← Quay lại trang sách

Chương 23 Mấy ai là kẻ không thầy-Thế gian thường nói đố mày làm nên- (ca dao) -

Tại quê hương Viêt Nam chúng ta, khi nói tới đẳng cấp trong xã hội, các cụ thường dậy câu: ‘Quân, Sư, Phụ’ trước nhất là vua, nhì đến thầy học rồi mới tới bậc cha mẹ, và trên tường của các lớp học thường treo những biểu ngữ viết câu ca dao hay cách ngôn có ý nghĩa răn đời hay những lời nói, đáng làm mẫu mực cho người ta bắt chước, trong đó tôi nhớ tới câu: ‘Không thầy đố mày làm nên’, câu này được các thầy giải thích rằng nếu không học hỏi, không có thầy giáo dậy dỗ hay không ai chỉ bảo thì người ta làm chẳng nên người và câu ca dao: ‘Mấy ai là kẻ không thầy, Thế gian thường nói đố mầy làm nên’.

Chúng tôi nhận được một lá thư từ Việt Nam gửi tôi, đọc lá thư này, chúng tôi rất cảm động nghĩ tới những thầy học cũ của chúng tôi cách đây hơn 60 năm ở trường Saint Thomas D’Aquin Nam Định và École de la Mission Phát Diệm, và chúng tôi muốn chia sẻ bức thư này với nhiều bạn học của chúng tôi ngày trước, cũng như với các bạn trẻ cùng lứa tuổi với con cháu chúng tôi đã một thời là cựu học sinh của hai sư huynh Jourdain và Francois ở các trường LaSan ở Phát Diệm, Nam Định, Sóc Trăng và Sài Gòn.

Bức thư đó được viết tại Nhà Hưu Dưỡng La San Mai Thôn ở 970 Sô Viết Nghệ Tĩnh, phường 28 quận Bình Thạnh, Sài Gòn đề ngày 6-5-1995, do sư huynh François viết như sau:

'‘… Chúng tôi hồi xưa đã cùng nhau về Phát Diệm hoạt động Tông đồ và công tác xã hội, nay về già, Frère Jourdain (Nguyễn Văn Thiên) thì 91 tuổi, tôi frère François (Lê Văn Sắc) thì 84 tuổi, lại được về cùng nhau sống trong Nhà Hưu Dưỡng. Song Frère Jourdain thì đôi mắt không còn ánh sáng như xưa nữa, ăn uống đi lại đều nhớ người khác phụ giúp. Thỉnh thoảng có cựu học sinh, hoặc phụ huynh có dịp đến thăm đều lấy làm xúc động. Vì đức tin, vì đã hiến thân cho Chúa trong nhà tu, nên chấp nhận hoàn cảnh này không dám phàn nàn, hằng giây hằng phút đều nhớ Chúa, đều đọc kinh riêng.

Luôn luôn ngài đòi lăn xe đưa ngài đến nhà nguyện đúng giờ giấc tham dự Thánh lễ mai sớm, chung với các Frères lần hạt mân côi buổi trưa, và chiều tham dự kinh Phụng Vụ tại nhà nguyện và có Frère Sắc đẩy xe lăn ngài về phòng riêng. Ngoài những giờ đó, Frère François còn lui tới thăm viếng tại phòng riêng chuyện vãn, thường kể chuyện ngày xưa, cùng nhau nhắc nhớ chuyện xưa ở Phát Diệm.

Chúng tôi nay sức khỏe đã yếu nhiều, tất cả do tuổi tác. Song Chúa cho chúng tôi sống đến tuổi này cũng là hồng ân của Chúa vì các sư huynh khác xưa dậy ở Phát Diệm, nay còn đâu!

Thế mà có người vẫn thương nhớ giúp đỡ như Anh Chị thật chúng tôi được an ủi rất nhiều…’';

Bức thư do thầy Jourdain ký nguệch ngoạc vì bị mù đôi mắt và frère François Sắc viết và ký tên.

Sư huynh François là thầy học cũ của tôi tại trường học nội trú St Thomas d’Aquin Nam Định năm 1932 và sư huynh Jourdain dậy tôi ở lớp nhất trường L' École de la Mission ở Phát Diệm năm 1935, tình thầy trò giữa sư huynh Jourdain và chúng tôi đã kéo dài trên nửa thế kỷ với biết bao kỷ niệm. Ngài đã không nề quản đường xá xa xôi cách trở lặn lội tới tham dự lễ cưới của chúng tôi, rồi cũng chính ngài đã đích thân đưa con trai chúng tôi vào học trường Taberd ở Sài Gòn khi chưa đủ tuổi. Tôi còn nhớ nói với ngài rằng: ‘Nếu cháu Phùng không được vào Taberd năm nay, thì con không chơi với frère nữa’ rồi sư huynh Jourdain trả lời: ‘Anh Minh chuyên môn bắt nạt frère hoài à’! Được tin Frère François mới qua đời năm 1998.

