← Quay lại trang sách

- 7 -

Tư đạp vèo vèo như bị ma đuổi, chạy một mạch đến bưu điện. Nỗi mừng của việc tìm thấy chiếc xe đã chiếm hết tâm trí. Tạm thời những câu hỏi về sự xuất hiện đột ngột của nó, cùng chủ nhân gói bưu phẩm đều không còn chỗ trú trong đầu chàng. Tư nghĩ thầm"lâu lâu cũng nên mất thứ gì đó, để đo lường giá trị của nó trong lòng mình và được thưởng thức niềm vui lớn lao khi tìm lại được". Đến bưu điện, Tư chẳng những chịu khó len chiếc xe của mình vào giữa hai chiếc xe khác. Chàng còn cố ý cho vòng khóa vào cả hai cái bánh trước, của mình và của cái xe bên cạnh, khóa chúng dính chung vào nhau, rồi xoa xoa hai bàn tay một cách khoái trá. Tư cảm thấy hết sức an tâm, tự khen đã nghĩ ra phương pháp để bảo vệ chiếc xe đạp của mình một cách rất hữu hiệu. "Đúng là cái khổ đẻ cái khôn, nếu không xém mất xe, dễ gì mình nghĩ ra cái diệu kế nầy". Chàng lẩm bẩm, tự hẹn từ nay sẽ áp dụng kế sách nầy triệt để. Cô nhân viên hôm trước, tuy lần nầy không bị người yêu thúc hối, nhưng lại bị bao vây bởi một nhóm người xúm xít trước mặt. Một ông, tuy khá lớn con cùng lớn tuổi nhưng lại hết sức rụt rè, đang năn nỉ cô ta: -Cô làm ơn coi lại giùm... Có lẽ đây không phải là lời khiếu nại đầu tiên của ông nên cô nhân viên cau mày gắt: -Tôi đã nói rồi. Mấy món nầy bị cấm, ông đừng làm mất thì giờ của mọi người nữa! Ông ta cố vớt vát: -Nhưng mà... Lần nầy cô ta không thèm nói hay nhìn ông ta, đưa tay đón lấy tờ giấy của người đàn bà đứng bên cạnh ông, nhìn rất chăm chú rồi lại gắt: -Sao không điền ngày tháng vào rồi ký tên. Người phụ nữ ấy có vẻ ít chữ nên ngại viết, nói một cách như van xin: -Cô làm ơn ghi vô... Cổ lại nói như nạt: -Bà phải tự làm, tôi còn phục vụ mấy người khác nữa chớ đâu phải một mình bà. Bà ta lật đật cầm tờ giấy lui ra, nét mặt ngại ngùng lúng túng trông rất tội. Cô nhân viên ấy, chắc đã gặp cái cảnh nầy nhiều lần rồi nên trên gương mặt xinh đẹp ấy chẳng bộc lộ chút xíu cảm xúc nào, còn bồi thêm: -Hôm nay thiệt xui, gặp cái gì không hà! Câu nói thiếu thiện cảm ấy tuy làm những người xung quanh bất bình- đa số những người nầy đều lớn tuổi hơn cô ta- nhưng không dám bộc lộ mà càng tỏ ra e dè. Họ càng nói với cô bằng cái gọng hết sức nhẹ nhàng, gần như van xin. Chỉ mình Tư và một người con gái dáng vẻ giống sinh viên là cau mặt mà thôi! Tư cảm thấy chút cảm tình đã có khi tiếp xúc ở lần trước với cô ta đã bay mất tiêu, mất biệt. Thay vào đó là sự ghét bỏ và bất mãn dâng lên đầy ắp trong lòng. Gương mặt mà lúc mới gặp lần đầu, Tư thầm tấm tắc, cho là xinh đẹp đó. Bị sự vô cảm rạch lên từng nhát sâu đã trở nên xấu xí. Cô gái nầy cũng giống với những cô mậu dịch viên ở các cửa hàng phân phối lương thực, nhu yếu phẩm. Cũng giống những nhân viên cả nam lẫn nữ ở các dịch vụ, công sở khác...Họ cư xử hoàn toàn trái ngược với những khẩu hiệu đã thuộc nằm lòng, rằng phải chứng tỏ mình là đày tớ của nhân