- 5 -
Ý được truyền nước biển có thuốc bổ vàng vàng trong đó. Vị bác sĩ già gương mặt hiền hiền, nghiêm nghiêm, nói bằng mắt nhiều hơn miệng. Ông ta có thói quen lắc đầu làm Tư cứ nhói tim từng chập. Đến ngày thứ hai Ý đã chịu mở mắt. Ông ta lắc đầu lần cuối rồi nói:
-Tốt! Ra viện được rồi.
Lát sau cô y tá mang đến cái toa, hối Tư đi làm thủ tục xuất viện. Đang có dịch tiêu chảy nên bệnh viện bị quá tải. Giường bệnh chỉ đáp ứng được một nửa nên hai bệnh nhân phải nằm chung một giường. Họ phải nằm trở đầu để khỏi bị rơi xuống đất.
Thân nhân theo nuôi nằm la liệt dưới nền nhà, ngoài hành lang. Có người còn ra mấy cái băng ghế đặt ngoài sân để ngủ.
Ý may mắn được một mình một giường nên chưa kịp về đã có người nhà của một bệnh nhân đem mền gối đến đặt lên giường để xí trước.
Dì Năm chủ nhà đến thật đúng lúc. Dì đi xe đạp của Tư đến nên Tư nhờ dì ngồi trên xích lô với Ý còn mình thì theo sau hộ tống.
Vừa đến nhà, câu đầu tiên Ý nói là hỏi Tư:
-Thư đâu?
Tư móc cái bao thư có cả ba tấm ảnh trong đó đưa hết cho Ý.
Thật ra trong ấy có đến bốn. Cái tấm thứ tư, hình Ý mặc áo dài trắng với cái phù hiệu của trường "Gia Long" gắn trên áo được Tư giữ lại.
Ý lấy ba tấm ảnh ra xem từng tấm một. Ba tấm ảnh, một Ý mặc áo dài màu, đi chợ hoa ngày tết, một Ý chạy chiếc vê lo với mái tóc bị gió hất ngược về phía sau, miệng cười rạng rở. Tấm ảnh cuối, Ý mặc bộ bà ba đen, đứng vịn tay trên cây cầu khỉ được cô ngắm lâu nhứt.
Ý lấy vạt áo lau giọt nước mắt rơi trên đó rồi nói:
-Ước gì đang ở với ngoại.
Ý nói cho riêng mình, nhỏ nhưng cũng đủ để Tư nghe. Chàng nói:
-Để tui đưa Ý về quê.
Ý hỏi:
-Chừng nào?
Tư đáp:
-Chừng nào cũng được.
Ý nói:
-Ngày mai được không?
Tư gật đầu:
-Sáng mai tui sẽ đưa Ý đi.
Ý có vẻ ngần ngại, muốn nói câu gì đó nhưng thôi. Tư nhìn Ý, đôi mắt đong đầy niềm thương cảm, muốn an ủi mà cũng không thốt nên lời...
Tư đến nhà từng đứa học trò, cho chúng biết được nghĩ một tuần lễ. Chàng ngại phải tìm lý do, ngại phải nói láo nên vừa thông báo xong là đi liền lập tức.
Tư ghé quán cơm của dì Ba, dì đang vắng khách nên mừng ra mặt khi thấy chàng. Dì hỏi:
-Hổm rày bây đi đâu mà không ghé ăn cơm?
Tư cười:
-Con đi công việc cả ngày, chừng về tới nhà là tối hù, dì dọn mất tiêu rồi.
Dì hỏi khéo:
-Mấy ngày nay cháo gà cũng hổng thấy bán.
Tư làm thinh, chàng quá mệt để giải thích nên chỉ nói:
-Thế à!
Ăn cơm xong Tư vào nhà, tắm một trận cho sạch hết ba cái mùi của nhà thương. Lôi cái túi vải cất trong tủ ra, bỏ hai bộ đồ và một khăn mặt vào.
Tư moi dưới đáy tủ lấy ra một cái hộp bằng nhựa cứng màu đỏ. Chàng mở nắp hộp, lấy chiếc nhẫn một chỉ bằng vàng y đeo vào ngón tay. Mấy chiếc nhẫn của má chàng sắm làm của, đã đem bán hết khi bà bịnh, chỉ còn mỗi chiếc nầy. Tư định bụng để dành làm kỹ niệm...
Sáng hôm sau Tư dậy thật sớm, đến nơi đã thấy Ý ngồi sẵn ngoài hiên để đợi. Dì Năm chủ nhà cũng ngồi kế bên cô, dì nói:
-Về ít ngày thấy khỏe rồi thì xuống liền. Bán buôn mà nghỉ lâu coi chừng mất hết khách đó!
Ý đáp nhỏ:
-Dạ!
Thấy Ý mang túi đồ chỉ to gấp đôi cái túi của mình, Tư nghe mừng một chút. Vậy là Ý sẽ về lại, Ý sẽ không bỏ đi hẳn, Ý chưa bị đánh gục hoàn toàn.
Rồi Tư bỗng nhói tim, biết đâu hoàn toàn ngược lại. Ý sẽ đoạn tuyệt với quảng đời cũ của mình, vứt bỏ hết kể cả Tư. Cũng phải thôi! Tư là ai, là cái gì mà đòi...
Cố xua tất cả các ý nghĩ ấy ra khỏi đầu óc mình, chàng cười gượng, nói với cô:
-Ý đưa túi cho tui xách cho.
Ý cự:
-Tui xách nổi mà
Tư cố thuyết phục, giành cho bằng được. Chàng sợ cái vẻ tiều tụy của Ý, sẽ khiến một kẽ chưa đến nổi bất lương lắm cũng nãy ra ý định tước nó khỏi tay cô.
Đi đến đầu hẻm, Tư ngoái lại nhìn, vẫn thấy dì Năm đứng ngó theo họ. Tư vừa đưa tay vẫy dì thì nghe có tiếng "tành tạch" phía sau. Tiếng xe máy vừa đến sau lưng chàng thì im. Tư quay lại nhìn. Một người đàn ông lớn tuổi, ngồi trên chiếc HONDA 67 màu đen nhìn chàng và hỏi:
-Hai cháu đi đâu? Lên xe bác chở cho.
Ông xe ôm già y như ông bác phát thư làm Tư chạnh lòng, chàng đáp:
-Tụi cháu đi xa cảng miền tây. Bao nhiêu vậy bác?
Ông nói một con số, Tư trả giá hầu như theo quán tính.
Ông kèo nài:
-Cháu đi mở hàng giùm. Bác lấy giá đó là rẻ hơn người ta rồi.
Nghe ông nói vậy Tư liền đồng ý. Ông bảo Ý lên ngồi trước rồi tới Tư.
Thấy chàng đeo hai túi đồ trên hai vai, ông khuyên:
-Đeo như vậy không an toàn đâu, để bác cột vào phía trước cho.
Ông bác nầy có giọng nói và gương mặt hiền hậu khiến Tư tin tưởng. Chàng an tâm tháo hai cái túi trên vai xuống rồi đưa hết cho ông.
Ông vừa cột vào xe vừa giải thích:
-Hôm trước chính mắt bác thấy một cô gái bị giựt cái giỏ xách quảy trên vai. Cổ té từ trên xe xuống đất, mất cả túi lẫn mạng. Từ đó bác luôn mang theo cái nầy để cột đồ cho khách.
Ông đưa sợi dây bằng cao su cho chàng và Ý thấy, rồi dùng nó để ràng chặt hai cái túi vào bình xăng. Ông lấy tay lay thấy chúng không nhúc nhích mới yên tâm.
Chờ cả hai ngồi xong, ông cúi nhìn xem chân họ có đặt đúng chỗ chưa rồi dặn:
-Ráng kềm cái chưn cho chặt, đừng có đút vô căm nghe.