Trong thời kỳ phôi thai mới thành lập Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc năm 1943, ngoài thân tình thầy trò, sư huynh Jourdain còn là một trong những đồng chí cách mạng đầu tiên của chúng tôi nữa, chính ngài đã cùng với chúng tôi chủ trương kế hoạch đánh phát xít Nhật Bản dành Độc Lập cho Tổ Quốc và hợp tác với quân lực của Đồng Minh có thể đổ bộ lên bờ biển Bắc Việt trong giai đoạn chót của Đệ Nhị Thế Chiến, và để thực thi kế hoạch này, chúng tôi đã triệu tập mở môt cuộc hộp họp chính trị rất quan trọng, mà một trong những người tham dự là anh Lê Bá Kông, một giáo sư Anh văn trẻ tuổi thời bấy giờ, được cử giữ một chức quan trọng là sĩ quan liên lạc nếu quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Bắc Việt. Anh Kông đã tị nạn tại Houston và mới qua đời năm 1998.

Là một cựu học sinh của các sư huynh Lasan từ các lớp sơ học đến hết 4 năm trung học ở trường Puginier ở Hà Nội, tấm thân tình thầy trò với các sư huynh mỗi ngày một nẩy nở thêm mãi và tôi thường tiếp xúc với các sư huynh khi trường học St Joseph được mở cửa lại ở Hải Phòng hồi năm 1949 nên tôi được mời dạy Pháp văn ở trường này cùng với hai anh bạn nữa trong đó có anh Phạm Ngọc Lũy, một thời đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh hồi đầu thập niên 1989, anh Đỗ Trọng Nguyên, cựu dân biểu quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, anh đã bị Việt Cộng bắt đi cải tạo một thời gian và bị lòa hai con mắt, và hiện cư ngụ tại Canada.

Sỡ dĩ, trong thời gian lánh nạn cộng sản ở Hải Phòng, tôi nhận làm ‘nghề’ cu ly sở Xi Măng là để chứng minh với thực dân Pháp rằng tôi có làm việc với người Pháp sau khi từ chối một chức vụ lớn do họ đề nghị. Sau khi sở mật thám của Pháp bắt được một cán bộ Việt Minh xâm nhập vào Hải Phòng để ám sát chúng tôi, tôi không còn bị ‘quấy rầy’ bằng những cuộc bắt bớ liên miên và không phải đi trình diện với Pháp mỗi tuần như trước nữa, nên tôi đã nhận lời mời của các sư huynh bỏ nghề ‘cu ly’ để đi dạy học, như vậy tôi sẽ có nhiều thì giờ sống gần gũi gia đình lúc này mới tới Hải Phòng sau gần hai năm xa cách.

Cũng trong thời gian này, tình hình chính trị giữa Việt Nam và Pháp đã có nhiều thay đổi quan trọng. Sau nhiều tháng điều đình rất gay go giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và chính phủ Pháp Quốc, một thỏa ước Việt Pháp đã được công bố tại diện Elysée ở Paris, ngày mồng 8 tháng 3 năm 1949, với sự hiện diện của Cựu Hoàng, ông Trần Văn Hữu, hoàng thân Bửu Lộc và Vĩnh Cẩn.

Đại cương thỏa ước 8-3-1949, quy định việc Pháp thừa nhận Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng, và có quyền liên lạc ngoại giao với các nước Đông Nam Á, Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.

Việt Nam hứa tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp, cho Pháp xử dụng các căn cứ quân sự; Việt Nam thuận tổ chức những cơ quan chung với các Quốc Gia Liên Kết: Mên, Lào, cử đại diện vào Hội Nghị Liên Hiệp Pháp và Thượng Hội Đồng Liên Hiệp Pháp.

Cao Ủy Pháp tại Đông Dương sẽ đóng vai trò trọng tài giữa các Quốc Gia Liên Kết, còn riêng phần Nam Kỳ sẽ tùy ý định đoạt số phận, nếu muốn tái nhập Việt Nam, và mãi đến ngày 23 tháng 4 năm 1949 Hội Nghị Nam Kỳ mới biểu quyết với đa số phiếu, công nhận sự tái nhập của Nam Kỳ vào Quốc Gia Việt Nam sau nhiều cuộc tranh luận hết sức gay go.