dân.. Chính chế độ bao cấp đã biến người chủ, thượng đế thành kẻ đi xin xỏ. Cho nên ai cũng ngán ngẩm khi buộc phải đến những chốn "cửa quyền", phải tiếp xúc với các nhân viên, công chức. Những người tự xưng là "nô bộc" đó, từ cấp thấp nhất cho đến cao nhất, ai may mắn có tí quyền hành nào là tận dụng một cách tối đa. Tư vừa đưa tờ giấy báo ra vừa nói: -Cô ơi làm ơn cho tui lãnh gói... Chưa hết câu là bị cổ cự liền: -Chờ đó đi! Bộ không thấy cả đống người ở đây còn chưa được giải quyết hay sao? Cô ta còn rất trẻ, không chừng chưa tới hai mươi. Tư đoán chắc cái ô trên đầu của cô ta to lớn lắm, cái gốc bự lắm nên nói năng rất trịch thượng. Tình trạng tuyển nhân viên theo tiêu chuẩn lý lịch, "nhất thân, nhì thế", quan hệ cá nhân ưu tiên hơn tài năng và đức tính ấy đang phá hoại các cơ cấu quản lý. Guồng máy hành chánh ngày càng nặng nề, kém hiệu quả bởi không được những người thợ lành nghề, đầy nhiệt huyết vận hành. Người ta hấp tấp phá bỏ rồi giao cho những người thiếu kiến thức xây dựng lại. Họ vô tình thay thế các vật liệu bền chắc bằng những thứ không phù hợp. Cho nên... Có lần Tư đến một công sở, chàng ngạc nhiên khi thấy ở đó có hai phòng làm việc chức năng như nhau đang trong tình trạng trái ngược: Bên nầy thì mấy hàng ghế gần như hoàn toàn bỏ trống còn bên kia lại không đủ chỗ ngồi. Hỏi ra mới biết, cái chỗ đắc địa, ăn nên làm ra đó là do một nhân viên của chế độ cũ được lưu dụng điều hành, một trong những người được gọi là "nhân viên tại chỗ". Điều nầy cũng bởi các "nhân viên tại chỗ" không tạo cho mấy người "chủ" ấy một chút áp lực nào. Những "nô bộc" nầy phần đông đều lớn tuổi, ôm cái lý lịch đầy tì vết nên họ luôn nơm nớp lo âu. Họ bị ám ảnh rằng đến một ngày nào đó, sẽ bị gọi lên phòng tổ chức và được trao tận tay cái quyết định đình chỉ công tác. Vì lo sợ bị sa thãi nên họ phục vụ hết mình, hầu được đoái cái công sau để chuộc cái tội trước. Tư xếp tờ giấy lại làm bốn rồi cất vào túi áo, không dám chìa ra nữa và kiên nhẫn ngồi chờ. Hai cây kim của cái đồng hồ to tổ bố treo ngay giữa tấm vách sau lưng cô nhân viên và trước mặt Tư, đang nằm chồng lên nhau ở vị trí gần con số mười một. Sắp đến giờ nghỉ để ăn trưa nên gương mặt của những người còn lại càng tỏ ra nôn nóng. Cô "nô bộc" ấy cũng không còn bẳn gắt nữa. Những người tiếp theo được cô ưu ái hơn, có khi còn viết giùm, sửa giùm họ những chỗ ghi sai. Chỉ còn một người nữa là tới chàng. Tư móc tờ giấy báo trong túi ra, cầm sẵn trên tay rồi đến đứng sau lưng cô gái sau cùng thứ nhì ấy. Chờ cô ta đi ra khỏi quầy chàng mới dám đưa tờ giấy trên tay mình cho cô nhân viên, chưa kịp trình bày, đã nghe tiếng la chói lói của cô gái vừa đi ra: -Ai khóa xe kỳ cục như vầy đây? Tư chợt nhớ, vội chạy ra mở khóa. Cô gái cau có nhìn chàng gắt: -Bộ đui hay sao mà... Có lẽ sự chờ đợi, chầu chực nãy giờ khiến cô ta phát khùng. Nỗi bực tức vì phải chịu đựng, hạ mình