- 6 -
Anh chàng phụ xế thấy Tư không xuống xe theo Ý, lấy làm ngạc nhiên nên hỏi:
-Anh xuống đâu?
Tư lúng túng đáp:
-Bến cuối.
Người phụ nữ nãy giờ rất muốn gợi chuyện với Tư, nhưng thấy chàng mang cái khối u, cục buồn lớn quá nên ngại. Cho dù bà rất muốn ra tay bóc tách nhưng sợ mình không đủ khả năng, mổ xẻ lạng quạng chẳng những không giúp bệnh nhân khá hơn mà tử vong thì khổ.
Trên xe chỉ còn chỉ còn mỗi hai người, họ không nói chuyện với nhau thì làm cách gì cho đường ngắn lại? Thấy Tư chịu mở miệng trả lời anh lơ xe, bà mừng lắm, bắt trớn hỏi theo:
-Cháu cũng ghé chợ Vàm hả?
Tư ráng "dạ" một tiếng cho xong. Thầm mong không bị hỏi nữa. Vô ích!
Bà tấn công tiếp:
-Chắc cháu có bà con ở đó hả?
Tư lắc đầu:
-Dạ không?
Bà ngạc nhiên:
-Vậy tối nay cháu ngủ ở đâu?
Tư hỏi lại:
-Bộ ở đó không có nhà nghĩ sao dì?
Bà cười:
-Ở mấy chỗ nầy hiếm khi có khách du lịch ghé lắm! Đâu ai dám bỏ tiền xây nhà nghỉ.
Gương mặt Tư đang trĩu nặng lại càng u ám. Ông trời chừng như cũng mũi lòng trước cái cảnh tứ cố vô thân của chàng nên rơi nước mắt. Ban đầu chỉ khóc sơ sơ rồi dần dần có bao nhiêu đem ra trút hết. Mặt mũi ổng tối sầm, người tài xế phải bật đèn lên mới thấy rõ đường. Y cằn nhằn:
-Thiệt là bất nhơn! Còn có ba, bốn cây số là tới bến mà còn bị mắc mưa.
Người phụ nữ nói một cách quả quyết để an ủi mình lẫn người:
-Mưa ào ào như vầy chừng chút xíu là ổng hết nước, tạnh liền hà! Đừng có lo!
Ông trời thấy bà qua mặt mình, nói bằng cái giọng làm tàng nên ghét. Ổng cố làm bà bẽ mặt chơi nên càng lúc càng cho mưa nặng hột.
Chiếc xe đò mò mẫm từng bước, hết trồi lên lại sụp xuống từng vũng nước một. Tốc độ còn thua người đi bộ nên khi đến nơi thì cái bến đã vắng tanh, chẳng còn một bóng người và chiếc xe nào. Hàng quán hai bên đường cùng đóng kín cửa, chỉ để lọt ánh đèn dầu leo lét qua khe.
Bác tài xế sợ họ ở miết trên xe chờ mưa tạnh nên không tắt máy mà hối anh lơ:
-Mở cửa cho họ xuống xe lẹ đi.
Người phụ xế tỏ vẻ ái ngại. Y chỉ tay vào mái hiên gần đấy bảo:
-Dì với anh vô đó đụt đỡ, chờ mưa tạnh hãy đi.
Bà ta thở dài than:
-Không có áo mưa làm sao mà về đây?
Tư lấy cái áo mưa trong túi xách, mở bung ra rồi nói:
-Cái áo mưa nầy lớn lắm, để cháu đưa dì về.
Bà không khách sáo, nhận liền:
-May mà gặp cháu, bằng không giầm đám mưa nầy về chắc cảm nặng quá!
Tư giành cái giỏ đệm trên tay của bà, nói:
-Dì để con xách đặng đi cho nhanh.
Bà cảm động, nghĩ bụng: "Cái cậu nầy tướng tá, tánh tình gì cũng được hết. Vậy mà bị cô gái kia cho leo cây thiệt là tội nghiệp hết sức"
Chợt nghĩ đến đứa con gái của mình, bà bỗng nhen nhúm một tia hy vọng, thầm nghĩ: "Coi bộ cậu ta đang lo không có chỗ qua đêm. Mình phải mời cẩu nghĩ lại cho bằng được. Mặt mũi y sáng sủa quá, chắc chắn là dân cầm viết. Biết đâu chuyện nầy là do ông tơ bà nguyệt xui khiến. Con gái mình mà lấy chồng ở Sài gòn, lại là dân có học, lên đó sống thì khỏe cái thân, còn gia đình mình cũng được hãnh diện với bà con!”
Từ ngày nhà nước áp dụng chính sách giản dân, khuyến khích dân thành phố hồi hương hoặc đi kinh tế mới thì lạ thay, phản ứng của bà con lại trái ngược. Họ lại càng khao khát được sống ở Sài Gòn. Cho nên không hiếm những cô gái lấy chồng chỉ vì cái địa chỉ.
Nhờ mơ đến viễn cảnh tươi sáng đó mà con đường về nhà, đối với bà chỉ còn có một nửa. Đến căn nhà vách tường, mái tole bà bảo Tư:
-Tới rồi đó cậu!
Cả hai đứng lại bên cái cổng đóng kín. Bà không gọi con mà vói tay mở chốt rồi mời:
-Cậu vô nhà ngồi nghỉ chưn uống nước.