Trước khi cho xe chạy ông đưa tay về phía sau, sờ cái yên xe để kiểm tra xem Tư ngồi như thế nào, chừng như không an lòng ông bảo:
-Cháu ngồi sát vô một chút, chớ nửa trong, nửa ngoài như vầy nguy hiểm lắm!
Tư vâng lời, xích vào đúng một xăng ti mét, gồng mình nắm chặt lấy yên xe. Đến nơi, chàng lật đật bước xuống xe, xoa mãi hai bàn tay tê cứng vào nhau rồi móc bóp lấy tiền ra trả.
Ông bác xe ôm vừa thối tiền vừa dặn:
-Ở đây giựt đồ dữ lắm nghe, nhứt là ở chỗ bán vé.
Rồi ông hỏi:
-Hai cháu đi tới đây lần đầu phải hông?
Tư gật đầu, ông hỏi:
-Đi về đâu?
Ý vẫn làm thinh, Tư còn nhớ địa danh hôm trước Ý nói với chàng nên đáp.
Ông ta tỏ vẻ vui mừng, cười toe như gặp bà con, giọng thân mật:
-Vậy bác cháu mình là đồng hương rồi.
Thấy Tư cho tiền thừa vào bóp rồi nhét vào túi quần một cách lơ đãng, ông rầy:
-Cháu lấy cái bóp ra, nhét vô cái túi nhỏ trước bụng cho chắc ăn đi. Hai cái túi bên hông miệng rộng rinh, bị móc dễ nhứt, không an toàn đâu!
Một người con trai trạc tuổi Tư trờ tới hỏi:
-Anh đi về đâu, em mua vé giùm cho.
Thấy Tư nhìn y một cách ngạc nhiên, ông giải thích:
-Cháu nầy chuyên mua giùm vé để kiếm tiền uống cà phê.
Ông chỉ vào một đám người chen chúc trước quầy vé nói:
-Trong đó hơn phân nửa là họ đó. Cháu nhắm chen nổi hông?
Thấy Tư có vẻ xiêu lòng, ông bèn hỏi chàng ta:
-Xe đi... ra bến chưa?
Anh ta gật đầu. Ông nói với Tư:
-Cháu đừng lo, cậu nầy là người quen. Cứ đưa tiền nhờ mua giùm vé đi, không sao đâu!
Tư hỏi chàng trai:
-Bao nhiêu vậy bạn?
Y trả lời:
-Hai vé năm mươi bốn đồng, sáu đồng tiền công nữa là sáu chục
Tư móc cái bóp ra trở lại, lấy tiền đếm rồi đưa đúng sáu mươi đồng.
Ông bác xe ôm muốn Tư yên tâm, nên đứng lại với chàng và Ý, cho đến khi chàng trai cầm hai tấm vé trên tay quay lại chỗ họ rồi đưa cho Tư.
Chàng ta thấy Tư "lờ tờ mờ" quá nên hỏi:
-Biết chỗ xe đậu chưa?
Tư lắc đầu:
-Chưa, ở đâu?
Y ta sốt sắng:
-Để tui dắt anh chị ra xe, chỉ chỗ ngồi luôn cho.
Tư cảm thấy mắc cỡ vì ban nãy trót nghi ngờ cả hai. Chàng đâm ra vô cùng cảm kích trước lòng tốt của y và nhứt là ông bác xe ôm.
Tư chia tay ông bằng giọng xúc động:
-Cháu cám ơn bác nhiều lắm!
Ông cười xua tay:
-Có gì đâu!
Ý gật đầu chào rồi lững thững đi theo Tư. Chàng vừa quay lưng liền nghe tiếng gọi:
-Ê, ê...
Tư nhìn ngoái lại, hỏi:
-Có chi hông bác?
Ông dặn vói theo:
-Dọc đường có khát thì mua nước suối đựng sẵn trong chai có đóng nắp hẳn hoi mà uống, đói thì mua chuối nấu mà ăn cho hợp vệ sinh. Đừng có ăn ba cái món để khơi khơi không đậy gì hết, kẽo bị chột bụng bất tử, xe đang chạy mà bắt họ ngừng từng chập hoài là dám bị bỏ lại, phiền phức dữ lắm!
Tư nghe ấm lòng biết bao trước sự nhiệt tình, chu đáo của ông bác vừa mới quen nầy. Chàng chợt cảm mến ông hệt như dì Ba bán cơm của mình vậy!
Tư chạy lại xiết tay ông và nói:
-Hy vọng cháu còn gặp lại bác!
Ông gật đầu, cười:
-Cậu muốn gặp tui thì dễ ợt thôi mà! Sáng sớm nào tui cũng dựng xe đón khách ở dưới góc cây bả đậu, đầu cái hẻm xóm Đình hồi nãy.
Chờ họ đi khuất, ông bác xe ôm mới chép miệng:
-Tội nghiệp! Cậu ta coi hiền khô, đẹp trai như vậy mà có cô vợ bị câm. Uổng quá!
Con đường từ Sài gòn về đến quê của Ý bị con nước cắt làm bốn đoạn.
Đoạn thứ nhứt, nhì và ba nó là con đường nhựa, rộng rãi. Ở khúc sau cùng nó chỉ là con đường đất, mặt bị rỗ chằng, rỗ chịt bởi vô số ổ gà và những cục đá ong to bằng cườm tay được rải không đều.
Mùa nầy con sông không trong, không xanh. Thay đổi cả màu sắc lẫn tánh tình. Nó đục ngầu mang màu nâu đỏ, không chảy lượn lờ mà tuôn đổ ào ào, hối hả.
Đất, bà mẹ của sông, đang trong thời kỳ trở dạ. Mỗi năm một lần, bà chắt hết máu, phóng thích tất cả năng lượng đang có để tái sinh làn da cằn cổi của mình.
Bà khiến nó phình to, gương mặt liên tục bộc lộ những cảm xúc mâu thuẫn, khi thì biểu hiện sự cuồng nộ, khi thì sôi sục một niềm vui...
Những cánh đồng dù vẫn mang dáng vẻ hiền từ, thanh thản, nhưng hình như đang phập phồng, hồi họp... Bởi con lũ đang lăm le, có thể ăn tươi, nuốt sống chúng trong nay mai.
Nếu chuyến đi nầy được thực hiện khoảng một vài tháng trước, lúc tâm trạng, hoàn cảnh của cả hai không nhuốm màu u ám thì tốt biết mấy.
Ý sẽ rất vui, sẽ giới thiệu với Tư những cái hay, cái đẹp của quê mình. Chàng vốn yêu hội họa chắc chắn sẽ bị phong cảnh, con người ở đây hấp dẫn đến không dứt ra được.
Chàng sẽ nhớ mãi những căn nhà nhỏ và thấp, khiêm nhường nằm cạnh mấy gốc xoài, gốc me, gốc ổi...Những người nông dân bình dị một cách đặc biệt, gặp người lạ là cười nhiều hơn nói, dễ cho, dễ nhận, từ điếu thuốc đến cả tấm chân tình... Nhớ cái dáng thong dong của bầy gia súc thơ thẩn trong sân.
Tư sẽ ngạc nhiên hỏi Ý: "Sao mà mấy con chó ở quê hiền và dễ làm quen dữ vậy?".
Ý sẽ giải thích: "Vì chúng được chạy chơi thoải mái, chẳng bị xiềng xích hay giữ rịt trong nhà. Chúng tha hồ bắt bồ, kết bè, kết bạn, chẳng bị chủ quản thúc đến độ bị bịnh điên đe dọa".
Chàng còn kinh ngạc hơn khi biết rằng chẳng một tên nào trong chúng bị lôi đầu đi tiêm phòng và khắp xóm cũng chẳng ai bị chết vì chó cắn.