trước cô gái trong kia đã có cơ hội để bộc phát. Cô không thể kềm chế được nữa , trút hết lên nạn nhân đầu tiên mình gặp nên đã nói với chàng như sỉ vả. Tư rất mắc cỡ khi nhận ra hành động của mình hết sức ích kỷ. Chàng chỉ quan tâm với lợi ích của bản thân mà không ngại gây phiền hà cho người khác. Nỗi ân hận khiến chàng chẳng những không bất bình khi bị nàng mắng mỏ, mà còn cảm thấy nhẹ nhỏm như đã được đền tội. Tư lật đật: -Xin lỗi, xin lỗi! Nhìn gương mặt đỏ bừng, cử chỉ lúng túng của chàng, cô gái "hạ hỏa" liền lập tức. Nàng bỗng nghe thương hại người con trai có nét mặt rất chất phác đang bối rối quá sức nên không làm tình, làm tội nữa. Một Ý nghĩ chợt nãy sinh trong đầu nàng: "Có khi anh chàng nầy cố tình làm thế để làm quen với mình đây mà". Điều nầy làm cô rất thích thú nên đổi liền thái độ. Cô nhìn Tư bằng tia mắt chứa chan thiện cảm rồi nói bằng giọng hết sức nhẹ nhàng: -Không có chi! Trước khi đi. cô gái còn ngoái lại nhìn Tư cười rất tươi làm chàng chới với. Khi Tư bước vào, cô nhân viên không nói một câu, đưa tờ giấy cho chàng bảo ký vào. Tư không nén được nỗi tò mò nên hỏi: -Ai gửi vậy cô? Cổ trả lời: -Anh gửi chớ ai!

-Thấy cặp mắt của Tư sắp rớt vì kinh ngạc, người nữ nhân viên ấy liền giải thích: -Gói hàng anh gửi tháng trước bị trả về vì không có người nhận. Rồi cô ta cúi xuống, bưng cái thùng hàng đã nằm đợi sẵn dưới chân đặt lên bàn. Kế tiếp lấy ra một quyển sổ, viết vào đó rồi đưa chàng ký. Tư cứ đứng như trời trồng. Những sự kiện quá bất ngờ liên tiếp xảy ra khiến các giây thần kinh chịu hết muốn nổi, chúng sắp bung nếu chàng không gồng mình kìm lại. Cô gái thấy Tư đứng im ru, không chịu cầm cây viết mình đưa cho thì bực bội gắt: -Hết giờ làm việc rồi đó! Anh không ký nhận thì tôi lưu vào kho, sau nầy đừng có mà khiếu nại... Tư đã định thần, chụp lấy cây viết rồi ký liền một cái rụp. Ôm thùng hàng đi ra mà quên cả cám ơn. Cái thùng quà bị kết tội sát nhân ấy, vẫn còn mang những sợi dây bố ràng rịt khắp thân. Rõ ràng nó vẫn được giữ nguyên như khi gửi, chỉ hơi móp và trầy trụa vì phải di chuyển, bốc xếp nhiều lần. Sau cơn chấn động, Tư liền tiếc hùi hụi, chàng ước gì Ý ráng ở lại Sài gòn thêm đôi ba ngày thì hay biết mấy. Đúng là con tạo trớ trêu! Tư nghe nhẹ nhỏm biết bao khi cởi bỏ cảm giác tội lỗi đã mang trong lòng, đồng thời xót xa khi nghĩ rằng nàng vẫn đang mang tâm trạng nặng nề, khổ sở. Chắc Ý vẫn tự kết án mình mang tội ngộ sát, biến cuộc sống thành nhà tù vô hình, khiến bản thân và những người thương nàng cùng đau khổ. Ngay lập tức, Tư quyết định mang thùng quà về quê cho Ý liền! Chàng muốn giải tỏa sợi dây oan nghiệt ấy cho nàng càng sớm càng tốt. Nghĩ vây nên Tư không quẹo vào nhà mà đạp xe luôn qua xóm đình, ghé đầu ngõ chỗ cây bả đậu để tìm ông bác chạy xe ôm hôm trước. May quá! Ông ta đang ngồi trên yên, miệng nhai, tay cầm một ổ bánh mì thịt. Ông nhận ra Tư nên gọi rối