏa Lò Hải Phòng, đúng 14 ngày sau khi đổ bộ lên bãi biển Đồ Sơn.
Những khổ cực sống với Pháp khỗng xót xa bằng việc phải rời bỏ gia đình ra đi khi vợ tôi đang có mang 7 tháng con gái Mộng Tiên của chúng tôi bây giờ. Hai con gái đầu lòng của chúng tôi đã được sinh ra và chết khi còn nhỏ đều chỉ do một mình bà mẹ lo lắng mọi việc. Còn ông bố thì còn bận ‘đi làm cách mạng’ đâu có ở nhà.
Ngay đến ngôi nhà 2 tầng to lớn xây cất giữa phố Thượng Kiệm, tôi có góp được tí công sức nào đâu, họa chăng là mỗi lần từ chiến khu Rịa về phải di chuyển giữa đêm khuya để tránh tai mắt của mật thám Kempetai của Nhật, tôi chỉ được nhìn thấy mờ mờ ảo ảo trong sương khuya những bức tường đang được xây lên, hay lúc mái nhà đang được lợp ngói, cho tới khi gọi là cách mạng thành công, tôi được về tọa hưởng kỳ thành những công trình xây cất mà nhà tôi đã thực hiện.
Nhưng rồi chỉ trong một thời gian tôi lại dấn bước lên đường hay nói đúng hơn lên chiếc thuyền chài kéo buồm ra đi, trao mặc tương lai cho số phận, để rồi một ngày trong những năm tháng đầu năm 1950, chúng tôi lại lên thuyền buồm từ Hải Phòng trở về Phát Diệm. Lần này khác lần trước vì đồng hành cùng chúng tôi không còn anh Nguyên, anh Ngoạn hay Bình nữa mà là cả gia đình gồm 3 người với người con trai yêu dấu của chúng tôi còn đang nằm trong bụng mẹ.