Mấy tháng trước dòng sông còn thân thiện biết bao! Nó còn là một cô gái quê đang tuổi thanh xuân, tính tình hồn nhiên, hiền lành, dễ dạy...Chính những cơn mưa đã khiến nó thay đổi phái tính. Trở thành một chàng trai ngông cuồng thích bắt nạt, thẳng tay quăng quật bất cứ thứ gì rơi vào lòng, nhất là những chiếc đò nhỏ. Khiến người lái đò- thường là các ông già và những cô gái trẻ - cùng mấy người khách ngồi trong đó phải lo sợ đến teo gan, teo ruột.
Tuy dòng sông đã thay da đổi dạ, nhưng cánh đồng vẫn còn nguyên bản chất hiền lành của mình.
Tư đưa mắt nhìn theo một con cò đơn độc, nó bay một cách uể oải khiến cánh đồng như rộng ra thêm. Mấy ngọn gió leo tuốt lên đọt tre, đọt dừa... bám theo nó đến tận chân trời, bỏ lại mấy cái chòi trống lổng, cùng những thằng bù nhìn đội cái nón lá rách bươm, đứng một mình giữa mênh mông trời đất.
Một căn nhà lá nhỏ xíu quỳ gối bên bờ kinh, với cái chõng tre bên hông và giàn mướp rải hoa trên mái, khiến Tư yêu thích lạ thường! Tưởng tượng một gia đình nhỏ bé, hai vợ chồng, hai đứa con một trai, một gái sống trong đó khiến lòng chàng lâng lâng. Ôi! Phải chi...
Ngồi cạnh chàng, từ lúc lên xe, Ý cứ nhắm nghiền mắt lại. Cái dáng cứng nhắc và hai môi mím lại cho Tư biết, nàng đang nhìn chầm chập vào nội tâm, đang bóc từng lớp vỏ của cái củ hành ký ức, đang tự tra tấn linh hồn vốn đã mang đầy thương tích của mình.
Ôi! Ước gì nàng buông bỏ ý thức, ngủ lịm đi rồi tựa đầu lên vai Tư. Mái tóc dài của nàng sẽ bị gió bạt để thỉnh thoảng bám vào cổ chàng.
Nhìn dáng ngồi thẳng băng, lưng cứng đơ tựa nhẹ vào ghế của Ý mà Tư nghe đau lòng hết sức! Cái tư thế như một nhà sư đang thiền quán ấy khiến nàng tách biệt hẳn với mọi người, kể cả Tư.
Chàng có cảm giác như Ý đang được một cái túi nhựa rất dày, bền bĩ và trong suốt phủ kín. Cả hai đang ngồi cạnh nhau mà giống như trong hai thế giới khác biệt. Cảm giác cút côi lại xuất hiện trong lòng chàng, nặng nề không kém như khi chịu tang mẹ.
Tư cầu mong Ý rơi vào một trạng thái vô thức, khoảng thời gian nầy giống như đoạn băng bị xóa. Để khi tỉnh lại, Ý sẽ mới tinh, trong trẻo như tấm kính được lau sạch trơn không còn vương một hạt bụi.
Ý đang cố tập trung tinh thần để giữ cái đầu đứng yên trên cổ, không cho nó đổ gập về phía trước. Người nàng như căng ra bởi lòng căm phẩn và sự thách thức. Ý muốn thách thức cả ông trời, người mang đến những tai họa tày đình liên tục, người nhẫn tâm vặt trụi lủi những niềm vui trong cuộc sống của mình.
Cô cũng đang âm thầm tự trách: "Phải chi hôm đó mình không sợ Tư ngại, bỏ hết cà phê ướt trong túi ra thì đâu xảy ra tai họa. Phải chi mình gọi Tư quay lại lấy áo mưa. Phải chi hôm đó trời nắng... "
Ý liên tục dày vò mình và trách cứ ông trời, vì ổng không hiện diện nên một mình Tư lãnh đủ. Bởi cho dù vô tình đi nữa, thì vẻ cứng nhắc của cô cũng làm Tư cảm thấy ray rức, đau xót vô cùng.
Mấy lần Tư định gợi chuyện nhưng không dám. Chàng sợ Ý bực mình vì bị làm phiền. Mãi đến lúc xe dừng lại bến bắc Mỹ Thuận, Ý mới mở mắt ra.
Tư mừng quá, liền hỏi:
-Ý có mệt không?
Ý lắc đầu rồi khép hờ mắt lại.
Những người bán hàng rong đang xô lấn, họ tranh nhau lên xe trước để giành khách. Họ mang hàng đến từng băng ghế, kiên trì mời chào từng người một.
Tư mua chuối của một bà lão miệng móm sọm, lên xe sau cùng. Bà yếu lắm nên chỉ mang mỗi cái xịa nhỏ với hai nải chuối nấu trái nhỏ xíu. Tư hỏi:
-Chuối nầy tên gì vậy bà?
Bà đáp với chút hi vọng le lói trong mắt:
-Chuối sáp đó con, dẻo lắm! Ngọt lắm! Con mua ăn thử đi!
Tư không lựa mà lấy đại một nải chuối. Chàng cũng không hỏi giá mà rút cái bóp lấy ra một tờ giấy bạc hai chục, đưa cho bà.
Bà lão cho bàn tay vào vét hết cả hai túi của cái áo đang mặc, móc ra một mớ tiền lẻ rồi cứ đếm đi, đếm lại hoài, lúng túng vì không đủ tiền để thối cho Tư.
Bà lo chàng sẽ trả lại nên năn nỉ:
-Con lấy giùm bà thêm một nải nữa nghen! Như vậy mới đủ tiền mà thối cho con.
Tư nhìn nắm tiền lẻ trong bàn tay rung rung của bà mà nghe thương cảm lạ, chàng nói:
-Bà giữ tiền lại đi, con mua luôn nải nầy cho.
Bà cụ chới với vì ngạc nhiên, bàn tay cầm tiền cứ đưa ra trước mặt Tư. Chàng lấy thêm nải chuối còn lại, dúi cái bàn tay gầy gò đang cầm mấy tờ tiền lẻ trở vô cái túi của chiếc áo bà ba cũ của bà.
Bà lẩm bẩm:
-Cám ơn...
Bà lão mang cái xịa không bước xuống xe. Những người khách ngồi trên xe cũng lục đục xuống sau. Chàng trai ngồi trước mặt Tư thò đầu ra cửa xe nhìn dáo dác rồi nói bâng quơ:
-Bắc kẹt rồi! Hàng xe dài ngoằng như vầy chắc chiều tối mới về tới nhà.
Có tiếng thở dài thậm thượt của một cô gái và tiếng than của một cô gái khác:
-Cái bắc Mỹ Thuận nầy nổi tiếng là kẹt thường xuyên. Tui đi mười lần là bị đúng một chục. Không hiểu sao họ không mua thêm vài cái...
Một người khác ngắt lời:
-Tiền đâu? Thời buổi ăn độn nầy mà còn đòi...
Một giọng nữ thứ ba xen vào:
-Cực chẳng đã có công việc phải đi ra đường, chớ bây giờ ngồi xe đò chán phèo. Xe thì cũ xì, hư tới hư lui. Nhồi nhét như điên thở hết muốn nổi. Rồi thì trạm gác mọc lềnh khênh, chạy một chút ngừng mười chút! Để rồi coi, từ đây về tới bến ít gì cũng phải qua bốn, năm trạm nữa.
Cô gái thứ nhứt lại thở dài, than vãn:
-Không có cái gì làm tui ngán cho bằng kẹt bắc.
Người con trai ban nãy phụ họa:
-Bây giờ đỡ rồi chớ hồi trước còn lo thêm cái nạn bị đắp mô nữa.