Tư định từ chối, nhưng rồi nghĩ: "Biết đi đâu bây giờ, thôi cứ nghĩ tạm ở đây rồi tính tiếp", nên riu ríu đi theo.
Cửa nhà chỉ khép sơ. Bà vừa đẩy cửa vừa gọi:
-Đẹp ơi! Má về rồi nè!
Một cô gái trẻ măng, mặc bộ đồ vải bông, cổ xây, tay dún, từ trong bếp chạy ra, tay còn cầm miếng xơ dừa rửa chén. Cô ta không thấy Tư nên nói một thôi:
-Sao má về trễ dữ vậy? Tưởng dì Năm cầm má ở chơi nên con ăn cơm trước...
Cổ vừa nói tới đó liền nhận ra sau lưng má mình còn một người khác nữa, lại là đàn ông con trai, nên tự nhiên đăm ra mắc cỡ, ngưng ngang.
Bà bèn giới thiệu:
-Con gái Út của tui đó.
Rồi quay ngang hỏi chàng:
-Nãy giờ nói chuyện mà quên hỏi, cháu tên gì? Thứ mấy?
Tư trả lời:
-Cháu tên Tư, thứ hai?
Bà hơi ngạc nhiên định hỏi"sao tên Tư mà lại thứ hai?" nhưng thôi, bảo chàng:
-Dì thứ mười một lận, kêu dì một cho tiện.
Rồi hỏi cô con gái, đang đứng thập thò ở cửa buồng:
-Bữa nay con nấu món gì?
Cô con gái đáp:
-Thì làm y như má biểu đó, canh khoai ngọt với tép rang, dưa mắm.
Bà hỏi tiếp:
-Cơm với đồ ăn còn đủ cho hai người ăn hông?
Cô ta ấp úng:
-Má vô mà coi, con hổng biết nữa!
Tư vội nói:
-Cháu chỉ xin dì cho nghĩ tạm một lát rồi đi, đừng cơm nước...
Bà ngắt ngang:
-Trời mưa, tối hù cháu đi đâu bây giờ? Ở đây nghỉ ngơi, ăn ba hột cơm rồi nằm nhắm mắt dưỡng sức vài tiếng đồng hồ, mười hai giờ khuya là lên xe rồi!
Tư ngạc nhiên:
-Sao xe chạy sớm dữ vậy dì?
Bà hạ giọng:
-Họ đi giờ đó để trốn trạm mà!
Rồi bà chỉ tay vào cái lu da lươn đặt ngoài hiên bảo:
-Cháu ra đó múc nước rửa cái mặt, cái cổ đi, cho bớt bụi.
Bà nói tiếp bằng giọng tiếc rẻ:
-Phải còn sớm xuống sông lội vài vòng cho khỏe, về xứ nầy mà hổng được tắm sông thiệt là uổng!
Mưa đã ngớt hột, chừng như sắp tạnh. Ông trời khoái chơi cắc cớ, họ đã về tới nhà rồi nên ổng cũng hết hứng cái trò ngậm nước trong miệng mà phun nữa.
Tư bước ra hiên, mở nắp lu làm bằng nắp nồi gang loại lớn nhứt, lấy cái ca nhựa to có cán múc đầy một ca rồi rửa mặt mũi, hai lỗ tai và cổ.
Gáo nước mát chẳng những lấy đi lớp bụi đường trên mặt, còn làm vơi bớt nỗi phiền muộn trong lòng. Lau mặt thật khô xong, Tư không vào nhà, thấy cái võng được vắt giữa mấy song cửa sổ, chàng lấy xuống rồi leo lên nằm. Võng làm từ những bao cát nối lại, nằm khá êm.
Tư duỗi người trên võng, bỏ một chân xuống đất để đẩy cho nó đu đưa. Chàng rút chân lên, nhắm mắt lại, cảm giác như thân thể đang bềnh bồng. Chàng chợt khám phá nằm võng rất thú vị, nghĩ thầm "về nhà mình phải đi tìm mua một cái mới được".
Đang thiu thỉu chợt nghe đầu võng rung rung, Tư bèn ngước mắt nhìn lên. Cô gái đang đứng ngay đầu võng, rụt tay lại, e lệ nói:
-Má tui biểu ra mời anh vô ăn cơm.
Nói xong cổ lật đật đi liền không kịp cho tiếng cám ơn của chàng lọt vào tai.
Cái mâm nhôm đã được đặt trên bàn dài giữa phòng khách. Dì Một kéo ghế mời chàng ngồi. Không chờ Tư kịp ngồi xuống dì đã đưa chén cơm đầy vun tận tay chàng.
Dì nói như xin lỗi:
-Cơm nguội ngắt rồi, cháu chan canh vô cho đễ nuốt.
Tư để ý thấy giữa mâm có dĩa trứng vịt chiên. Thức ăn mỗi thứ một ít đựng trong mấy cái dĩa kiểu nho nhỏ, xinh xinh. Chắc dì sợ thiếu nên sai con gái làm thêm món trứng.
Món canh mà cô gái gọi là khoai ngọt đó, ăn giống hệt như canh khoai tím của người Sài gòn, có điều nó màu trắng như mỡ chứ không tím rịm, bỏ hành chớ không nêm rau om, ngò gai như má chàng. Món tép rang với những con bé li ti được ngắt bỏ râu và chân chỉ giữ lại cái đầu, một dĩa nhỏ như thế cũng có đến mấy trăm con. Nghĩ đến việc cô gái phải ngồi lặt bằng tay, hay lấy kéo cắt, rị mọ từng con mà Tư thấy tội nghiệp cho nàng hết hức!
