Chương 21 -Hãnh diện về cảnh vào tù ra khám dưới thời thực dân Pháp -
Các cụ xưa vẫn thường nói: ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’, Một ngày trong tù bằng một ngàn năm bên ngoài – thế mà các quân, dân, cán, chính của chúng ta, sau khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975, đã phải chịu tù đầy trong trại cải tạo của bọn Công sản khốn kiếp, hết năm này đến năm khác.
Trong số những ‘ngụy quân ngụy quyền’ bị tù đầy này, chúng tôi rất vui mừng được thừa tiếp, tại Houston, ngày 28 tháng 4 năm 1995, anh Nguyễn Quốc Quỳnh, một người bạn chí thiết của gia đình chúng tôi từ hơn nửa thế kỷ. Được biết sau khi đất nước chia đôi năm 1954, anh Quỳnh đã giữ chức tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị dưới Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, và khi đất nước bị rơi vào tay Cộng sản năm 1975, anh Nguyễn Quốc Quỳnh là đại tá, chỉ huy trưởng Chiến Tranh Chính Trị của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở Đà Lạt và sau đó anh đã bị Cộng sản cầm tù trong trại cải tạo 12 năm. Anh chị Quỳnh đã tới Hoa Kỳ để đoàn tụ với các con dưới diện Tù Nhân Chính Trị (H.O.) và anh chị đã tới Houston để thăm gia đình người em trai là Nguyễn Bỉnh Thiều.
Trong bữa cơm thừa tiếp anh chị Nguyễn Quốc Quỳnh, chúng tôi được nghe câu chuyện tù đầy tại trại cải tạo của Việt Cộng: mỗi ngày anh Quỳnh chỉ phải gánh sơ sơ có 70 đôi nước mà thôi, tính ra như vậy là trong 12 năm tù cải tạo, anh Quỳnh đã gánh trung bình trên 250 ngàn đôi nước. Ôi thực kinh khủng! Tôi cảm thấy hổ thẹn khi viết về những khổ đau tôi phải chịu dưới bàn tay của bọn mật thám Pháp, làm sao những khổ đau của tôi có thể so sánh được với số lượng ¼ triệu đôi nước mà anh Quỳnh đã phải gánh dưới bàn tay tàn ác, vô nhân đạo của bọn quỷ đỏ: Cộng sản Việt Nam. Chịu khổ hình với thực dân Pháp, bọn chuyên đi đè đầu bóp cổ dân thuộc địa là điều có thể được hãnh diện vì chống Pháp để dành độc lập cho Tổ Quốc, nhưng làm sao chúng ta có thể tha thứ được bọn quỷ đỏ là người Việt Nam, cùng một dòng giống con Rồng cháu Tiên, lại có thể xử tàn ác và vô nhân đạo như vậy.
Anh chị Quỳnh và chúng tôi đã hàn huyên với nhau rất nhiều về thời cùng nhau tranh đấu chống Pháp, chống Nhật Bản, chống Việt Minh trong Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, khi đó chúng tôi mới chỉ là những thanh niên 24 tuổi và anh chị Quỳnh cùng nhà tôi kém tôi một tuổi, chúng tôi cũng nhắc lại câu chuyện cùng với phái đoàn MTVNCGCQ vào Bắc Bộ phủ gặp Hồ Chí Minh thời Chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia hồi năm 1946 và những hoạt động chống Cộng sản vô thần.
Chúng tôi cũng nhắc tới câu chuyện cùng với anh Nguyễn Quốc Quỳnh tham gia công cuộc cứu đói trong trận đói kinh khủng năm Ất Dậu làm cho 2 triệu người Việt bị chết do chính sách chính trị vô nhân đạo của thực dân Pháp gây nên.
Đứng trước những cảnh am em Hướng Đạo Cụ Sáu ở Phát Diệm có lần phải sắn tay áo lên để chôn hàng trăm xác của người bị chết đói, chúng tôi đã thề nguyền không bao giờ hợp tác với thực dân Pháp, nên khi phải tránh nạn Cộng sản ở thành phố Hải Phòng, tôi đã từ chối lời mời của Pháp không nhận chức chủ tịch Hội Đồng An Dân tỉnh Kiến An mà chỉ nhận chức ‘cu ly’ ở sở Xi măng Hải Phòng để tỏ cho Pháp thấy là tôi đã có làm việc với người Pháp.