Cao hứng, anh ta đọc luôn câu danh ngôn của ông Nguyễn Bá Học, không quên cải biên cho nó phù hợp với tình cảnh hiện tại của mình:
-"Đường đi khó không khó vì ngăn "mô", cách "bắc", mà khó vì lòng người ngại "bắc" e "mô"". Hãy can đảm lên bà con, bất quá tới khuya cũng về đến nhà.
Người tài xế trách:
-Mấy người lâu lâu mới đi một lần mà than như bộng. Tui nè! ngày nào cũng đi thì sao?
Anh con trai nói nịnh:
-Anh giỏi thiệt đó, gặp tui chắc bỏ nghề từ lâu!
Cô gái thứ nhứt cự lại:
-Ngu sao mà bỏ? Thời buổi nầy cái nghề lái xe đò là hốt bạc đó. Họ giàu nhờ hàng lậu mà. Bởi vậy bác tài nào cũng hai, ba bà vợ.
Người tài xế thở dài:
-Bởi ai cũng nghĩ như cô nên tụi tui mới khổ. Có bữa xui tận mạng, nào xe hư, nào kẹt bắc... Vừa mệt vừa đói. Vậy mà vừa về tới nhà còn bị bà xã cằn nhằn, vặn vẹo đủ thứ: "Ông ghé nhà con nào mà giờ nầy mới về...". Nhiều khi chịu hết nổi, xáng cho bả một bạt tay, thế là bị bỏ đói luôn!
Cô gái thứ ba lên tiếng bênh vực cho giới mình:
-Một lần oan chớ chín lần ưng lận! Có lần tui đi cũng tuyến đường nầy. Ông tài xế đó còn già hơn chú nữa. Đang đi ngon lành cái ổng thắng lại cái ét, xuống xe không thèm nói tiếng nào. Bỏ bà con đợi dài cổ. Chắc ổng ghé chỗ nầy thường xuyên nên cái nhà khít bên mới mở quán bán cơm, bán cà phê luôn. Bà chủ quán thấy tụi tui ngồi trên xe không dám xuống thì chạy ra mời: " Vô quán ngồi nghĩ chưn đi bà con. Đợi lâu lắm đó!". Rồi bả nói nhỏ xíu "ổng ghé thăm vợ nhỏ mà". Đúng i xì, hơn một tiếng đồng hồ sau ổng mới ra khỏi nhà, có cô gái trẻ măng đi theo, đứng nhìn rồi vẫy tay thắm thiết.
Những chuyến xe đò là dịp để người ta gặp gỡ, chuyện trò xã giao rồi đi dần đến chỗ tâm sự. Không biết bao nhiêu tri kỷ gặp nhau nhờ nó. Không biết bao nhiêu đôi uyên ương được nó tác thành, cho nên đi càng xa, người ta càng sửa soạn kỹ càng, ráng ăn diện cho thiệt là đẹp.
Những câu chuyện trên xe đò thường đầu Ngô mình Sở, đang từ chuyện nầy nhảy vọt sang đề tài khác. Đang nói chuyện vợ nhỏ liền bắc qua chuyện đánh ghen. Giữa cao trào đánh ghen có người kể cô vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít phải đi ăn xin. Thế rồi có người than sao bây giờ người ta đi ăn xin, ngủ ngoài đường nhiều quá! Ngay lập tức nó người phàn nàn, ngay giữa Sài gòn chỗ đường ray chạy qua bây giờ dơ hết biết! Người ta phóng uế tùm lum, không biết mắc cỡ gì hết! Thế là có người đổ thừa là tại thế nầy thế nọ...
Những câu chuyện đó chẳng những giúp họ giết thời gian, mà còn gom được cả chục cái sàng khôn, đem về nhà chia cho bà con lối xóm xài hoài không hết! Hơn hai chục người còn ngồi lại trên xe đều tham gia rôm rả. Mỗi người cống hiến một câu chuyện, ai cũng moi óc, cố tìm đề tài hợp mốt nhứt, ăn khách nhứt, hấp dẫn nhứt! Và dù đa số chỉ nghe truyền đạt lại bằng tai, nhưng để tăng thêm tính hấp dẫn họ đều bắt đầu bằng một câu, với giọng chắc lọi như đinh đóng cột:"Chính mắt tui thấy..."!
Chỉ mỗi mình Tư và Ý là không tham gia. Tư cầm sẵn trái chuối sáp trong tay, chờ Ý mở mắt là lột liền để ép cô ăn, bởi hổm rày Ý chỉ sống nhờ nước.
Ý hầu như đoán được đều đó nên chống lại bằng cách nhắm mắt vờ ngủ, tận đến khi tiếng thét thất thanh của một cô gái trên xe. Cô gái nầy hoảng hốt khi phát hiện cái túi của mình đeo kè kè trên vai, bị rọc hồi nào không hay. Lúc đó Ý mới chịu mở banh cả hai con mắt.
Tư vội lột trái chuối, dúi tận tay Ý, năn nỉ:
-Ăn một miếng lấy sức đi! Mấy ngày rồi chưa có thứ gì vào bụng.
Ý định từ chối, nhưng nghe giọng nói gần như van xin và ánh mắt khẩn khoản của Tư, cô chẳng đành lòng. Bèn nhìn trái chuối nhỏ bằng ngón tay, có màu vàng ươm một cái rồi cầm lên, cắn, nhai từng chút, từng chút một.
Vừa ăn xong một trái, Tư liền đưa tiếp trái khác. Ăn hết trái chuối thứ nhứt Ý mới nghe đói. Cô nhận trái chuối thứ nhì không do dự khiến Tư mừng húm! Đến trái thứ năm thì Ý chỉ cắn một miếng rồi lắc đầu nói:
-Ăn hết vô rồi!
Tư ngoắc một đứa bé gái đang xách cái túi ni lông có mấy chai nước suối lại để mua. Chàng mở nắp, lấy ống hút cắm vào rồi đưa cho Ý. Chờ cô cắm đầu vào chai nước, Tư liền ăn nốt trái chuối mà nàng bỏ mứa.
Mọi người trên xe xúm nhau an ủi cô gái xấu số nọ.
Cô ta khóc bù lu bù loa, kể lể rằng mình đã cực khổ như thế nào để có được một số tiền khá lớn như vậy. Cô đau khổ quá khiến ai cũng mũi lòng.
Không khí trên xe đang hết sức chan hòa bỗng co cụm lại. Ai cũng lật đật kiểm tra lại hành lý của mình. Người ta tránh nhìn nhau vì sợ bị hiểu lầm...
May thay, anh lơ xe kịp thời thông báo:
-Mời hết thảy bà con, cô bác xuống xe để qua phà.
Tư lấy thêm cái túi từ tay Ý, quàng hết trước ngực, rồi nói:
-Mình xuống cho họ khóa cửa xe, ngồi trên đây bất tiện lắm.
Chàng và nàng là hai người xuống sau cùng.
Chiếc phà gồm hai tầng. Tầng dưới đông ken người và xe nên cả hai leo lên cái băng trống ở tầng trên để tránh khói xe, khói thuốc.
Đợi Ý ngồi xuống xong Tư hỏi:
-Ý có đem theo cây lược hông?
Cô không trả lời mà lấy lại cái túi xách trên vai Tư, cho tay vào quờ quạng trong đó hồi lâu, rồi rút ra cây lược bằng nhựa màu trắng đưa cho chàng.
Tư không cầm mà bảo:
-Ý chải đầu lại đi!
Ý lại đưa túi cho Tư tròng vào cổ, tháo cây kẹp đồi mồi hình chiếc lá ra, tiện tay cho nó vào túi áo sơ mi trên ngực của Tư luôn.
Cô bắt đầu chải từ trên đỉnh đầu xuống phía dưới cho tóc thật thẳng, rồi dùng bàn tay trái đặt sát ót để gom hết tóc lại, tóm chặt rồi mới chải tiếp phần đuôi.