Canh khoai ăn với mấy món tép rang, dưa mắm, cá muối chiên...rất hợp. Từ sáng giờ chỉ ăn chuối cầm hơi, nên thấy cơm là bao tử của chàng liền rọt rẹt.
Tư khoái món dưa mắm nhứt! Nhớ Ý nói quê cô nỗi tiếng nhất là món nầy, Tư nghiệm ra rất đúng. Chàng ước chi được ăn mấy món có chữ mắm như mắm chưng, mắm kho, mắm chiên... do chính tay cô nấu.
Dì Một ăn cầm hơi, nhường cơm đãi khách. Dì canh chừng Tư vừa và hết chén cơm, chưa kịp buông đũa là giựt cái chén trên tay chàng bới thêm liền.
Cô gái hình như vẫn còn núp trong buồng theo dõi. Họ vừa ăn xong cô mang bình trà ra rồi dẹp mâm chén. Lần nầy tiếng "cám ơn" của Tư đã được cô tiếp nhận và đáp lai bằng chữ "không có chi" nhỏ xíu. Cô gái vừa nói vừa cúi gập cái cổ để giấu nụ cười bẽn lẽn, rồi bưng mâm vào bếp. Tư nhìn theo, chàng bỗng chới với khi nhận ra trên ót cô là cây kẹp chiếc lá màu tím của Ý!
Tư cho tay vào túi áo để kiểm tra: Cái túi trống không! Chàng chợt nhớ ra, ban nãy lúc cời áo mưa hình như có cái gì rơi nhẹ trên chân, vì mệt quá nên chàng chẳng để ý. Chao ôi! Một phút lơ là, ngàn năm ôm hận! Tư muốn bức tóc, muốn tự thoi mình một cái cho hả giận.
Hai chén cơm vừa ăn bị cái lo, cái buồn, cái bực nầy đẩy trôi mất biệt. Tư nghiến răng thầm trách mình sao vô ý quá. Uổng cái công cầu xin chúa cho Ý không nhớ ra cây kẹp mà đòi lại. Chàng moi óc cố tìm cách lấy lại, vận dụng toàn bộ tỷ tỷ tế bào thần kinh nên chẳng để ý dì Một đang nói gì.
Gương mặt đờ đẫn ấy được bà cho là do mệt mỏi quá sức nên dẹp ngang cái ý định khai thác thêm về gia thế, công ăn việc làm của chàng. Dì rót ly trà đưa cho và bảo:
-Cháu uống ly trà cho ấm bụng, ra võng nằm nghĩ đi. Ráng chợp mắt được chút nào hay chút nấy. Lát nữa xe tới dì gọi dậy giùm cho.
Lúc nầy Tư mới nghe ra, chàng nói:
-Cháu xin lỗi đã làm phiền dì, khiến dì với cô Út bận bịu...
Dì Một cười:
-Có gì đâu mà phiền? Mai mốt tui có việc xuống Sài Gòn, cháu còn bận gấp mấy lần hơn nữa đó!
Tư hấp tấp mời một cách chân thành:
-Dạ dì rãnh rổi đi Sài gòn chơi một chuyến. Ghé nhà cháu nghĩ tiện lắm. Cháu ở có một mình hà!
Dì Một ra vẻ ái ngại:
-Bộ người thân của cháu ở xa hết sao?
Tư cười gượng:
-Cháu mới mồ côi năm ngoái.
Dì Một vừa mừng vừa thương, hỏi tiếp:
-Vậy rồi chuyện làm, chuyện ăn ai lo cho cháu?
Tư đáp qua loa:
-Cháu tự lo được, lớn rồi mà!
Thấy hỏi thêm nữa không tiện, dì nói:
-Tội nghiệp dữ hông! Thôi, cháu nghĩ lưng, ráng mà ngủ đi cháu.
Tư còn bụng dạ nào mà ngủ. Mấy lần chàng muốn nói thiệt với dì Một xin lại cây kẹp mà không dám. Chàng chép miệng: "Cơm của người ta còn giắt kẽ răng, mới cám ơn lia lịa tức thì, vậy mà có cây kẹp cũng trở mặt mà đòi, coi làm sao được?". Rồi chàng lại nghĩ: "Hay là mình nói trực tiếp với cô ÚT, xin lỗi cổ trước rồi xin lại cây kẹp.
Kể từ lúc đó Tư cứ nhìn theo Út Đẹp hoài. Chàng rình chờ cơ hội để nói chuyện với cô, đồng thời cầu xin chúa lòng lành cho cây kẹp tuột khỏi mái tóc mà cô chẳng hay.
Cô gái hình như cũng cảm nhận được mình đang bị nhìn lén nên đâm ra lúng túng. Cô nghe máu chạy rần rần trên hai gò má và lòng xao xuyến quá! Cô bỗng quay lại nhìn Tư bằng cái đuôi của hai cả con mắt.
Cái nhìn như ngọn đèn xanh ở ngã tư ấy làm Tư bối rối. Câu: "Cô Út làm ơn cho tui xin lại cây kẹp" mà chàng ngậm trong miệng nãy giờ, tan như nước đá. Chàng biết cô đang đợi chờ một điều khác hẳn và câu nói đó sẽ làm nàng hết sức tổn thương!