rít: -Cháu về rồi sao? Nhanh vậy! Tư hỏi: -Bác rảnh hông? Ông gật đầu, nói: -Thì cháu thấy đó! Bác đang ngồi không. Ông phân trần: -Từ sáng tới giờ chưa có một người khách nào! Tư hỏi: -Giờ nầy còn xe về An Giang hông bác? Ông lắc đầu: -Trễ lắm rồi, làm gì còn? Tư hỏi tiếp: -Bác có chạy nổi một lèo từ đây về đó không? Ông gật đầu lần nữa rồi nói thêm: -Năm nào bác cũng chở bà nhà của bác về trển để rẫy mả cho cha, má bác và ông bà ngoại sắp nhỏ. Hể thấy mệt thì lựa mấy cái quán "cà phê võng" vô nằm nghĩ, về tới nhà khỏe re! Tư hỏi tiếp: -Bây giờ chở cháu về dưới rồi quay lên liền, bác làm nổi hông? Ông hơi đắn đo: -Thường thì bác phải nghỉ lại một ngày để lấy sức chớ đi liền thì chưa lần nào nên không biết! Rồi ông hỏi: -Cháu làm cái gì mà gấp dữ vậy? Bộ có chuyện ngặt nghèo lắm sao? Tư thở dài: -Còn hơn ngặt nghèo nữa bác. Cô gái đi cùng cháu hôm bữa đó đó, có người chồng chưa cưới đi học tập ở ngoài trung. Cổ gửi đồ ăn tiếp tế cho anh ta, trong đó có cà phê. Hôm đó cổ nhờ cháu đi mua giùm cà phê để gửi theo. Cháu bị mắc mưa nên cà phê bị ướt. Thế rồi cổ nhận được một cái thơ, báo tin rằng anh ta vì uống cái nước cà phê đậm đặc tan chảy, còn nằm trong bịch nên chết ngay lập tức. Cổ té xỉu liền vì cho rằng mình đã gây ra cái chết cho anh ấy. Cháu chở cổ vô bệnh viện rồi đưa về quê ngay sau đó. Giờ mới biết gói quà chưa tới tay ảnh. Anh ấy chết vì bịch cà phê khác trong gói quà khác chớ không phải của cổ. Cháu muốn mang gói hàng nầy về liền để cổ thấy tận mắt rồi an tâm mà sống. Ông bác xe ôm nghe say sưa đến độ quên cả nhai. Ông nuốt vội miếng bánh đã nhũn trong miệng, rồi nói: -Bác thấy gói quà nầy đâu có phải thuốc cấp cứu mà cháu quýnh lên dữ vậy? Tư cắt nghĩa : -Tại bác hổng biết nên nói thế. Gia đình cổ chết hết ngoài biển rồi. Nhà ngoại cổ ở sát bên sông. Cháu sợ cổ quẩn trí rồi đâm đầu xuống đó để đi theo họ nên muốn đi liền tức khắc. Ông bác xe ôm nhớ lại cái dáng đau buồn, câm nín của Ý hôm trước nên nói: -Cháu nghĩ vậy cũng đúng, thôi cháu về nhà lấy đồ rồi mình đi! Rồi ông gợi ý: -Hay là tới đó mình ở lại một ngày. Sẵn bác dắt cháu ghé bên bác chơi cho biết? Tư lắc đầu, thở một hơi còn dài hơn nữa, rồi giải thích: -Cháu mà ở lâu, chắc chắn sẽ bị mất nhà liền. Ổng nhìn Tư, mấy cái dấu hỏi trong mắt cũng nhiều hơn hồi nãy. Tư bèn kể cho ông những rắc rối mà chàng gặp do lần trước đi không xin phép. Ông liền hỏi: -Vậy sao lần nầy cháu không xin phép? Tư lắc đầu: -Không có thì giờ, cũng chưa chắc được cho. Có khi còn bị giữ rịt vì cho là cố tìm đường tẩu thoát. Ông gật gù, ra vẻ thông cảm, rồi hối: -Vậy cháu về lấy đồ đi rồi mình đi ngay lập tức! Tư hỏi: -Bộ bác không đem món gì theo sao? Ông trả lời : -Bác có mặc bên trong một bộ đồ ngắn. Xuống tới đó lột bộ đồ nầy ra giũ cho sạch bụi, máng lên phơi. Chừng nào về sẽ mặc vô trở lại. Tư yêu cầu: -Bác chạy theo cháu nghe! Để cháu khỏi mắc công phải quay ra