Ý không kẹp mà bới cao lên, phơi cái cổ gầy nhom! Với kiểu tóc nầy trông nàng già thêm năm, sáu tuổi, mang dáng dấp của một góa phụ làm Tư nghe quá xót xa!
Trong lúc Ý lo bới tóc, Tư cho bàn tay đeo nhẫn vào túi xách của Ý, dùng ngón tay cái đẩy chiếc nhẫn đeo trên ngón út ra, nhét vào đáy túi.
Bới tóc xong Ý nói:
-Mát quá!
Rồi đưa cái lược cho Tư biểu:
-Chải đi!
Tư cầm cây lược, lia hai ba nhát cho Ý vui chớ tóc của chàng hớt cua ngắn ngủn đâu cần phải chải. Một đứa bé trai bưng cái thúng gương sen rất tươi đến mời họ mua giùm. Tư thấy Ý nhìn chầm chập vào hai ống cẳng đen thui còn dính bùn của nó nên nhìn theo rồi hỏi:
-Sen nầy em hái hả?
Đứa bé trả lời rất lễ độ:
-Dạ!
Tư hỏi:
-Hái hồi nào?
Nó đáp:
-Mới hồi sáng nầy?
Tư hỏi tiếp:
-Hái ở đâu vậy?
Nó hơi ngần ngừ, chắc sợ Tư biết chỗ rồi giành hái hết, suy nghĩ vài giây rồi mới trả lời:
-Mị trong đồng, xa lắm!
Tư chỉ những vết trầy ngang dọc, chằng chịt trên chân nó, hỏi:
-Em bị sao vậy?
Lần nầy nó trả lời liền:
-Gai sen quào đó!
Tư hỏi như trách:
-Sao không mặc quần dài?
Nó lắc đầu:
-Gai sen bén lắm, rọc tét hết!
Tư mua giúp một chùm gồm năm cái gương sen, rồi cũng không lấy tiền thối khiến nó nghi ngờ, cứ trố mắt ra mà nhìn chàng chằm chập.
Thế rồi nó đi như chạy, mừng đến quên cả cảm ơn.
Lát sau nó đưa một con bé bán trứng cút đến. Con bé nầy coi bộ chuyên nghiệp lắm! Đưa cái bịt ni lông đựng mười cái trứng cút sát mặt Tư mà mời:
-Mua giùm con đi chú!
Tư cười lắc đầu:
-Chú không ăn trứng cút!
Nó năn nỉ:
-Chú mua giùm con một bịt thôi cũng được. Sáng tới giờ con chưa bán được đồng nào.
Tư vẫn lắc đầu.
Đứa con gái vẫn không nao núng, nó năn nỉ:
-Chú mua giùm đi, tội nghiệp con mà chú! Con mà không đem tiền về là trưa nay khỏi được ăn cơm mà còn bị đòn nữa đó! Làm phước đi mà!
Tư ngạc nhiên:
-Sao vậy?
Nó đáp:
-Má bả tưởng con lo chơi, hổng chịu đi bán.
Tư hỏi:
-Một bịt bao nhiêu?
Con bé mừng húm:
-Có một đồng rưởi hà!
Tư đưa cho nó hai đồng rồi nói:
-Cho con hai đồng nè, chú không lấy trứng đâu!
Con bé cầm tiền rồi chạy vù đi, chắc sợ Tư đổi ý. Tư nhìn theo thấy nó đang móc tiền ra khoe cho con nhỏ bán trà đá, rồi đưa tay chỉ về phía Tư.
Thế rồi con bé đó, cùng một người đàn bà bán chim sẻ rô ti và một người phụ nữ bán đậu phọng nấu liền hấp tấp len lỏi giữa nhóm người đang đi ngược chiều để tiến lại chỗ chàng.
Tư lật đật kéo tay Ý đi xuống cầu thang, cả hai lên bờ ngay khi phà vừa chạm vào cái bờ kè.
Cái phà ở bến bắc thứ ba nhỏ và cũ hơn hai cái trước.
Khi chiếc xe đò dừng lại sát bờ sông thì nó đã tách bến. Cho dù đi chưa được một phần tư chiều ngang con sông, nó vẫn không thèm quay trở lại mà tiến thẳng vào bờ đối diện. Mặt tình chiếc xe đò tức khí thở phì phò, bấm còi inh ỏi cùng tiếng người gọi vang dội nó cũng chẳng thèm chú ý.
Nó không có mái che, sơn tróc nham nhở và bị rỉ sét nhiều nơi. Trên phà chỉ có vài chiếc xe gắn máy và chưa đến hai chục khách bộ hành.
Khúc sông ở đây cũng không rộng bằng hai khúc sông trước. Đứng bên nầy ta có thể nhìn thấy hình dạng của con đường và những căn nhà ở bờ phía bên kia.
Người tài xế xe đò nhấn còi inh ỏi, buông ra mấy tiếng chửi thề rồi tắt máy.
Anh ta trút giận lên đầu người phụ xế, bằng tiếng quát:
-Sao không mở cửa xe cho khách xuống, còn chờ cái gì nữa?
Anh chàng phụ xế lật đật mở cửa xe, bị mắng mỏ nên anh ta tỏ ra hết sức bất mãn, vung tay rất mạnh, nói một cách hết sức hằn học:
-Xuống xe hết qua phà!
Anh ta nhấn mạnh ở chữ hết, ngụ ý chẳng ai được ngồi lại.
Bến phà vùng ven nên thưa thớt người đi cùng quán xá. Người bán hàng rong cũng rất ít! Họ không đeo bám khách như ở bắc Mỹ Thuận và Vàm Cống vừa qua.
Họ mang những món, có lẽ là đặc sản nơi đây, đi tới đi lui, chẳng thèm mời mọc và cũng chẳng thèm rao. Ai thích thì mua, bằng không thì thôi!
Một đứa bé trai đội cái mâm với những cái bánh màu vàng tươi trông rất đặc biệt. Thấy Tư nhìn chúng một cách tò mò nên Ý giải thích:
-Bánh nầy do người Miên làm bằng bột cộng với nước lấy từ xơ của trái thốt lốt chín để lấy màu và mùi thơm. Người ta gọi nó là "bánh bò thốt lốt ".
Không hỏi ý Tư, cô mua một cái, đưa cho chàng rồi bảo:
-Tư ăn thử đi, ngon lắm!
Tư không cầm mà hỏi:
-Sao Ý không ăn?
Cô lắc đầu:
-Còn no, mua để Tư ăn cho biết thôi!
Tư cắn một miếng vào cái bánh trên tay Ý. Nó có vị ngọt và mùi thơm rất đặc biệt. Chàng ăn với nỗi cảm xúc nhẹ nhàng, nghe ngon lạ lùng.
Tư cố tình nhai thật chậm. Chàng tự hỏi có phải vì nó là thứ bánh lạ, hay do bàn tay của Ý đút cho mà mình nghe hương vị của nó tuyệt vời đến vậy?
Một cô gái trẻ, da màu bánh ít, đội khăn nhưng ăn mặc theo kiểu người Việt, gánh một chùm ống tre đen thui, hình như có chứa thứ gì bên trong đến mời họ:
-Nước thốt lốt mới chắt ngon lắm nè!
Ý cũng lại mua một ống cho Tư uống thử.
Nhìn cái ống nước không được đậy Tư hơi ngài ngại, chàng từ chối:
-Tui ăn cả nải chuối, còn thêm một cái bánh nữa nên đang no lắm!
Ý đưa cái ống lên miệng định uống, Tư ngăn lại, đưa chai nước cho cô và nói:
-Ý có khát thì uống chai nước nầy nè!