Dì Một đem ra cho Tư một cái mền. Vừa thấy bóng dì, chàng liền nằm im nhắm mắt. Dì ngỡ Tư ngủ nên đắp cho chàng, cẩn thận gài mép kỹ mền sát vào người Tư, làm chàng bồi hồi cảm động.
Dì bỏ vào phòng, Tư nghe tiếng chõng kêu cọt kẹt và tiếng dì dặn dò cô con gái:
-Má có ngủ quên thì con ráng thức canh xe nghe!
Cô gái đáp:
-Để con! Má cứ ngủ đi.
Tư nghe tiếng "tách" nhỏ, chắc cô tháo kẹp ra để đặt đầu xuống gối. Chàng thở dài, vậy là không còn cơ hội để lấy lại cây kẹp nữa rồi!
Mấy tiếng đồng hồ sau, dì Một lay nhẹ chân Tư và nói:
-Cháu dậy đi làm vệ sinh. Xe sắp tới rồi để dì ra đường ngồi đón.
Dì vừa bước chân đi là Tư vén tấm màn treo ngang cửa, bước vô buồng liền. Cái mùng lưới thưa cho thấy cây kẹp đang nằm kế chiếc gối mà út Đẹp đang kê dưới đầu. Tư rón rén bước tới, tim nhảy tưng tưng như muốn vọt ra ngoài. Chàng vén nhẹ mùng, thò mỗi bàn tay vào để cầm cây kẹp rồi bỏ chạy ra ngoài liền. Tư chỉ kịp xách theo túi đồ, chẳng ngó ngàng đến cái áo mưa đang treo trên cánh cửa!
Út Đẹp đâu đã ngủ. Cô vẫn thao thức từ đầu hôm cho tới lúc ấy. Khi nghe tiếng chân Tư đi đến cửa buồng cô vội nhắm khít rịt hai con mắt.
Tư chỉ tập trung tia nhìn vào mỗi cây kẹp nên đâu thấy gương mặt của cô đang căng thẳng, đâu nghe tiếng tim của cô đang đập rầm rầm. Nếu bình tỉnh hơn, quan sát kỹ chắc chàng đã co giò bỏ chạy.
Cử chỉ liều mạng của Tư lại khiến Út Đẹp củng cố thêm niềm tin của mình, cho rằng Tư muốn mang cây kẹp theo về để làm kỷ niệm. Lòng cô càng xốn xang, giấc mơ trong cô càng bay cao vòi vọi.
Cũng phải thôi, có cô gái nào mới mười chín tuổi, có chút nhan sắc, lại không tin rằng cuộc đời đang cống hiến cho mình những thứ tốt nhất, đẹp nhất?
Dì Một thấy Tư đi như bị ma đuổi thì rầy:
-Từ từ, làm gì mà sợ trễ xe dữ vậy?
Tư còn đang thở dồn dập nên không trả lời nổi chỉ mĩm cười đáp lại.
Nhìn cái áo sơ mi phong phanh trên người chàng, dì quở:
-Mặc như vầy đi xe đêm chịu không nổi đâu! Tròng một cái áo vô thêm kẻo cảm.
Tư vâng lời, liền mở túi, lựa cái áo sơ mi dầy nhứt ra mặc vào, tiện tay nhét cây kẹp vào đó luôn cho nó khỏi bỏ trốn thêm một lần nào nữa.
Dì Một kéo từng ống tay của cái áo sơ mi bên trong xuống cho thẳng thớm giúp chàng. Tư lại nghe lòng nao nao. Lâu lắm rồi, từ ngày má mất, Tư mới có lại cái cảm giác sung sướng vì được chăm sóc như thế nầy. Chàng nghe lòng mình ray rức quá, linh cảm rồi đây lại làm cho cả hai má con dì thất vọng.
Hai vệt đèn pha cùng tiếng xe từ xa vọng đến. Dì Một đưa tay vẫy liền khi nó còn cách họ đến mấy chục thước. Vẫn là chiếc xe hôm qua. Vẫn người lơ và chắc cũng bác tài khó tính đó. Tư bỗng cảm thấy lo âu, nghi ngờ tính hiệu quả, an toàn của công việc khi họ không được nghĩ ngơi đúng mức mà phải làm liền tù tì như vậy!
Tư buông tay dì Một ra rồi nói:
-Thôi con đi, cám ơn dì và cô Út nhiều lắm! Rảnh việc dì lên Sài gòn một chuyến cho biết nhà con. Dì nhớ giữ cái địa chỉ con đưa, đến bến xe đọc cho mấy chú chạy xe ôm chở tới chỗ. Dì nhớ lựa người lớn tuổi để đi cho an toàn, mấy người trẻ họ lạng, lách dữ lắm!
Dì Một không đáp, chỉ gật đầu và vẫy vẫy cả hai bàn tay.
Tư ngoái lại nhìn, ánh đèn pha rọi thẳng về phía trước, dì Một bị bỏ lại phía sau, bóng tối mênh mông của đêm đã nuốt chửng, chỉ để lại một khối lờ mờ. Nghĩ đến cảnh dì lủi thủi đi trong con đường tối hù, Tư chợt nghe bùi ngùi trong dạ. Mảnh đất, con người ở đây, chàng mới chỉ biết trong chốc lát mà đã kịp chôn vào đó hơn phân nửa tâm hồn.
Con đường nầy trông hoang vắng quá! Nó không đi qua bến xe với hai dãy nhà san sát đầy hàng quán lúc trước, nơi họ đã thả chàng xuống.
