← Quay lại trang sách

Chương 22 ‘Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’

Những dòng chữ này được viết đúng Ngày Mẹ Hiền 1995, trong bữa ăn sáng của gia đình, chúng tôi cảm động trông thấy 3 cháu nội: Thế Ngọc, Khôi Nguyên và Thiên Hương bưng vào 3 bình hoa tặng cho mẹ chúng là Mặc Bích để nói lên lòng thương yêu Mẹ trong ngày Lễ Mẹ Hiền, rồi chúng tôi lại được Khuất Phong và Mặc Bích tặng một cây cam lai quýt để trồng ngoài vườn đánh dấu ngày lễ Mẹ HIền 1995. Rồi sau đó nhận lời chúc tụng qua điện thoại của con gái Mộng Tiên của chúng tôi từ California và chúng tôi cảm thấy sung sướng được sống trong tình thương yêu của gia đình.

Điều này làm cho chúng tôi nhớ lại câu hát ‘Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’ trong bài hát Lòng Mẹ của Ý Vân, nói lên lòng hiếu thảo của dân Việt Nam đối với mẹ cha, cũng như lòng thương yêu của mẹ cha đối với con cái, mà chúng ta lấy làm hãnh diện đóng góp vào Ngày Mẹ Hiền, một ngày lễ đáng ca tụng của nhân dân Hoa Kỳ.

Tại đất tạm dung này, chúng ta hãnh diện về lòng hiếu thảo của dân Việt đối với mẹ cha, mà chúng ta có bổn phận phải bảo tồn và truyền dạy lại truyền thống tốt đẹp ấy cho thế hệ trẻ sau này. Nhưng một điều khác đừng bao giờ quên là chúng ta đều là con cái của Mẹ Việt Nam, chúng ta không ngồi yên than thân trách phận về một gia tài của Mẹ Việt Nam để lại cho con cháu hiện ở quê nhà, đang bị tang thương rách nát, lầm than khổ cực vì nạn cộng sản độc tài, tàn ác. Và dù sống cách xa hàng bao ngàn dậm đường, lòng chúng ta luôn luôn hướng về Quê Mẹ và chúng ta nguyện cầu và hành động cho gia tài của Mẹ Việt Nam để lại, mau mau thoát khỏi gông cùm của bọn quỷ đỏ.

Vì tham vọng bất chính của bọn quỷ đỏ muốn xích hóa gia tài của Mẹ Việt Nam, cách đây hơn nửa thế kỷ, nên gia đình chúng tôi phải sống xa cách nhau và trong gần hai năm trời sống tị nạn cộng sản ở Hải Phòng, điều thắc mắc nhất là làm thế nào ‘bịt’ hết được tin tức không để lọt tới gia đình ở Phát Diệm biết được câu chuyện bị vào tù ra khám và bị tra tấn cực hình bởi bọn bạch quỷ.

Chúng tôi không muốn để cho tứ thân phụ mẫu phải lo buồn về cuộc đời cách mạng ‘lên voi xuống chó’ của chúng tôi và ngay khi được báo tin là mật thám Pháp bắt được đặc công Việt Minh được biệt phái ra Hải Phòng để ám sát chúng tôi, và từ đây chúng tôi không bị phiền nhiễu nữa và đây mới là lúc an tâm để nhắn tin về Phát Diệm để gia đình vượt biển ra Hải Phòng đoàn tụ gia đình.

Thế rồi một buổi chiều tối đẹp trời của mùa xuấn ấm áp năm 1949, nhà tôi và con gái vượt biển tới được Hải Phòng, và gia đình đã được đoàn tụ trong muôn vàn yêu thương sau gần 2 năm xa cách và đây cũng là lần đầu tiên bố được thấy mặt con gái Mộng Tiên lúc này đã được 17 tháng.

Nói về cuộc ra đi gọi là đoàn tụ gia đình đầy hiểm nguy nay, chúng tôi nghĩ không gì hơn bằng cách trích ra đây bài viết ’Vượt Trùng Dương’ mà nhà tôi là Tuyết Minh đã viết trong cuốn sách ‘Giòng Đời Xưa và Nay’ do nhà xuất bản Nguồn Ý phát hành năm 1991. Bài này được viết căn cứ trên cuộc hành trình gọi là đi đoàn tụ gia đình ở Hải Phòng, chỉ có tên là được đổi khác.

‘Ngước mắt nhìn lên nền trời mở rộng, chân mây gần ngay tầm mắt, nhìn ra vùng biển bao la, trời nước mênh mông một mầu xanh trong, ánh dương quang chiếu xuống mặt biển lấp lánh như rắc vàng.