Ý biết Tư ngại điều chi nên lắc đầu, tiếp tục nâng cái ống lên miệng. Thấy Tư nhìn mình đăm đăm, đang uống nửa chừng, cô liền dừng lại, hỏi chàng:
-Muốn nếm thử hông?
Tư gật đầu. Lần nầy Ý dúi cái ống vào tay chàng. Cũng như cái bánh bò vừa ăn, thứ nước ngọt và thơm còn hơn nước dừa xiêm nầy cũng làm chàng ngây ngất!
Quán xá thưa thớt, chỉ có mỗi một quán cà phê cất sát bờ sông nên không đủ chỗ cho khách ngồi. Một số người bỏ qua bên kia đường, núp dưới mấy cây trứng cá để nhờ chúng che hộ cái đầu.
Một người đàn bà vận chiếc xà rông màu nâu với những hoa văn rực rỡ, mặc áo bà ba tay dài, đầu đội khăn có viền tua rua xung quanh đang ngồi ở đó. Cách trang phục ấy cho ta biết chính xác bà ta là người Việt gốc Cam pu chia. Bà ngồi dưới gốc của một cái cây trứng cá lớn nhứt, có cái tàng rộng nhứt với từng từng, lớp lớp những chiếc lá nho nhỏ xinh xinh chồng khít lên nhau. Trước mặt bà là hai cái gióng: Một bên có cái hỏa lò bằng đất với chiếc nồi bên trên đang bốc hơi nghi ngút. Một bên là cái thúng đựng tô, chén, muỗng, đũa...,được đặt trên cái thau nhôm đựng nước để rửa.
Khói từ chiếc nồi chạy đến, chúng chui tọt vào mũi khiến Tư biết ngay, đó là một món ăn mà mình chưa từng nếm qua. Chàng nhìn Ý đăm đăm để chờ nghe cô giải thích.
Ý cắt nghĩa:
-Món nầy tên là "bún nước lèo". Nó được làm bằng cá nấu chín, bỏ xương rồi đâm cho nát. Trong nước súp mà ta gọi là nước lèo đó có cho xã, nghệ và mắm bò hóc...
Tư chặn:
-Mắm "bò hóc" là mắm của con gì?
Ý giải thích:
-Đó là đặc sản của người Cam Pu Chia. Nó cũng làm từ cá, giống mắm của người Việt mình nhưng mùi nặng dữ lắm! Bảo đảm Tư ngửi không có nổi đâu!
Tư nhận xét:
-Chắc vùng nầy người cam pu chia ở nhiều lắm hả? Từ nãy giờ sao nghe Ý giới thiệu nào là bánh của họ, nước giải khát của họ rồi bây giời là bún của họ.
Ý gật đầu:
-Đất nầy giáp ranh với họ mà!
Đưa tay chỉ về rặng núi mờ mờ, cô nói:
-Họ tập trung ở chỗ đó nhiều nhứt.
Ý bỗng hỏi:
-Đố Tư dân ở đây giàu nhờ làm nghề gì?
Tư đám không suy nghĩ:
-Ruộng rẫy.
Ý lắc đầu:
-Nơi đây được mọi người biết đến nhờ có cái miễu thờ bà chúa XỨ nổi tiếng linh thiêng nhứt nước.Chỉ những ai làm nghề bán hàng cho khách đến viếng bà và dân buôn đồ lậu mới ăn nên làm ra. Hầu hết bà con ở đây hầu hết đều làm nghề nông. Phần đông cư dân đều nghèo, một số đủ sống, số người khá khá hơi ít hơn một chút, còn giàu thì hiếm lắm! Chỉ có hai giới đi buôn và ăn theo khách du lịch mới khấm khá thôi hà!
Tư suy nghĩ một lát rồi nói:
-Tui đoán có một giới còn giàu hơn họ.
Ý hỏi:
-Giới gì?
Tư đáp:
-Quan chức bắt hàng lậu.
Ý bật cười. Nụ cười nầy đối với Tư, y như tia nắng đầu tiên hiện ra sau cả tuần mưa bão. Tư bỗng nghe người khỏe re! Chàng nghĩ thầm: "Ông bà mình nói không sai, đúng là một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Chẳng những bổ cho người cười mà cái người nhìn cũng bổ lây, hổng chừng còn bổ hơn luôn!"
Niềm vui ấy không kéo dài được lâu. Lát sau Ý bỗng nghiêm mặt bảo chàng:
-Qua phà đi một đổi nữa là đến nhà ngoại rồi! Tui không thích dắt Tư theo đâu! Để tránh mọi người hiểu lầm, phải giải thích rồi bịa chuyện lôi thôi lắm! Tụi mình nên chia tay ở đây. Tư kiếm nhà nghĩ ngủ đỡ nghe! Sáng mai ra bến xe mua vé về Sài gòn cho sớm.
Tư chới với, nhìn Ý bằng đôi mắt buồn hiu khiến cô động lòng.
Ý cúi đầu để tránh tia mắt ấy, nói tiếp mà không nhìn Tư:
-Tui rất cám ơn Tư bấy lâu đã giúp đỡ. Tư đừng phí thì giờ, đừng nghĩ đến tui nữa, vô ích lắm! Bây giờ tui chỉ muốn quên hết những chuyện không vui để sống một cách bình lặng. Nếu gặp nhau, tui không khỏi nhớ đến cái tai họa ấy, và nó lại khiến tôi nhớ tới cái tội ngộ sát của mình. Lương tâm đâu chịu để yên cho tui sống thanh thản...
Tư ngắt lời:
-Nhưng Ý nào muốn và cố tình làm thế. Sống là phải khoan dung, cho người và cả cho mình. Nếu mỗi lầm lỗi và mọi tội lỗi đều là những vết thương không bao giờ lành, thì trên đời nầy còn có được bao nhiêu người sống sót? Ý cố chấp như vậy chỉ khổ thân thêm. Không riêng Ý mà cả những người thân cũng đâu thể yên tâm. Ba mẹ, anh chị và cả người yêu của Ý ở suối vàng dõi theo cũng đau lòng, khó mà siêu thăng tịnh độ.
Ý lắc đầu:
- Ngày trước, lỡ đạp dẹp lép con kiến, hay đóng cửa kẹp chết con thằn lằn tui còn thấy buồn, thấy ray rức vì có tội...Huống hồ đây lại là tính mạng của một con người, lại là người mà tui yêu quý nhứt. Cái tội nầy chắc tui phải mang, phải trả đến hết cái kiếp nầy cũng chưa đủ.
Tư năn nỉ:
-Tui đâu có đòi Ý thương và sống với tui đâu. Chỉ muốn được săn sóc Ý mà thôi! Nếu Ý không muốn cho cùng vào chào ngoại, thì hãy để tui đưa Ý đi đến nơi, về đến chốn. Phải tận mắt nhìn thấy Ý được người thân đón tiếp tui mới yên tâm. Ý muốn giới thiệu tui là gì cũng được.
Ý lắc đầu:
-Tui không muốn bắt đầu cuộc sống mới của mình bằng những lời nói dối. Cuộc đời của tui, bắt đầu từ giờ phút nầy như cuốn tập đã sang trang. Tui không muốn viết lại những sự kiện, vẽ lại những nhân vật của những trang trước nữa. Dù biết làm như thế nầy rất có lỗi với Tư. Nhưng hãy coi như kiếp trước Tư vay của tui nên kiếp nầy phải trả, nếu không phải thì cho tui thiếu chịu, đến kiếp sau tui sẽ trả cho Tư.
Tư suy nghĩ một lát rồi nói:
-Thôi được rồi, tui sẽ không đi theo Ý nữa, nhưng tui muốn đi hết cuộc hành trình nầy. Kể từ lúc nầy Ý hãy xem như không có tui bên cạnh.