Tư hỏi người lơ xe:
-Chiều hôm qua xe đâu có chạy ngang đây?
Anh ta ngập ngừng đáp:
-Đây là đường tắt, đi gần hơn.
Thấy câu trả lời không chút tự nhiên của y, Tư đoán là họ đi theo lối nầy để trốn trạm.
Đây có lẽ là con lộ cũ, nó khá nguy hiểm vì rất nhỏ và chạy sát bờ sông. Bên tả lưa thưa vài căn nhà nằm khuất trong các vườn cây ăn trái. Bên hữu là bờ dốc lở với tiếng nước sông chảy xiết nghe sát bên tai. Thỉnh thoảng một hòn đá nhảy vọt lên cố né cái bánh xe, để rồi rơi tỏm xuống sông làm Tư nổi da gà.
Người tài xế bỗng thắng gấp trước một nhánh cây ngã nằm vắt ngang con lộ. Ông hỏi anh lơ:
-Kéo nhánh cây vô một mình nổi hông?
Anh ta trả lời:
-Phải làm thử mới biết.
Bác tài vẫn ngồi trước tay lái, tuy hỏi vậy nhưng ông không thèm xuống tiếp tay. Trên xe chỉ còn có Tư và người lơ là đàn ông nên chàng phải ra tay nghĩa hiệp. Ba người phụ nữ trên xe hình như là dân buôn đồ lậu. Họ nghe vậy nên cùng ráp nhau xuống kéo phụ.
Nhánh xoài ướt sũng nước mưa nên khá nặng. Nó chưa chịu lìa khỏi cây, năm người hì hục mãi mới kéo cho nó rớt ra. Họ hè nhau lôi đến sát bờ sông rồi đẩy xuống đó.
Vừa leo lên xe xong cô gái nhỏ tuổi nhứt liền chắt lưỡi:
-Mới đi có một đoạn là bị cản đường rồi, không biết có điềm gì không đây?
Người đàn bà lớn tuổi rầy:
-Cái miệng mầy ăn mắm ăn muối, nói tầm bậy tầm bạ không hà. Mùa nầy cây gãy nhánh là chuyện thường, điềm điếc cái giống gì!
Rồi bà hỏi Tư:
-Cậu có cái hột quẹt hông cho tui mượn?
Tư lắc đầu:
-Dạ cháu không biết hút thuốc.
Người lơ xe móc trong túi ra đưa, nói giọng trách móc:
-Biết tui có mà không thèm mượn! Sao mà giận dai dữ vậy?
Bà ta ngúng nguẫy:
-Không thèm!
Tư ngạc nhiên, họ rất chênh lệch tuổi tác mà nói chuyện thân mật y như bồ bịch.
Y ta dúi vào tay bà rồi cười mơn. Bà ta cầm, liếc xéo y một cái rồi nói:
-Thấy mà ghét!
Rồi bật lửa lên quơ vòng vòng miệng lẩm bẩm như đọc thần chú. Thấy Tư nhìn chầm chập, cô gái nhỏ tuổi nhứt ban nãy, giải thích:
-Đốt phong long.
Cô ta lại hỏi:
-Anh mới đi lần đầu hả?
Tư gật đầu, rồi sợ vô lễ nên hỏi lại:
-Sao cô biết?
Cổ không trả lời mà đưa cho chàng một cây thuốc lá "555", giọng ngọt xớt:
-Anh làm ơn giấu cái nầy vô túi giùm em.
Tư đắn đo, chàng đoán đây là hàng lậu, định từ chối thì cô ta trấn an:
-Anh đừng lo! Họ coi theo mặt mà xét thôi hà! Nhìn là biết anh là dân đi học nên họ không thèm đụng tới đâu. Chỉ có mấy người như tụi em mới bị rà tới nơi, tới chốn.
Bất đắc dĩ Tư phải cho nó vào đáy túi. Chàng có cảm giác như mình ôm quả mìn trong tay, hay đang bị một thanh gươm bén ngót treo lơ lững trên đầu.
Mỗi lần xe sắp ghé trạm, anh lơ gọi to:
-Đóng cửa sổ rồi xuống xe nghe bà con!
Hành khách bị đuổi xuống xe hết ráo. Mấy ông công an, tay cầm dùi cui, nhìn chăm chăm vào mặt từng người, hể thấy ai khả nghi là bắt mở túi ra, đưa cả tay và mắt vào lục lọi.
Đúng như lời cô gái nói, họ cho Tư đi qua dễ dàng. Tư tự hỏi, sao họ có vẻ rất chuyên nghiệp mà không nhận ra chàng đang mang nét mặt của một tên tội phạm.
Qua khỏi cái trạm sau cùng, cô gái đi gom thuốc lại. Không riêng gì Tư, có đến mấy người trên xe cũng được cô sử dụng, họ toàn là đàn ông! Cũng phải thôi! Dân đi buôn sành sỏi lắm mà. Họ biết chẳng có đấng trượng phu nào đủ bản lãnh để thốt lời từ chối trước các cô gái trẻ, nhứt là những nàng khéo nói và xinh đến vậy!
Về đến Sài Gòn trời đã tối hù. Tư ghé quán cơm của dì Ba trước rồi mới vô nhà.
Vừa ngồi xuống là kêu liền:
-Cho một dĩa cơm với thịt kho hột vịt đi, bà chủ ơi!
Dì Ba thấy Tư là mừng ra mặt, hỏi liền:
-Đi đâu mà tới bữa nay mới về?