đây lần nữa. Không chờ ông đồng ý, chàng đạp vút đi liền. Ông bác vội cho khúc bánh ăn dở đang cầm trên tay vào cái túi ni lông treo trên ghi đông trở lại, rồi chạy theo chàng. Về đến nhà, Tư lấy cái túi đi đường đang nằm trong thau đồ chờ giặt ra. Chàng giũ mấy cái cho bụi bay hết rồi tóm mấy món đồ vừa bỏ ra để xếp vô trở lại. Ông bác xe ôm đang dốc ngược chai nước trên miệng. Ông uống đến giọt cuối cùng để đẩy miếng bánh mì khô queo trôi tận ruột. Ông đưa cái chai cho chàng và nói: -Cháu cho bác xin một chai nước để đem theo. Tư trao cái túi cho ông rồi xách cái chai chạy lẹ vô nhà, lật đật mở cái ổ khóa trên cửa rồi di vào bếp. Chàng nhấc cái ấm lên, nó nhẹ hều chẳng còn một giọt. Đứng trong bếp Tư hỏi thật to: -Hết nước chín rồi, cháu lấy nước từ rô bi nê được hông bác? Ổng cũng hét to để trả lời: -Được mà, hổng sao đâu, bác uống nước sống không hà! Tư đưa chai nước cho ông, chàng không hỏi nhưng vẫn được ông giải thích: -Mấy người suốt ngày ở ngoài đường như tụi bác đâu có được uống nước nấu chín. Rồi nói thêm: -Ở nhà bác cũng uống nước nầy. Vợ bác tiết kiệm lắm! Bả không dám nấu nước uống sợ tốn củi. Mấy con vi trùng với cái ruột của bác quen mặt nhau quá rồi. Bây giờ tụi nó bắt tay chung sống êm ru, hòa thuận lắm! Chẳng thèm đánh đấm nhau làm chi cho mệt. Ông nói tiếp: -Ông bà mình nói cái câu "ở bẩn sống lâu "sao mà đúng quá mạng! Mấy người nghèo trong xóm bác họ sống dai lắm. Bác toàn chở mấy người giàu đi cấp cứu không hà! Bác để ý thấy càng giàu càng mang nhiều chứng ngặt nghèo, nào là nhồi máu, tiểu đường, tăng xông...Có người vô ra bịnh viện như cơm bữa. Người nghèo thì chỉ cần cạo gió, giác hơi, uống nước gừng, nước chanh là đủ. Họ nhờ trời thương nên ít bịnh lắm! Ông lại nói bằng cái giọng triết lý: -Bác thấy người ta bịnh vì lo nhiều hơn thiếu. Người nghèo ít bịnh một phần cũng nhờ họ ít lo lắng. Đã cùi rồi thì hết sợ lở. Nghèo cùng cực rồi đâm ra hết sợ nghèo nữa, yên tâm mà sống. Bác thấy người nghèo ít ai tự vận lắm, chỉ có mấy người đang giàu rồi bị sập tiệm, sợ nghèo quá nên trốn nó mà chết thôi hà ! Mấy người nghèo cũng dễ vui hơn mấy người giàu. Lâu lâu có ai nấu món gì đem lại cho là mừng hết lớn. Mấy người giàu hay sinh bụng nghi ngờ, thấy ai tỏ ý thân mật với mình thì lo ngại lắm! Họ có nhiều thứ, mà thứ nào cũng nhiều nên sợ mất lắm! Tư cười một cách thích thú trước nhận xét hóm hỉnh của ông bác xe ôm vui tính ấy. Gương mặt thanh thản, tính hài hước bộc lộ trong cách nói rất có duyên ấy, khiến Tư càng có cảm tình với ông hơn. Tư nhận ra, chính những dịp tiếp xúc như thế nầy giúp mình thấy cuộc đời thêm đẹp. Không hiểu sao khi trò chuyện với những người bình dân, tính tình chơn chất Tư đều hết sức thích thú. Tâm hồn Tư được trong hóa như khi đọc những quyển truyện hay của các văn hào tầm cỡ! Cho dù không hoàn toàn đồng ý một trăm phần trăm với ông. Chàng vẫn đáp: -Đúng vậy đó bác.