Đây chỉ là một bước tiến đáng kể của Quốc Gia Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại vì theo như thỏa ước Elysée này thì Việt Nam chỉ được tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp, chứ chưa thấy gì nói tới sự độc lập cả, nên cuộc đấu tranh chống Pháp dành độc lập hoàn toàn cho Tổ Quốc Việt Nam vẫn còn phải thực hiện bằng được.

Theo kế hoạch đấu tranh chung của Đại Việt Duy Dân Đảng, nhiều lớp huấn luyện chính trị do tôi chịu trách nhiệm tổ chức tại Hải Phòng cho những cán bộ Duy Dân ở trong khu vực quân đội Pháp chiếm đóng, gồm luôn cả những cán bộ ở khu vực Việt Minh kiểm soát cũng vào Hải Phòng tham dự nữa. Do đó tôi phải di chuyển chỗ ở từ số 38 ngõ Sơn Lâm ra số 8 ngõ Cố Đạo, để có đủ chỗ mở lớp huấn luyện và chỗ cho gia đình tôi ở.

Với số lương của một giáo viên trường St Joseph, làm sao đủ để trang trải mọi chi phí, dù có sự trợ cấp của một số anh em, nên tôi phải nhận dậy thêm tiếng Việt cho mấy người Pháp lập gia đình với mấy bà vợ Việt Nam, rồi tôi lại phải mở thêm lớp luyện Pháp văn cho những người đi thi Brevet. Công việc chữa bài thật đa đoan vất vả, cả hai vợ chồng chúng tôi phải đấu sức để chấm bài mới xuể. Riêng đối với lớp luyện thi Pháp văn này tôi rất lấy làm hãnh diện vì đa số học sinh đều đậu bằng Brevet và sau này họ học thành tài và tình thầy trò được duy trì rất thắm thiết cho tới mãi về sau.

Những lớp huấn luyện chính trị đã diễn ra rất sống động với các huấn luyện viên từ Hà Nội xuống như anh Trần Thanh Đình, anh Giang, anh Đức v.v.. và người ‘trụ trì’ các lớp này là anh Chính với biệt hiệu ‘Chính Tồ’, hình như anh Chính lúc này đang sống tị nạn cộng sản ở Canada. Những lớp huấn luyện này thường kéo dài 10 ngày và mỗi ngày đều có những giai thoại rất đặc biệt về ‘nhậu’ mà tôi còn nhớ, thường ra những bữa cơm ăn của anh em thật là thanh đạm chỉ có rau muống, muối mè, những mỗi buổi tối là những bữa nhậu không bao giờ quên nổi!

Rượu uống thì thừa thãi vì từ trong Phát Diệm tiếp tế ra từng hũ ba xi đế loại ngon nhất, nhưng vì không có quỹ nên đồ nhậu lại toàn những loại đặc biệt khoái thẩu mà lại rẻ tiền nhất, như xẩu tức xí quách mua ở tiệm phở bên cạnh nhà hoặc món chân bò luộc bóp chanh muối. Đặc biệt lắm thì thêm món thịt bê thui chấm tương cự đà.

Đời sống của chúng tôi ở Hải Phòng có vẻ êm ả trong tình thân mật của những đồng chí cùng đấu tranh chống cộng sản dành độc lập cho Tổ Quốc, nhưng chính giai đoạn này nhiều tin tức chính trị của một tổ chức chính trị ở Phát Diệm do nhóm những người gốc địa phận Vinh, nhưng hoạt động ở Phát Diệm làm cho chúng tôi rất thắc mắc là nhóm này có những liên lạc chặt chẽ với cơ quan tình báo của thực dân Pháp thường được gọi là tổ chức Recherche Historique do thiếu tá Dupra lãnh đạo.

Chủ trương của nhóm ông ‘già’ Vinh là dùng danh nghĩa của Đức Cha Lê Hữu Từ để cùng với Dupra vận động cho quân đội Pháp nhẩy dù xuống Phát Diệm, và dùng Phát Diệm như đầu cầu để quân đội Pháp đánh chiếm tỉnh Nghệ An là quê hương của nhóm này.

Chúng tôi cũng được biết rằng nhóm này che dấu mưu đồ của họ không cho Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Tổng Hoàng Quỳnh biết. Vì họ biết rằng chủ trương của Đức Cha Từ và Tổng bộ Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm là nhất quyết chống trả mọi hành động xâm lăng của thực dân Pháp, đồng thời cũng tranh đấu chống Cộng sản nữa.

Phát Diệm không muốn bị lợi dụng và bị buộc tội làm tay sai cho thực dân Pháp, nên hành động chống Pháp của Đức Cha Từ và dân Phát Diệm đã được thể hiện ngay khi quân Pháp nhẩy dù xuống chiếm đóng Phát Diệm và Bùi Chu ngày 16 tháng 10 nắm 1949.