Tay bồng con, vai đeo chiếc bị cói, trong bị chỉ có vài bộ quần áo của hai mẹ con, không lấy gì làm nặng, nhưng con bé hay dẫy dụa vì suốt từ chiều hôm qua đến bây giờ, bé không được dắt di chơi, nên mẹ bé cứ phải đổi tay này qua tay kia cho đỡ mỏi.

Màng lưới công an cộng sản ngày một tinh vi, bao vây xiết chặt, ngày một cấp bách. Mùi (Tuyết Minh) được tin tới địa điểm gặp Thành (Nguyễn Đình Thư), cả hai, tay nắm tay nhau, Mùi chỉ kịp nghe Thành dặn cho biết tin sanh con trai hay con gái, Mùi chưa kịp nói gì, đã nghe có tiếng một người ra lệnh. “Không thể trì hoãn thêm một chút”. Cả bọn đã quay lưng lại. Mùi tần ngần nhìn theo. Được mươi bước, Thành ngoái cổ nhìn lại người yêu, trên môi nở một nụ cười tươi trên khuôn mặt đầy cương quyết, dày dạn phong sương với tia nhìn thắm thiết đầy yêu thương.

Khi đã khuất bóng mọi người trở về nhà, Mùi nhìn xuống bụng đã được hơn tám tháng, chả mấy chốc nữa đến ngày sanh, rồi sẽ đưa tin làm sao cho Thành biết đây! Nàng bâng khuâng trở lại nhà chờ ngày đứa con ra đời.

Bé Liên (Mộng Tiện) chào đời trong những tiếng súng gần xa vọng lại, mở mắt ra nhìn không có bố bên cạnh, bù lại có mẹ, có ông bà nội, ngoại đầy tình thương ấp ủ. Mùi cũng đỡ cô đơn; từ ngày có bé Liên, Mùi đem tình thương, nỗi nhớ trút vào con, cũng đỡ những lúc nhớ nhung xa cách Thành nhưng oái ăm thay, cứ ít hôm lại có trát đòi Mùi lên công an hỏi về Thành đi, ở đâu, làm gì?

Bao giờ nàng cũng chối không biết. Đâu chúng có dễ tin, khai thác bằng cách bắt nọn, dọa dẫm, hứa hẹn, không kết quả, họ đưa những bạn của Thành ngày trước, bây giờ làm lớn, tới thăm hỏi mẹ con Mùi, khuyến dụ nàng liên lạc để Thành trở về hợp tác với chính phủ.

Biết có ở lại cứ bị công an nay hỏi thăm, mai thăm hỏi, Mùi tìm đường bế bé Liên vào khu chiếm đóng, đi đường bộ, phải có giấy phép di chuyển, đi đường thủy là an toàn hơn, được một tổ chức đưa đi. Bí mật tới ngày tề tựu ở một địa điểm hẹn, rồi thuyền ra khơi bình yên.

Những luống sóng vàng của mặt trời chiều tan dần trên sóng, hay là chìm xuống đáy sâu của biển cả. Trời và biển nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm. Biển không ngủ vẫn cồn cào trăn trở, làm tung bay tấm áo choàng mượn của trời sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên tĩnh kia chính là cái chuyển động, chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt con người với cuộc đời ngắn ngủi chẳng bao giờ nhận ra. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải ra đến tận chân trời. Con thuyền nhỏ chỉ còn như chiếc lá nổi trôi trên đại dương.

Một cơn bão thổi tới, sóng gió nổi lên, nước tràn vào thuyền, cơ hồ đắm đến nơi. Trên ba mươi người trai tráng trong thuyền phần đông là các sinh viên tìm đường du học ngoại quốc, họ đổi nhau tát nước, chỉ có ba người đàn bà và mẹ bé Liên được miễn, nhờ người lái có kinh nghiệm, bình tĩnh, ông ta hạ buồm, lái gối đầu sóng đi theo chiều gió, thuyền dạt vào hòn đảo.

Thoát chết, mọi người lên trên đảo; nhìn lại không ai mang được gạo, nước, đành nhịn đói, còn bé Liên khát chỉ biết khóc, tìm đâu ra nước bây giờ. Dưới bóng trăng mờ, một người đàn ông cứ cúi nhìn xuống đất, một lúc lâu, ông Quân đã tìm được nước, lấy một lá cây gấp thành phễu, để cho bé Liên uống, từ đây bé Liên không khóc và ngủ cho tới sáng. Mùi không hiểu ông Quân lấy nước ở đâu. Hỏi chỉ trả lời ‘miễn là có nước cho cháu uống cho khỏi khát’. Rồi Mùi cũng khám phá ra nước đã lấy ở vũng lớn bằng chiếc đĩa, hũm sâu xuống nhờ trận mưa lúc ban chiều còn đọng lại, biết làm sao hơn nhờ chút nước đó nhưng con nàng khỏi khát.’