Tư đáp:
-Con về quê!
Dì hỏi tiếp:
-Ở đâu?
-An Giang.
Dì chắt lưỡi:
-Xa mút tí tè! Có bị kẹt bắc hông?
Tư gật đầu:
-Dạ có!
Rồi để dì không hỏi nữa, chàng nhắc khéo:
-Con đói bụng dữ lắm rồi đó dì!
Dì ba nghe vậy thì lật đật lấy cái dĩa to nhất lên cầm trên tay, mở nắp nồi cơm liền. Dì chịu khó nạy miếng cơm cháy nằm sát dưới đáy rồi úp lên dĩa. Dì rưới nước thịt cho đều, cắt làm đôi cái trứng vịt theo chiều dọc rồi gắp hai miếng thịt kho, mỗi miếng vuông vức bằng ba ngón tay, sắp hết lên trên mặt của dĩa cơm.
Dì hỏi:
-Ăn cãi chua, dưa giá, canh hay đồ xào?
Tư đáp ngay không nghĩ ngợi:
-Cãi chua dưa giá.
Hai tay bưng hai cái dĩa, một lớn, một nhỏ, dì đặt trước mặt Tư. Liếc mắt ngó qua, ngó lại...Thấy không có ai giỏng tai nghe ngóng mới cúi người nói sát lỗ tai chàng:
-Cả xóm họ đồn rần rần, nói cháu và cô Ý đi vượt biên với nhau rồi!
Tư giựt nãy mình:
-Thiệt sao dì?
Dì gật đầu:
-Ai biểu cháu đi mà không xin giấy tạm vắng.
Tư thở dài:
-Cháu quên phức.
Rồi phân trần:
-Bị gấp quá!
Dì nói tiếp, giọng còn nhỏ hơn:
-Cháu mà về trễ dám bị tịch biên nhà lắm!
Tư nghe dì nói mà sợ đến no ngang. Dĩa cơm quá hấp dẫn mà ăn hết muốn vô!
Vừa mở cửa bước vào nhà Tư đã thấy hai cái bao thư nhét vào hai bên cánh cửa chính. Một của bưu điện và một của công an phường.
Tư mở cái thư của phường ra đọc trước. Họ hẹn chàng sáng mai phải có mặt ở trụ sở công an. Lá thư kia mời ra đúng cái bưu điện hôm nọ để nhận bưu phẩm.
Tư hoang mang đến tột độ, không biết có bị chính quyền làm khó hay không? Nếu nói thật ắt liên quan đến Ý, còn bằng không phải tìm cớ gì cho trôi đây? Trước giờ chàng đâu biết bởi đâu cần nói dối. Bây giờ buộc phải làm mà làm không quen, không chuyên nghiệp, chưa chắc được tin. Có khi còn bị nghi ngờ, tra hỏi tới lui lại sinh thêm rắc rối.
Lại còn gói quà ở bưu điện nữa! Tư moi móc nghĩ hoài mà không ra ai đã gửi quà cho mình? Những người bạn của Tư ở trong cái xóm nầy đều nghèo rớt mồng tơi. Mấy đứa bỏ xóm đi xa, chúng đều theo cha mẹ đi kinh tế mới, cơm còn không đủ ăn nói gì đến chuyện gửi quà.
Những đứa bạn học thì họa may, nhưng cũng không chắc. Bấy lâu nay không liên hệ thư từ thì mắc gì lại gửi quà đột ngột, mà lại không viết thư báo trước.
Đêm đó Tư lại trằn trọc, ngủ không đủ giấc bởi vừa lo, vừa nhớ, vừa buồn đủ thứ. Một lần nữa chàng lại làm lành với chúa, cầu mong ngài hãy xí xóa chuyện cũ mà quan phòng đến mình.
Sáng hôm sau, Tư ăn mặc tươm tất rồi đến công an trình diện trước. Người chàng gặp đầu tiên là Tân, anh chàng công an khu vực.
Vừa thấy chàng là y hỏi chặn đầu liền:
-Sao? Mưa bão quá nên đi chưa được phải không? Chắc cô Ý cũng về với chung với anh hả?
Tư đáp:
-Tui đi về quê chớ đâu có ra biển mà sợ mưa, sợ bão.
Tân hỏi tiếp:
-Tỉnh nào?
Tư đáp:
-An giang!
Tân quát:
-Đừng có xạo! Nguyên quán, trú quán của anh đều ghi ở Sài gòn rành rành. Lấy đâu cái tỉnh đó mà bịa ra ngon lành quá vậy cha nội!
Tư đáp:
-Đó là quê ngoại của cô Ý chớ đâu phải của tui.
Rồi chàng kể với Tân là Ý bị bịnh nặng phải đưa đi bệnh viện. Vừa được xuất viện là đòi về quê để được gia đình săn sóc vì không muốn làm phiền bà chủ nhà và mình.
Kể xong Tư nói:
-Cổ đòi đi liền nên tui không kịp xin anh cái giấy phép đi đường với tạm vắng. Anh không tin cứ tới bệnh viện rồi về An Giang kiểm tra coi cổ có thiệt ở đó hông?
Tân hỏi:
-Địa chỉ dưới quê như thế nào? Anh đọc cho tui ghi lại!
Tư thở dài:
-Nói chắc anh không tin, chuyện của hai đứa tui gia đình không chấp nhận nên tui đưa cổ đến nơi rồi ngồi trên xe mà không vô nhà. Tui chỉ biết cổ ghé ở chỗ...