Chờ Tư yên vị rồi ông ta liền đề pa cho xe chạy. Ông không đi ra đường lớn mà chạy thẳng xuống bờ kinh. Biết Tư ngạc nhiên nên ông giải thích: -Bác tạt qua nhà để báo với bác gái một tiếng, kẽo tối nay không thấy bác về bả lo không ngủ nổi, cái rồi sanh bịnh là phiền phức lắm! Tư hỏi: -Nhà bác gần đây hông? Ông đáp: -Mút con kinh nầy là tới. Khoảng mười phút sau ông dừng lại ở một căn nhà nhỏ, mái tôn, có cái hàng rào trồng bông giấy cao nghệu, nằm đối diện con kinh rồi nhấn còi inh ỏi . Một người phụ nữ đứng tuổi hớt hải chạy ra, tay còn cầm cái nấp vung nồi. Thấy ông bà cười tươi rói, không thèm hỏi gì hết mà nói liền: -Hên quá, tưởng ông không về mà ăn bữa mắm kho nầy với tui rồi chớ! Chợt nhận ra Tư bà khựng lại hỏi: -Chú em nầy là ai? Ông liền giải thích: -Khách đi xe. Tui phải chở chú về quê mình gấp lắm! Tui tính đi luôn mà sợ bà trông, ghé nói cho biết chớ không phải về ăn cơm đâu! Nhìn gương mặt tiu nghỉu của bà, Tư thấy tội quá! Chàng nhớ ngày xưa má làm món ngon, rủi mà mình vắng mặt bất tử là buồn lắm, nên nói: -Bác vô ăn một miếng cho bác gái vui rồi hãy đi. Ông và bà vợ nghe Tư nói vậy thì mừng ra mặt. Nhứt định mời vào ăn chung, cho dù chàng hết sức từ chối cũng bị họ lôi đi tuồn tuột. Món mắm kho do chính tay dân có gốc "mắm" làm khác xa dân Sài Gòn. Cái nồi mắm nầy không có màu hồng hồng vì mắm không bị ướp màu đỏ. (Khẩu vị của dân Sài gòn bị người Hoa chi phối cho nên họ khoái cho màu đỏ vào các món ăn) Cũng không cho thêm đồ biển như tôm, mực... thêm vào, chỉ có cá lóc và thịt ba rọi mà thôi. Đồ "bổi" cũng chỉ có cà tím, thiếu khổ qua, đậu đũa, đậu bắp... Bù lại, rau ghém được trộn nhiều thứ hơn. Ngoài rau muống chẻ, giá sống, rau thơm còn có thêm bông súng, ngò gai, bắp chuối cùng bẹ chuối non xắt mỏng. Tư chưa bao giờ được ăn món mắm kho ngon đến vậy! Chàng cũng nhận ra rằng nồi mắm kho ngon không cần phải xài phụ liệu phong phú và mắc tiền. Tư hỏi thật lòng: -Bác kho mắm rất đơn giản, cho ít thứ vào hơn mà ngon hơn mấy chỗ cháu ăn trước đây nhiều lắm! Bác có áp dụng bí quyết gì hông vậy bác? Bà trả lời: -Có bí quyết gì đâu, nhờ mắm ở nhà làm gởi lên cho, nó ngon sẵn rồi chớ tui đâu có tài cán gì! Tư hỏi: -Mắm làm như thế nào hả bác? Bà đáp: -Cá làm mắm phải rửa cho thiệt kỹ, xóc cho thiệt ráo nước rồi mới cho vào lu rắc muối vô. Ủ đủ ngày rồi vớt ra chao đủ đường, đủ thính rồi ủ tiếp. Để cho nó ngấm mới đem ra xài. Xài tới đâu lấy ra tới đó. Đừng lấy ra nhiều quá, mắm đã ra gió rồi mà xài hổng