Nhưng đâu có an thân, một ngày đẹp trời ở sở Xi măng Hải Phòng, tôi lại được ‘hân hạnh’ mật thám Pháp tới thăm một lần nữa và mời lên xe bịt bùng để về nằm trong nhà đá của sở mật thám, lần này không đến nỗi bị biệt giam vào sà lim mà được rốt chung với hơn 20 tù nhân khác và ngày hôm sau được gọi lên văn phòng, chính lão ‘cẩm’ ác ôn Lartigue ôn tồn nói:
‘Chúng tôi ‘mời’ anh tới đây để anh viết cho chúng tôi bản kiểm điểm tất cả những công việc anh đã làm từ năm 18 tuổi’.
Hắn chỉ cho tôi một bàn giấy để ngồi viết trong giờ làm việc, ngoài giờ đó là về trại giam và ăn cơm tù.
Viết miệt mài trong cả ngày rồi cầm lên nộp, lão Lartigue lắc đầu bắt viết thêm nữa, rồi ngày nào cũng vậy, viết hết đầu cua tai nheo cho tới cuối tuần thì hắn bảo ‘Anh đã đẻ ra được quyển tiểu thuyết’ -Tu as pondu un roman’, lúc này không phải lên văn phòng viết nữa, nhưng chúng đâu có tha ngay, lúc nào cũng bảo chưa đọc xong và cuối cùng lão Lartigue chỉ định cho tôi làm cai tù, tôi nhớ có nói với hắn về câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’ và dịch ra Pháp ngữ cho hắn nghe, và đành phải ngày ngày vác chìa khóa đi mở cửa các xà lim cho những người bị giam giữ đi tiêu, đi tiểu rồi lại phụ trách cả vấn đề chia cơm tù nữa.
Thế rồi, một buổi sáng sớm, tôi lên gặp người trực để lấy chìa khóa, mở cửa một xà lim mà đêm hơm trước người bị giam bị mấy thằng Pháp lai tra tấn suốt đêm, nghĩ rằng anh này chắc khát nước, nhưng khi mở cửa ra tôi thấy xác anh ta treo ở chấn song sắt của cánh cửa nhỏ xíu. Và từ đó một lệnh của các văn phòng đưa ra là tất cả những người bị giam phải nộp thắt lưng, dây giày và ngay đến giải rút quần của phụ nữ cũng phải nộp luôn để đề phòng những vụ tự tử tương tự có thể xẩy ra, và hễ cứ đến tối là tụi Pháp lại xuống khám các xà lim và phòng giam chung.
Một buổi tối trời lạnh, tôi mặc một áo choàng (overcoat) bằng da thật đẹp, đặc biệt loại áo có thắt lưng mà tôi không đem nộp, trong khi làm phận sự của người cai tù, tôi đi mở cửa cho tụi Pháp lai khám trại, tôi sợ mất cái thắt lưng, nên tôi ném vào một xà lim nghĩ rằng qua mặt được chúng, ai ngờ khi khám tới xà lim đó, tụi Pháp lại thấy có thắt lưng, người bị giam khai rằng; ‘Ông Cai tù vất vào đây chứ không phải của tôi’.
Hết chỗ chối cãi, một tên Pháp lai tên Dehaye bảo tôi lên văn phòng và một trận đòn khủng khiếp diễn ra, không phải một mình thằng Dehaye đánh tôi mà thôi, một lô tụi ‘chó săn’ cả Pháp lai lẫn Việt Nam xông vào đánh tôi, và cuối cùng tôi bị chúng buộc một giây thừng vào chân phải và kéo treo lên xà nhà, bị treo chân như vậy trong gần 2 giờ đồng hồ. Đây thật là một trận đòn cực kỳ dã man của bọn mật thám Pháp, chỉ vì tôi muốn giữ lại một thắt lưng, và tôi đã bị mất chức cai tù, vì phải nằm mấy ngày đêm không nhúc nhích được vì trận đòn ác ôn này, và một tuần lễ sau, lão Lartigue gọi tôi lên văn phòng và thả tự do với điều kiện tôi phải lên trình diện mỗi chiều thứ hai.