Tân hỏi tiếp:
-Còn anh?
-Tui được một hành khách trên xe mời về nhà nghĩ chân, mấy tiếng đồng hồ sau là lên chiếc xe vừa chở mình xuống đó để về Sài Gòn liền.
Tân ghi những lời khai của Tư vào một tờ giấy, đưa chàng đọc lại rồi bắt ký tên vào một góc. Chờ Tư ký tên xong, y thu lại rồi cũng ký vào phía đối diện.
Tư nói:
-Nếu anh không còn hỏi gì nữa thì cho tui về để ra bưu điện nhận bưu phẩm.
Tân nhìn chàng bằng ánh mắt nghi ngờ rồi nói:
-Thôi được rồi, anh cứ đi về, nhưng trong thời gian nầy không được đi xa thành phố. Báo cho anh biết trước là có thể mỗi ngày tui sẽ ghé kiểm tra đột xuất đó!
Tư chưa kịp đứng lên thì nghe Tân nói tiếp:
-Anh viết bản tự kiểm, đưa cho tổ trưởng dân phố ký tên rồi đem lại đây nộp cho tui. Trong thời gian nầy không được đi vắng, biết chưa?
Tư phân trần:
-Tui phải đi dạy kèm và đến trường nữa, nên đâu thể có mặt thường xuyên ở nhà. Còn cái việc viết bản tự kiểm thì nhờ anh xí xóa giùm...
Tân ngắt lời:
-Không có xí với xóa cái gì hết!
Thấy Tư nhăn nhó, y nhấn mạnh:
-Cái tội tạm vắng không xin phép, gây hoang mang cho mọi người đáng lẽ phải phạt anh mấy ngày lao động. Thấy anh có vẻ bơ phờ, mệt mỏi quá nên tui tội nghiệp bỏ qua giùm cho, còn đòi hỏi cái gì nữa hả?
Tư vội cám ơn búa xua rồi lật đật ra về, sợ ở lâu lại sinh ra rắc rối. Ra đến cổng, chàng bỗng chới với, phát hiện chiếc xe đạp mà mình vừa dựng ở gốc bàng đã biến mất!
Chúa ơi! Đúng là "phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí"! Một nỗi lo sợ đến bàng hoàng làm mồ hôi tuôn ra nườm nượp từ những lỗ chân lông trên người chàng. Tư nghe hai chân rung bắn, hai lỗ tai bỗng lùng bùng. Cái câu "mất xe đạp rồi! Mất xe đạp rồi..." như tiếng búa gõ đều đều bên tai không dứt.
Rồi Tư nhìn quanh quất, hy vọng một cách tuyệt vọng, thầm trách mình sao quá hời hợt, làm biếng không chịu khóa xe nên mới bị mắc thêm cái nạn nầy nữa.
Tư nghe đau như mất đi một phần thân thể. Chiếc xe đạp ấy đối với Tư không khác gì người bạn cố tri. Nó chẳng những là tài sản giá trị nhất mà chàng hiện có, còn là chứng nhân của quảng đời tuy cơ cực mà vô cùng hạnh phúc của má con chàng. Vì vậy Tư bảo quản rất kỹ, những mong sẽ giữ nó bên mình suốt cả đời.
Ngoài giá trị tinh thần hết sức lớn lao đó, ích lợi về mặt vật chất nó mang đến cho chàng cũng không hề nhỏ. Đó chính là cái lưỡi của cây cần câu cơm. Không có chiếc xe đạp ấy, Tư khó mà cuốc bộ cả mấy chục cây số mỗi ngày. Chàng làm sao có thể đi từ nhà đứa học trò nầy đến nhà đứa khác, tới trường và tất cả các nơi cần đến?
Tư nào lạ gì với cái tệ nạn ăn cắp vặt đang lan rộng khắp nơi. Con người đang bị tha hóa đến cùng cực. Giá trị tinh thần đang bị vật chất đè bẹp, cây đạo đức đang lung lay đến tận gốc. Những người ngày xưa tay còn sạch, lòng còn trong mà đôi khi cũng bị vấy bùn, huống hồ gì...
Khi đất nước vừa đổi màu cờ, người ta cũng lật đật thay đổi luôn hình thức. Ở những ngày đầu tiên, mang mặc cảm có tội nên ai ai cũng cố tỏ ra hiền lành, chơn chất. Những cái móng tay dài, nhọn được tô sơn của phái đẹp, bị cắt trụi lũi rồi chùi sạch bách. Những mái tóc để dài thậm thượt cho ra dáng nghệ sĩ của phái mạnh, bị cắt ngắn ngủn đến sát ót. Các tay anh chị có máu mặt, những tên du đãng, du côn cũng không dám chửi thề như bắp rang nữa.
Tiếc thay cái thời hoàng kim ấy đã tắt rụi chỉ trong vòng mấy tháng!
Ngay lập tức, xã hội hình thành liền cái giới "mánh mun", những người kiêm nhiệm đủ thứ việc, từ mua bán, trao đổi cho tới lọc lừa...
Lòng tin giữa người và người trở thành thứ xa xỉ nhất và cũng là thứ dễ bị đánh cắp nhất! Rồi theo hiệu ứng domino, hể cái nầy sụp là kéo theo cái khác!