hết là bị hôi ê, hổng ngon. Mắm mà ngon kho mau rục và thơm lắm! Tư nghe mê món mắm quá nên hỏi để học: -Kho mắm khó hông bác? Bà lắc đầu: -Dễ ợt! Bỏ mắm vô cái nồi nhỏ, đổ nước ít ít rồi bắt lên bếp, nhớ cho lửa riu riu thôi. Khuấy cho mắm tan hết, thịt không còn dính vô xương thì nhấc xuống. Lấy cái rỗ đan khít như rỗ lược dừa để lọc bỏ xương, đổ thêm nước vô mớ cặn xác mắm, làm thêm vài lần để rửa cho hết thịt của mắm. Mỗi lần chỉ thêm vô chút xíu nước thôi. Xả rửa sạch, lấy gốc bỏ lá, đập thiệt giập, xắt mỏng rồi bầm nhuyễn với ớt bỏ hột. Bắt cái nồi trộng trộng lên bếp, cho lửa lớn. Rưới chừng một muỗng mỡ cho đều khắp đáy nồi, đập tỏi phi thơm rồi cho xả và thịt ba rọi vào xào, cá thì khỏi. Cho thêm một muỗng đường vô chung cho thịt có màu vàng. Thịt trong, cho tô mắm đã lượt vào nấu, chờ mắm sôi cho cá với cà tím vô, đợi sôi thêm vài dạo thì nhấc xuống. Rồi bà dặn tiếp: -Nhớ chịu khó lọc làm sao cho mắm không bị lỏng. Mắm lỏng, bị lạt cái rồi cho muối hay nước mắm vô thêm là hết ngon, mất mùi vị của mắm liền. Thà là lấy nước cốt hơi đặc rồi thêm nước từ từ. Cách nấu của bà không khác má chàng nhưng cách ăn thì khác hẳn. Mỗi người ngoài cái chén bới đầy cơm còn có thêm cái chén không để bên cạnh. Bắt đầu bữa ăn, bà đưa cho Tư một trái ớt, biểu giầm cho nát vô cái chén không trước. Kế đó mới gắp rau cho vào (rau ghém đã được xắt nhỏ trộn đều trước), chan mắm cho ngập rồi bưng lên miệng và, y như ăn cơm vậy đó! Hể ăn một đũa cơm là và thêm một đũa mắm. Cái mùi, cái vị của tô mắm, cùng rỗ rau ghém tươi ngon khiến Tư quên mất phép lịch sự, chừng nhớ ra thì nồi cơm của gia chủ đã cạn sát đáy. Tư ngại quá nên nói một cách ngượng ngùng: -Con của bác lát nữa về, chắc phải nấu cơm thêm để ăn rồi! Ông liền chỉ cái bàn thờ. Tư nhìn theo thấy có tấm hình một cô gái còn trẻ, tóc dài trên đó. Ông cười rồi nói: -Nó ăn trước mình rồi cháu đừng có lo. Tư chới với, e ngại gấp mấy lần hơn lúc nãy, vì vô tình chạm vào vết thương của họ. Tư hỏi: -Chị ấy tại sao mãn phần sớm như vậy hả bác? Bà trả lời, giọng buồn buồn: -Bị xe đụng. Tư muốn hỏi thêm là cô con gái ấy chết đã bao lâu mà không dám. Ông biết Tư ngại nên nói kiểu cà rỡn: -Cái con nhỏ nầy nó không chịu ăn độn nên đi cõi khác trước hai bác. Con bất hiếu như vậy nên bác cũng không thèm thương nhớ gì hết! Rồi hối: -Cháu uống hết ly nước rồi mình đi kẽo trễ! Tư nói với bà: -Cám ơn bác nhiều lắm! Cháu chưa bao giờ được ăn mắm kho ngon như vậy! Bà cười tít mắt ra vẻ hài lòng rồi