Cách đó 4 năm sau, tôi đã trả thù được trận đòn ác ôn treo chân tôi lên trong 2 giờ đồng hồ, là thằng Dehaye cũng có tên Việt là Đặng Hanh bị tôi đánh cho một tát tai nảy đom đóm mắt tại bến xe buýt Hải Phòng, tên này chỉ còn ấm ức nói: ‘Tại sao trung úy đánh tôi?’ Tôi trả lời: ‘Mầy có nhận ra tao đã bị mày đánh và treo chân lên ở sở mật thám trước đây hay không?’
Sỡ dĩ tôi đánh thằng Dehaye mà hắn không dám phản ứng là vì tôi đeo lon trung úy hải quân, đi xe jeep của hải quân Pháp có hai lính thủy Pháp hộ vệ, trong thời gian tôi thực tập trên chiến hạm LCI 101 để sửa soạn gia nhập trường huấn luyện sĩ quan hải quan hải quân Pháp (École Navale Poulmic). Nhưng một điều không nói ra là lon trung úy của tôi chỉ là lon của Hải Quân Tổng Bộ Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm mà thôi!
Năm 1955, Pháp lai Dehaye trở thành thường dân vì quân đội Pháp đã rời khỏi Việt Nam và hắn bị bắn chết ở khu sở rác cũ đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhiều bạn hỏi tôi có biết gì về vụ Dehaye bị bắn hay không? Thật sự, tôi không biết gì hết và tên Dehaye này là một tên mật thám ác ôn, khốn nạn nhất đối với rất nhiều người Việt Nam trước kia ở Hải Phòng. Còn riêng đối với tôi, trả thù hắn bằng cái tát tai ở bến xe buýt Hải Phòng, khi hắn còn đang tại chức thanh tra mật thám Pháp là đủ và hả dạ rồi. Và câu chuyện bị giam một tháng ở sở mật thám và bị treo chân 2 giờ đồng hồ là chuyến vào tù của thực dân Pháp lần thứ tư.
Sau khi được thả tự do, tôi trở lại chỗ làm việc cũ ở phòng thí nghiệm sở Xi Măng Hải Phòng, và ông giám đốc Chemikoff, người Pháp gốc Bạch Nga vui vẻ nhận tôi làm việc lại, và mỗi ngày trách nhiệm của tôi là đi xuống các thuyền chở than đá từ Hòn Gai về để lấy mẫu than về phòng thí nghiệm đễ phân chất, ghi rõ tỉ lệ thán tố carbone. Tôi thấy các chủ thuyền chở than đối đãi với tôi một cách hết sức tử tế và kính trọng, mãi sau khi gần thôi việc ở sở này tôi mới biết rằng sở xi măng trả tiền mua than đá cho các chủ thuyền căn cứ trên kết quả của bản phân tích tỉ lệ thán tố do tôi ghi nhận.
Làm việc với ông Chemikoff, giám đốc phòng thí nghiệm là một thích thú đối với tôi vì tôi được dịp học hỏi rất nhiều về hóa học và vật lý, nên tôi mê man làm việc và học hỏi nhờ vậy mà được cân nhắc lên làm phụ tá trưởng thí nghiệm chuyên về phân chất và thí nghiệm xi măng do nhà máy sản xuất. Tuy gọi là làm việc mê man không kể giờ giấc nhưng thực ra tôi phải làm như vậy để đền bù lại thời gian phải đi trình diện sở mật thám mỗi chiều thứ hai hàng tuần.