Ngay ở cái xóm nghèo của Tư, biết nhau quá xá mà hể sơ xuất một chút là đôi dép nhựa để ngoài hiên, hoặc cái áo, cái quần đang phơi trên gác cũng bị bốc hơi trong nháy mắt.
Tư tự dằn dật, đay nghiến cái tánh chủ quan của mình. Chàng cho rằng chẳng kẻ gian nào dám bén mảng đến tận nơi đây mà hành nghề, nên không thèm khóa xe cẩn thận như khi đến những chỗ khác. Nào ngờ bây giờ lại gặp đúng tay "tổ sư bồ đề", dám gãi ngay mũi cọp.
Thấy Tư bước trở vào, gương mặt đổi sắc, Tân hỏi:
-Còn gì nữa đây?
Tư đáp như hết hơi:
- Chiếc xe đạp của tui bị mất rồi!
Tân bật thẳng lưng lên, trố mắt nhìn Tư rồi hỏi:
-Có khóa không, dựng ở đâu?
Tư lắc đầu và chỉ tay ra sân, đáp:
-Tui dựng sát gốc bàng.
Tân hỏi bằng giọng trách móc:
-Tại sao không khóa?
Tư ỉu xìu đáp:
-Tại tui hơi gấp, với cũng ỷ lại, cho rằng ở bót công an chắc...
Tân ngắt lời:
-Bót, biếc gì? Bây giờ họ liều mạng dữ lắm! Còn dám cưa mìn nữa là...Bộ anh không biết mới tháng trước, ở đây cũng mất một chiếc xe đạp hay sao?
Tân đứng lên rồi đi ra cổng, Tư cũng lủi thủi theo sau với chút hy vọng mong manh... Làm như Tân là nhà ảo thuật, hoặc đấng toàn năng, có thể hô biến cho chiếc xe đạp đã bị mất đi sẽ hiện ra trước mắt họ vậy. Tư bây giờ chẳng khác gì người sắp chết đuối, gặp gì vớ nấy!
Tân bỗng chỉ vào chiếc xe đạp đang đứng dựa vào gốc cây bàng gần đó, hỏi:
-Đó có phải của anh không?
Tư lắc đầu:
-Giống giống nhưng không phải. Khi tui đến đã thấy nó nằm ở đó rồi! Chắc của ai đến liên hệ công việc, hay bị gọi tới để trình diện như tui.
Tư chỉ ngón trỏ vào cây bàng bên cạnh, nói:
-Tui dựng xe của mình vào cái cây đó đó!
Tân lắc đầu bỏ vào nhà lại, Tư nghe y hỏi lớn:
-Cái xe đạp ngoài sân của ai vậy?
Chẳng nghe ai lên tiếng. Tân bước vào lối đi hẹp phía trong, hai bên là các căn phòng đóng kín. Tư nghe tiếng gõ cửa, tiếng mở cửa, tiếng Tân hỏi "trong phòng nầy có người nào là chủ của chiếc xe đạp đang dựng ngoài kia không?". Tiếng trả lời "không" của một người nào đó, tiếng đóng cửa rồi tiếng chân bước tiếp.
Tư lo đến rối ruột, không thể ghìm mình ngồi yên được nữa, bèn đứng lên đi theo Tân.
Ngay lúc ấy, một cô gái đang hấp tấp dắt chiếc xe đạp từ ngoài cổng đi vào, nhìn dáo dác rồi dựng xe vào gốc bàng còn trống, nơi ban nãy Tư chỉ cho Tân thấy và nói là mình đã để xe ở đó. Cô ta lật đật dắt chiếc xe đang trên đường đi tìm chủ kia ra cổng. Thì ra...
Tư đi hơn mười bước chân thì đụng mặt Tân. Anh ta đang mở cửa một căn phòng bước ra, thấy Tư lủi thủi theo mình liền trợn mắt, gắt:
-Vô đây mà làm gì? Ra ngoài kia ngồi chờ tui đi!
Tư xoay lưng bước ra, nhìn một cách hú họa... Bỗng Tư chớp mắt liên tục. Bàn tay chàng tự động đưa lên mắt rồi dụi liền ba, bốn cái: Chiếc xe đạp cũ, màu xanh, với cái bọc ba ga vừa thay nệm, đang nằm đúng cái nơi mà ban nãy chàng đặt chống dựng nó xuống.
Chẳng nói chẳng rằng, mừng đến đánh bò cạp. Tư chạy vội đến rồi như sợ nó biến mất, lật đật vồ lấy, không thèm dắt mà thót liền lên yên chạy bay ra cổng.
May cho Tư, anh công an ngồi trong cái bốt gác nhỏ xíu cạnh cổng, đang cắm đầu vào tờ báo. Nếu không, với cái hành động khả nghi, phạm thượng ấy chắc chắn chàng sẽ bị tra hỏi đến nơi, đến chốn.
Khi Tân quay trở ra để nói với Tư cái giả thuyết của mình: Tân cho rằng có thể chiếc xe của Tư không bị đánh cắp mà do người chủ của chiếc xe kia lấy lầm. Chàng rất ngạc nhiên: Khổ chủ của chiếc xe bị mất và chiếc xe đang được xem là mất chủ, cả hai ban nãy còn sờ sờ giờ đã biệt dạng!
Tân thở dài tự hỏi "Cái thằng cha Tư nầy, đầu óc có bình thường hông ta?".
Bất giác chàng thấy giận Ý ngang xương, lẩm bẩm:
-Tại sao một người như vậy mà đi thương cái tên như vậy? Thiệt là!!!