Thuyền đã tấp vào Núi Nẹ gần Thanh Hóa và sáng sớm hôm sau, trời yên bể lặng, mọi người lại xuống kéo buồm trực chỉ cửa biển Đồ sơn. Vào khoảng 4 giờ chiều, một tầu tuần tiễu của hải quân Pháp bắt gặp ra hiệu cho thuyền vào Đồ Sơn và tất cả mọi người trong thuyền bị đưa lên bờ giam giữ trong những villa bỏ không lâu ngày, không có đồ đạc gì, các cửa sổ ra vào bị gỡ đi hết. Nhìn ra biển lại thấy tầu tuần tiễu áp giải thêm 3 thuyền nữa và thêm một số người nữa được đưa lên giam vào chỗ chúng tôi đang ở, trong số những người mới tới này có hai nữ tu của dòng Đức Bà Truyền Giáo.

Một chuyện nực cười xẩy ra là mọi người trên bờ trông thấy mấy anh lính thủy Pháp ‘cõng’ hai bà nữ tu từ thuyền lên bờ, nhưng có ngờ đâu một bà nữ tu được ‘tây’ cõng đó lại là cô ruột chúng tôi: Sơ Ine Thêm; may mắn hơn nữa, lính thủy Pháp lại chỉ định cô tôi ở căn nhà trống với chúng tôi.

Thấy hai bà nữ tu của một nhà dòng gốc ở thành phố Lyon bên Pháp, lính thủy Pháp tiếp tế ngay bánh mì và sữa tươi cho hai bà, và cô tôi đã nhường ngay ly sữa và bánh mì cho bé Mộng Tiên, còn tất cả chúng tôi đành nhịn đói, nhịt khát cho tới ngày hôm sau.

Qua một đêm trong căn nhà trống trải, khí trời oi ả, có hơi người muỗi đã kéo đến từng đàn táp vào mặt chúng tôi. Tôi bồng con dựa vào tường quạt đuổi muỗi và cô tôi đã ngồi bên tôi tôi suốt đêm quạt muỗi cho cả hai mẹ con tôi ngủ, tôi cảm động xin cô ngủ để tôi quạt thay, cô không chịu; tôi nhớ lại khi chưa vào dòng tu, cô cũng từng nhịn quà để nhường cho các em đói khát.

Gần 30 năm về sau, sau khi Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản Bắc Việt xâm lăng, cô tôi đã được thuyên chuyển từ nhà dòng ở Nha Trang, lên tận vùng rừng núi Cam An Nam cách xa Nha Trang hàng trăm cây số ngàn, để tiếp tục công cuộc truyền giáo. Nhà dòng phải tự lực mưu sinh để có thể nuôi nổi những người tàn tật, mù lòa câm điếc. Với số tuổi đời càng ngày càng chồng chất, sức khỏe của cô tôi có kém nhưng cô tôi vẫn vui vẻ hy sinh cho tha nhân, để rồi với tuổi đời 90, cô tôi ngã bệnh và bị bán thân bất toại, được chuyển về trụ sở chính của dòng ở Thủ Đức’

Tôi muốn mượn lời kết luận của bài ‘Một Cuộc Đời Tận Hiến Cho Tha Nhân’ mà Tuyết Minh đã viết về đời của cô tôi, trong quyển sách Giòng Đời Xưa và Nay, trang 228: '‘Cô ơi! Cháu cảm thấy an lòng khi nói ra những lời tri ân cô, vì cô đã không bao giờ nói ra, cứ âm thầm làm những việc tốt lành cứu giúp tha nhân, đúng như câu trong sách Thánh: '‘Làm phúc tay mặt không cho tay trái biết’'. Nhưng cháu không thể quên ly sữa mà cô đã nhịn đói khát cả ngày để nhường cho mẹ con cháu, suốt một đêm quạt muỗi cho mẹ con cháu ngủ. Cô là một tấm gương sáng cho nhiều người thuộc tỉnh Thanh Hóa, hồi tiền chiến và những người ở vùng Cam An Nam thuộc tỉnh Phú Khánh bây giờ chắc vẫn nhớ tới một bà dòng tước hiệu INÊ đã không từ chối ai cần đến bà và hiện giờ những người tàn tật đã được bà nuôi nấng săn sóc.’'

Trong nhà dòng, cô tới vẫn được gọi là Mẹ Inê và trong ngày Mẹ Hiền 1995 này chúng tôi đã gửi vọng về Thủ Đức, nói cô tôi đang dưỡng lão, bài hát Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân với câu '‘Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’' để nói lên lòng thương yêu trong gia tộc Nguyễn Đình chúng tôi.