Tuy phải đi trình diện thường xuyên như vậy nhưng đâu có yên thân, nguyên là một ngày thứ hai sau khi trình diện xong thì tôi được lệnh phải vào gặp ông ‘cẩm’ nổi tiếng ác ôn nhất là De Lorge, giám đốc phòng chính trị, hắn bảo tôi hắn muốn có những tài liệu này ở Hải Phòng vì những tài liệu đó đều để lại ở Phát Diệm.
Tưởng nói thế cho xong chuyện, nhưng lão De Lorge trở mặt đập bàn ầm ầm, áp đảo tinh thần tôi, rồi hắn đưa cho tôi tập giấy bắt tôi phải viết thư gửi về Phát Diệm để cho anh em của tôi phải trao các tài liệu đó cho người chỉ điểm của sở mật thám vẫn đi đi lại lại giữa Hải Phòng và Phát Diệm cầm ra và hắn nói tôi bị giam cho tới khi nào hắn nhận được tài liệu của Duy Dân thì tôi mới được thả tự do.
Tôi bắt buộc phải viết thư cho anh Thanh, lúc này đã trở về hoạt động ở Phát Diệm, nói rằng: ’Các quan lớn ở sở mật thám Pháp cần xem các tài liệu của đảng Duy Dân, mong anh gửi ra Hải Phòng ngay, và chỉ khi nào các quan lớn nhận được, tôi mới được tự do.’
Tôi cố ý dùng những danh từ ‘quan lớn’ và nói rõ cho anh Thanh biết là chỉ khi nào các quan lớn nhận được tài liệu tôi mới được tự do, tôi dự đoán rằng anh Thanh biết rõ tình cảnh của tôi và hơn nữa tôi biết chắc chắn không khi nào anh em phổ biến tài liệu của đảng Duy Dân cho mật thám Pháp. Và tôi nghĩ rằng anh Thanh sẽ ngụy tạo một lô tài liệu Duy Dân giả hiệu và gửi ra cho Pháp để tôi được tự do. Sau này những điều tôi dự đoán đã xẩy ra đúng như vậy: lão De Lorge chỉ nhận được nhũng tài liệu vớ vẩn gọi là của Duy Dân do anh Thanh tạo ra.
Đầy là lần thứ 5 thực dân Pháp giam giữ ở một trại giam quá quen thuộc đối với tôi ở sở mật thám Hải Phòng, liền khi xuống tới phòng giam chung, việc đầu tiên tôi phải làm là kiếm cơm nguội để ăn, vì giờ phát cơm tù đã qua từ lâu, nghĩ rằng nếu đói bụng mà bị tra tấn ngay đêm đó là một cực hình, khó chịu đựng nổi.
Qua một đêm ngủ ngon lành vì quen chỗ bị giam trước đó, ngày hôm sau tôi mới được anh em ở số 36 ngõ Sơn Lâm vào tiếp tế, lão De Lorge lại còn ra điều tử tế, hắn cho người báo tin mang nhiều sách vào cho tôi đọc vì hắn biết rõ tôi thích đọc sách. Nhưng tù vẫn là tù dù có sách để đọc, ngẫm nghĩ câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’ mà đau lòng và vô cùng uất hận tụi thực dân Pháp vì mất tự do.
Nằm trong tù được mấy ngày thì lại bị cất nhắc lên làm cai tù lần nữa, vẫn cứ ngày ngày vác chìa khóa đi mở cửa các xà lim khi họ cần phải đi tiêu đi tiểu, làm cai tù chỉ được một điểm là được ra ở ngoài trời gần như suốt ngày trong hàng rào giây kẽm gai và đến tối là phải vào phòng giam chung. Nhiều khi là cai tù tôi được quyền mở cửa cho một số tù nhân nhẹ tội ở phòng giam chung được ra ngoài trời phơi nắng. Lệnh tù nhân phải nộp thắt lưng, rút quần hay dây giầy vẫn được áp dụng, lệnh này đã tạo ra lắm cảnh buồn cười khi các tù nhân phụ nữ đi ra phơi nắng, người nào người nấy tay ôm quần chỉ sợ quần tuột, rồi mấy bà lại tổ chức đánh ô, cho các ông cùng đánh ô ké.