Ý biết Tư bị chạm tự ái, đang định nói thêm vài lời để Tư thông cảm cho mình và bớt thấy tổn thương. Bỗng hai cô gái đang đứng dưới cây trứng cá bên cạnh, cả hai đang chuyện trò rôm rả, chợt giậm chân lia lịa và la bài hải "kiến lửa, kiến lửa", rồi chạy bay đến chỗ Ý. Họ đứng sát vào cô để tránh nắng, khiến cô đành làm thinh tận đến lúc chiếc phà cập bến.
Ý lấy lại chiếc túi treo tòn teng trên cổ Tư rồi xuống phà. Tư không cho đó là cử chỉ xua đuổi. Chàng xem sự im lặng của cô là chấp nhận đề nghị của mình nên theo sát sau lưng.
Bất đầu từ đoạn nầy, con đường bỗng thay đổi cả dung nhan lẫn tính nết của mình. Thay vì đắp mặt bằng lớp nhựa đen, phẳng phiu, trơn láng. Nó phô ra lớp da xù xì cùng thớ đất thịt lở lói màu nâu đỏ với những mảnh xương đá trắng xám to bằng cườm tay. Những vũng nước pha bùn sệt sệt khiến ta liên tưởng đến một bải chiến trường với máu thịt lầy lội cùng các lóng xương, từ thân thể của một người vô ý đạp phải mìn bị bắn tung, nằm rải rác khắp nơi, khắp chốn.
Những cái ổ gà, ổ heo, ổ voi...mọc lềnh khênh, tạo ra vô vàn trở ngại, khiến chiếc xe đò năm chục chỗ ngồi nầy, đang quá mỏi mệt, hết kiên nhẫn nổi, dễ bẳn tính rồi sinh ra cáu gắt. Nó chẳng những khoét sâu thêm mấy cái hố đó mà còn quăng quật hành khách cho đã nư giận.
Người con trai có máu khôi hài, lúc nãy nói về chuyện ngăn mô cách bắc, liền hỏi cô gái ngồi cạnh bằng cái giọng rất hóm hỉnh:
-Cô có biết tại sao người ta gọi mấy người đi xe đò là "hành khách" hông?
Cô gái hỏi lại:
-Tại sao?
Y trả lời tỉnh khô:
-Tại vì ai ngồi trên xe cũng đều bị "hành" hết trọi!
Không riêng vì cô gái mà gần kết mọi người trên xe đều cười. Nổi bực bội đang sinh sôi trong lòng họ, nhờ có nụ cười nên được giảm nhẹ hơn một chút.
Ý ngồi sát cửa sổ, cố tập trung tinh thần để giữ cho cái đầu đứng yên, thế rồi vừa hơi lơ đảng là liền bị va vào khung sắt, trán u một cục liền.
Tư đứng lên bảo cô:
-Ý dời qua đây đi!
Ý lắc đầu đáp:
-Tui ngồi đây cũng được mà, sắp tới rồi. Đổi tới, đổi lui mắc công lắm!
Tư cắt nghĩa:
-Ngồi đây một lát xuống nhanh hơn.
Thế rồi Tư cứ đứng miết. Buộc lòng Ý phải đổi chỗ cho chàng.
Chiếc xe đò dừng lại ở bến chính của thị trấn, nơi có một cây phượng vĩ trổ bông đầy khắp, đỏ rực giống như một bó đuốc đang cháy phừng phừng.
Người lơ xe mở cửa, vài hành khách nôn nả đã đứng xếp hàng đợi sẵn ở cửa xe. Họ vọt ra trước tiên, gương mặt biểu lộ sự nhẹ nhỏm.
Những bạn đường vừa quen, buộc phải bỏ ngang cuộc chuyện trò thú vị, chừng như hãy còn nuối tiếc lắm! Kẻ đi, người ở, bịn rịn chào rồi trao những lời chúc rất hay, rất đẹp. Những câu ấy đều kết thúc bằng hai từ "mạnh giỏi". Thế rồi người thì thò đầu ra cửa xe ngoái nhìn, kẻ đứng bên đường ngó theo và đưa tay vẫy không biết mỏi.
Hành khách nối đuôi nhau xuống xe ào ạt. Mấy người đàn ông ngồi trên yên của chiếc xe đạp đòn giông, hay nằm trên cái rờ mọt phía sau của mấy chiếc xe có tên là "xe lôi", đang đậu sẵn trên bến để chờ khách. Cả thảy đều bật dậy như lò so, lật đật đổ xô đến mời. Người nào nhanh chân hoặc nhanh miệng, đón được khách thì cười tươi rói. Người ôm xe không thì mặt mày tiu nghỉu, trông ỉu xìu như mấy cái bánh bao chiều.
Tư ngỡ đây là bến cuối nên bỗng dưng nghe quặn ruột. Thấy Ý vẫn ngồi yên bèn vui lên một tí. Dù biết chẳng bao lâu nữa sẽ còn lại một mình, nhưng còn gần gũi được chút nào là mừng chút nấy.
Trên xe ngoài họ ra chỉ còn lại khoảng chín, mười người: kẻ nôn nóng, người uể oải...
Một phụ nữ trung niên, tay xách giỏ đệm bước lên xe. Người lơ chặn lại hỏi:
-Dì đi tới đâu?
Bà ta đáp:
-Chợ Vàm, đi tới đó hông?
Anh ta gật đầu. Bà hỏi tiếp:
-Bao nhiêu?
Anh ta xòe năm ngón tay, đưa ra trước mặt, không buồn nói.
Người phụ nữ ngồi xuống ghế xong liền đặt cái giỏ lên cái ghế trống bên cạnh. Bà tháo cây kim tây đang gài miệng túi của chiếc áo mặc bên trong đưa lên miệng cắn. Thọc tay móc từ trong túi, lấy ra gói tiền được bọc trong chiếc khăn tay rồi mở từ từ.
Những tờ tiền giấy, cũ nhiều hơn mới, được xếp rất thứ tự: Lớn nhất nằm chót, nhỏ nhất nằm trên cùng. Bà rút tờ năm đồng đưa cho anh lơ xe rồi gói cái khăn lại cho vào túi, lấy cây kim tây đang được giữ chặt giữa hai hàm răng ra gài miệng túi lại.
Tư nhìn cái động tác tỉ mỉ ấy mà lòng chợt bùi ngùi vì nhớ má mình quá đỗi. Hình như những người phụ nữ, càng lớn tuổi càng gắn bó với tiền bạc, càng thích cất giữ và đếm tiền.
Ý bỗng khều vai chàng một cái. Tư quay lại nhìn, cô chỉ vào cái quần đen bóng lưỡng của người phụ nữ ấy rồi nói thật nhỏ:
-Lãnh Mỹ A đó!
Tư hỏi:
-Sao Ý biết?
Ý đáp với vẻ tự tin:
-Nó đen hơn, bóng hơn, mỏng hơn, mềm mại hơn, mát hơn hết thảy mấy thứ vải khác. Ai mặc vào cũng tăng cảm giác thải mái, tự tin. Nhìn là biết liền!
Bà dì ấy đoán biết cả hai đang nói về đề tài gì, nên cười với họ một cách thân thiện rồi bắt chuyện:
-Cô còn nhỏ mà biết giá trị của thứ nầy là giỏi lắm đó!
Ý cười, cám ơn lời khen rồi hỏi:
-Phụ nữ ở đây còn mặc Mỹ A nhiều như trước hông dì?
Bà lắc đầu:
-Ít lắm cô. Bây giờ muốn mặc cũng không có vì hổng ai nhuộm nữa. Tui mà còn là nhờ mua sẵn để dành cưới vợ cho con trai. Nó tử trận rồi nên không có dâu để cho. Tính để lại con gái mà nó nhứt định không lấy. Nó nói lãnh Mỹ A bây giờ con gái ai mà xài, chỉ có mấy bà già mới dùng thôi. Mặc mà không giống ai, bị bạn bè chộ quê chết!