kéo ông vô bếp. Tư đoán là họ đang cãi nhau, tiếng gắt gỏng của ông lấn lướt giọng lí nhí của bà. Lát sau ông quay ra, Tư thấy trên người ông đã mang thêm áo gió cùng một cái nón lưỡi trai cũ xì trên đầu. Ông nổ máy xe, gài số, rồ ga... sắp chạy bỗng nghe tiếng bà gọi giựt ngược: -Khoan khoan, chờ tui một chút ông ơi! Rồi chạy bay ra tay xách theo chai nước. Ông cằn nhằn: -Đã nói có rồi mà còn bắt xách thêm cho bằng được mới chịu. Cái bà nầy thiệt là... Bà giải thích: -Ăn mắm khát nước dữ lắm! Hai người hai chai nước mà thấm tháp gì? Một người hai chai còn chưa uống đủ, nghe lời tui đi mà! Chịu khó xách theo để khỏi kiếm chỗ xin nước. Ông chắc lưỡi: -Quán cà phê trên đường đếm không xuể, mắc gì phải kiếm chỗ xin? Bà vói tay nhét thêm vô túi áo ông một chai dầu gió nhỏ xíu, vừa làm vừa nhìn ông bằng tia mắt van nài khiến ông chẳng thể nào từ chối. Bà quay sang Tư, đưa cái nón kết cho chàng rồi nói: -Cái nầy của ổng, cũ nhưng tui giặt sạch rồi. Cháu cầm xài đỡ. Đi đường nắng dữ lắm! Tư cầm lấy, cám ơn rồi đội liền cho bà vui. Ông hỏi, giọng giận giận, thương thương: -Đủ chưa? Đi được chưa? Bà gật đầu cười rồi dặn: -Chạy từ từ... Chưa nghe hết câu ông đã vọt lẹ liền. Tư thấy cảm động trước sự chăm sóc ân cần, chu đáo của bà đối với ông nên nhận xét: -Hai bác già mà coi bộ hạnh phúc quá! Ông nói: -Có hai vợ chồng ở nhau thôi! Cũng đã quen hơi bén tiếng rồi, không thương làm sao được! Rồi hỏi: -Ba má cháu chắc cũng vậy hả? Tư đáp: . -Ba cháu chết lúc cháu còn nhỏ xíu, nên hổng biết! Ông hỏi: -Bộ má cháu không kể gì hết sao? Tư không muốn nói dối nên đáp -Má cháu không có nhắc, chắc tại... Nói tới đó Tư ngưng ngang vì chẳng biết nói gì thêm. Ông vội đỡ lời: -Chắc tại ba cháu mất lúc má cháu còn trẻ, ở với nhau chưa nhiều. Vợ chồng phải sống chung càng lâu, cái nghĩa, cái tình mới càng thấm thiết. Ông dừng vài giây rồi hỏi: -Cháu có nghe qua cái câu nầy chưa? Ông hắng giọng đọc: - "Mắm càng lâu càng thấm, vợ chồng già thương lắm mình ơi!" Rồi ông tâm sự: -Vợ bác hồi trước không chịu ưng bác, bị đòn dữ lắm bả mới chịu cho cưới. Lấy vợ đã ba, bốn tháng mà bác vẫn còn trai tân. Tới chừng bả bịnh thập tử nhứt sanh, bác săn sóc hết lòng bả mới chịu cho bác thương đó chớ. Đàn bà coi vậy chớ dễ xúc động lắm cháu ơi! Ông bác xe ôm nói một cách vô tình, không ngờ đã thổi bùng cái ngọn lửa của niềm hy vọng đang leo lét trở thành le lói trong lòng Tư. Chàng nghe vui vui, ôm chặt cái thùng hàng hơn rồi tự nhủ: -Biết đâu! Ờ! biết đâu...