Trong thời gian làm cai tù này, ông Trần Thiện là bạn thân và một thời là chỉ huy trưởng lực lượng tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm, thay cha Hoàng Quỳnh sang công tác ở Bùi Chu, bị mật thám Pháp bắt trên đường ‘dinh tê’ vào Hải Phòng và bị tống vào nhà giam cùng với tôi. Ông Thiện và gia đình hiện tị nạn cộng sản ở Houston.
Tôi còn nhớ trong thời gian làm cai tù lần thứ hai này, vì chẳng có việc gì để làm ngoài việc ôm chùm chìa khóa đi vòng vòng, nên tôi có nhiều thì giờ để săn sóc bộ râu mép cho thật bảnh, tuy không được phép mang dao cạo vào trong tù, nhưng những mảnh chai vỡ là con dao cạo tốt nhất để giữ cho mày râu của những bậc nam nhi tù nhân chúng tôi luôn luôn luôn được nhẵn nhụi và bảnh trai.
Bị rốt như vậy đã gần một tháng và tinh thần trở nên hết sức cằng thẳng, tôi đánh liều lên văn phòng gặp lão cẩm De Lorge để than vãn câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’ và tôi dọa rằng nếu cứ bị giam như thế này mãi để chờ tin của người đưa thư, có lẽ tôi sẽ phẫn chí và tự tử. Được vài ngày sau, hắn ra lệnh thả tôi tự do và tôi cũng không biết rằng lão De Lorge này có nhận được tài liệu ‘giả hiệu’ của Đại Việt Duy Dân hay không?
Sau khi được thả tự do và mật thám Pháp chẳng cấp cho bất cứ giấy tờ phóng thích nào cả, tôi trở lại Sở Xi Măng Hải Phòng gặp ông Chemikoff kể hết sự tình, ông này lại nhận tôi làm việc như cũ, nhưng chưa hết, không biết tôi có cơ duyên gì với sở mật thám Hải Phòng hay không? Mà đến ngày 28 Tết năm 1949, trong khi tôi đang thả bộ trên mấy phố tây của thành phố Hải Phòng thì đột nhiên có một người dí ngay súng lục vào hông, quay đầu lại tôi thấy anh ‘chó săn’ Lý Móm, người mà tôi quen biết sơ sơ khi hắn tản cư về Phát Diệm và sau này hắn lấy cô Lý Lệ Hà, nhân tình của cựu hoàng Bảo Đại khi ở Hồng Kông. Thời kỳ tản cư cô Lý Lệ Hà đã về tá túc ở nhà chúng tôi trong một thời gian. Tôi hỏi Lý Móm: ‘Gì vậy?’ Hắn vẫn dí súng vào hông tôi và bảo tôi theo hắn về sở mật thám, hắn buộc tôi là lính của Đức Cha Từ.
Thế là tôi bị tên chó săn Lý Móm, một thanh tra mật thám ở Hà Nội gửi tôi vào nhà giam Hải Phòng trong một đêm giáp Tết. rủi cho tôi là anh mật thám trực đêm hôm ấy không biết tôi là ai, nên phải chờ cho tới sáng ngày hôm sau khi lão cẩm Lartigue tới, thấy tôi bị giam liền ra lệnh thả tôi ra ngay.
Như vậy là trong hơn một năm trời ở Hải Phòng tôi đã bị thực dân Pháp bắt giam 5 lần tất cả và đến hồi tháng 3 năm 1949 anh Pháp lai Pierre Martin, mà tôi nhận đại là có họ hàng trong lần bị bắt thứ hai, đến nhà chúng tôi ở số 36 ngõ Sơn Lâm báo tin cho biết là sở Mật Thám Hải Phòng đã bắt được một cán bộ cộng sản được biệt phái vào Hải Phòng để ám sát chúng tôi, anh Pierre khuyên chúng tôi nên đề phòng cẩn thận và cho chúng tôi biết là từ lúc này trở về sau tôi sẽ không còn bị phiền nhiễu gì bởi bọn mật thám của thực dân Pháp nữa.