Ý hỏi, giọng thông cảm:
-Con trai dì mất ở đâu?
Bà đáp, giọng bùi ngùi:
-Ở hạ Lào đó cô!
Ý rơm rớm nước mắt:
-Anh hai của cháu cũng mất ở đó!
Hoàn cảnh bất hạnh giống nhau tạo cho họ một niềm đồng cảm. Bà dì ấy vói tay nắm chặt bàn tay đang đặt trên đùi của Ý rồi hỏi:
-Cô là dân Sài Gòn phải hông?
Ý hỏi lại:
-Sao dì biết?
Dĩ cười:
-Ngó bộ dạng mảnh mai, trắng trẻo của cô là biết liền. Con gái nhà quê suốt ngày xốc vác, ở ngoài đồng từ sáng đến chiều nên chắc da, chắc thịt, đen đúa hơn nhiều.
Rồi chỉ vào Tư bà hỏi:
-Hai người là vợ chồng hay anh em?
Tư vội đính chính:
-Tui cháu mới gặp trên xe thôi, không có quan hệ gì hết!
Bà lật đật xin lỗi rồi giải thích:
-Tại tui thấy cô cậu nói chuyện rù rì coi bộ thân mật nên tưởng...
Tư và Ý không dám nhìn nhau vì ngượng.
Bà vẫn còn tò mò nên hỏi:
-Cô về đây chơi hay đi buôn bán?
Ý đáp:
-Cháu về thăm bà ngoại.
Bà hỏi tiếp:
-Vậy ra má cô là con gái xứ nầy?
Ý lễ phép:
-Dạ phải?
-Còn ba cô?
Ý kiên nhẫn:
-Ba cháu là người Sài Gòn.
Bà gặng:
-Vậy sao gặp được má cô?
Ý giải thích:
-Ba cháu làm việc chung với ông anh cô cậu của má. Cậu dắt ba về quê chơi nên gặp má cháu.
Bà gật gù:
-Vậy chắc cô ở Sài Gòn từ nhỏ hả?
Ý đáp:
-Dạ!
Bà chắc lưỡi:
-Hèn gì coi lịch sự quá!
Bà định hỏi tiếp, cũng may chiếc xe xốc mạnh khiến bà suýt văng khỏi ghế, lo kềm chặt tay vào cái ghế trước mặt mà quên béng đề tài tiếp theo.
Hành khách hồn vía lên mây. Ai cũng lo bám chặt lấy thứ gì cố định ngay tầm tay, có người ôm lấy nhau. Các câu chuyện tạm thời gián đoạn, họ cằn nhằn:
-Đường xá gì mà toàn ao với vũng.
Người lơ xe bỗng hỏi to:
-Sắp tới bến đò đầu cù lao rồi đó! Hồi nãy có người dặn ghé lại, chuẩn bị xuống xe nghe!
Hai cô gái bị kiến lửa cắn khi nãy đồng đáp:
-Tụi tui dặn đó! Ghé giùm đi.
Họ dừng ngang câu chuyện đang nói với anh chàng vui tính, vội từ giã:
-Tụi tui xuống trước nghe! Anh đi mạnh giỏi!
Chàng ta đáp lại:
-Hai cô về nhà mạnh giỏi! Hổng chừng mai mốt tui ghé thăm đó!
Cả hai cùng hỏi:
-Thiệt hông?
Chàng ta nghiêm giọng:
-Thiệt chớ! Sợ tới chừng đó hai cô làm mặt lạ!
Họ lại kêu lên một lượt:
-Hổng có đâu!
Chiếc xe dừng lại trước một con đường đất, bề ngang chừng một thước, chạy thẳng đuột giữa hai miếng đất trồng trầu. Tấm bảng nhỏ bằng ván kẻ hai chữ "Bến đò " bằng sơn trắng, treo hơi khuất, chỉ những ai đã quen hoặc người ở xa cố tìm mới thấy.
Hai cô gái tay túi, tay giỏ lỉnh kỉnh bước xuống. Họ không đi ngay mà đứng nán lại, vẫy tay mãi miết với anh chàng vui tính.
Chàng ta ngoái đầu, hét to bằng cái giọng cà rỡn:
-Nhớ bắt gà nhốt sẵn nghe!
Kể từ lúc nầy, chiếc xe đò cứ chạy thêm chừng vài cây số thì dừng lại cho khách xuống. Nó nhẹ dần còn lòng Tư thì mỗi lúc một nặng.
Trên xe giờ chỉ còn lại bốn người, ba người họ và một ông lão mặc bộ đồ bà ba màu nâu.
Ông lão ấy là người cao tuổi nhất trên xe. Ông bới tóc và trông rất đẹp lão. Đến lượt ông đứng lên đi ra cửa, ôm bị đồ và xách một túi bánh mì.
Ông nói với bác tài:
-Ngừng giùm tui ngay cái cột cây số đàng trước nghe!
Túi bánh mì ban sáng to đùng, chứa cả chục ổ bánh, cái nào cũng phồng to. Bây giờ chúng đều xẹp lép, bèo nhèo như mấy cây dưa cải.
Ông lão nhìn túi bánh rồi nói một cách ngán ngẩm:
-Hồi trước bánh mì Sài Gòn ngon hạng nhứt, để tới chiều ăn cũng còn giòn. Bây giờ họ xài bột nổi nhiều quá mạng! Xách về mà mắc cỡ với mấy đứa cháu.
Bà dì bồi thêm:
-Đâu riêng gì bánh, cái thứ gì bây giờ cũng tệ. Xà bông thì không có bọt, ba cái đồ bằng nhựa thì cứng cồng mau bể, vải sồ cũng xấu hơn hồi trước nhiều.
Chiếc xe thắng lại trước khối đá dẹp dựng sát bên lề. Một bầy con nít đang chơi trên cái sân gần đó đều dừng tay lại để ngó. Chúng thấy ông lão bước xuống thì chạy túa lại, ráp nhau kêu inh ỏi:
-Ông ngoại đi Sài Gòn về...ê...ê...
-Ông nội đi Sài Gòn về...
-Ông Út về...
Ông lão cười sung sướng, đưa cái bị đồ cho đứa lớn nhứt cầm giùm rồi mở túi bánh mì, lấy ra từng ổ, bẻ và chia cho mỗi đứa một khúc.
Tư bỗng cảm thấy tủi thân. Chàng không có được cái may mắn như bọn trẻ ấy. Không có cả ông ngoại, ông nội lẫn ông hàng xóm, chưa được ăn miếng ké miếng bánh thơm thảo như vậy một lần nào!
Chiếc xe chạy lên cái dốc cao. Tư giật thót người khi nghe Ý bảo anh chàng phụ xế:
-Qua cầu chừng một đỗi, tới gần bến đò anh nói tài xế dừng lại giùm tui.
Cô bỗng nắm chặt tay Tư, giữ lại vài giây rồi buông ra. Cô không nói với anh câu nào, cũng quên chào cả bà dì mới cùng trò chuyện, lầm lũi xách túi đồ đi ra cửa xe đứng đợi.
Chiếc xe dừng lại và Ý bước xuống. Hai hàm răng của Tư cắn chặt vào nhau, chàng ngoái đầu lại nhìn. Hoàn toàn tương phản với ông lão ban nãy, chẳng có một đứa bé hay người lớn nào chạy ra đón Ý. Cô không nhìn theo xe, không vẫy tay với Tư, ôm túi đồ rẻ vào con đường nhỏ cạnh cây xoài.
Tư cố lắng tai, chỉ an lòng khi nghe tiếng kêu thất thanh của một cô gái nhỏ:
-Chị Út về, nội ơi!