← Quay lại trang sách

- 8 -

Qua khỏi Trung Lương, ông bác xe ôm không chạy theo mấy chiếc xe đò để đi đường lớn dẫn ra bắc Mỹ Thuận mà quẹo qua con lộ nhỏ.

Tư hỏi, giọng ngài ngại:

-Bác có đi lộn đường hông vậy?

Ông cười, đáp rất tự tin:

-Cháu yên tâm đi! Mỗi năm bác về quê trên một chục lần: Giỗ cha má bác và ông bà nhạc nè; đám hỏi, đám cưới mấy đứa cháu nè; đám tang bà con lối xóm nè; rẫy mả, ăn tết, cúng thanh minh...Toàn đi con đường nầy không hà. Bác thuộc nằm lòng, cháu đừng có lo!

Rồi ông hỏi:

-Cháu đi xe đò qua ba cái bắc mới tới phải hông?

Tư gật và đáp một lượt:

-Dạ.

Ông nói một cách đắc chí:

-Bác cháu mình đi đường nầy chỉ cần qua một cái phà nhỏ thôi! Không phải đợi lâu mà còn gần hơn mấy chục cây số nữa đó cháu!

Tư ngạc nhiên:

-Sao xe đò không chạy đường nầy cho tiện hả bác!

Ông giải thích:

-Họ phải đi qua Long Xuyên, Châu đốc để bỏ hàng, cho khách xuống nên bắt buộc phải đi con đường đó. Đường mình đi đây là đường tắt, chạy một lèo đến Hồng Ngự thì dừng.

Tư tấm tắc:

-Tên Hồng Ngự nghe hay quá! Cảnh ở đó đẹp hông bác?

Ông gật đầu:

-Ở đó là vùng Đồng tháp mười, tôm cá, chim cò, muỗi mòng...cái gì cũng nhiều hết.

Tư lại hỏi:

-Xứ đó trù phú như vậy chắc dân cư giàu lắm hả bác?

Ông thở dài:

-Mỗi năm nước lũ từ Cam pu chia đổ xuống một lần. Năm nào lũ lớn quá thì mùa màng thất bát, nhà cửa, ruộng vườn bị ngập. Của cải giành giụm hao hụt nhiều, có khi mất trắng phải làm lại từ đầu, cho nên phần lớn đều nghèo với đủ sống, ít ai giàu lắm cháu ơi!

Ông ngậm ngùi nói tiếp:

-Tội nghiệp dân làm ruộng! Cực hơn hết thảy mấy nghề khác mà cũng nghèo hơn hết thảy.

Tư hỏi:

-Bác sống ở Sài Gòn lâu chưa?

Ông đáp:

-Cũng ba chục năm có hơn.

Tư lại hỏi tiếp:

-Sao bác không ở quê nữa mà tới Sài gòn vậy bác?

Ông trả lời:

-Đúng là con người ta ai cũng có cái số hết cháu ơi! Bác có duy nhứt một đứa con thôi, vậy mà nó bị tim bẩm sinh, chở lên chở xuống nhà thương hoài nên dời về Sài gòn ở luôn cho tiện. Cũng may lúc đó tụi bác còn khỏe. Hai vợ chồng bác hết làm thuê làm mướn lại đổi sang buôn bán. Bả nhờ biết nấu nướng chút đỉnh nên bán bánh, bán bún, bán cơm... Bác với con gái phụ vô một tay, chẳng những đủ ăn mà còn dư dật.

Ông lại thở dài:

-Hai vợ chồng bác làm cật lực, để dành sắp đủ tiền để mổ cho nó. Cái rồi con gái bác bị xe đụng, bể đầu chết liền không kịp trối một tiếng. Vợ bác buồn quá làm hết nổi, bịnh tới bịnh lui hoài. Bác gom tiền để dành mua chiếc Hon Da 67 nầy để chạy xe ôm, cũng đủ độ nhựt.

Tư hỏi:

-Sao hai bác không về quê để ở gần bà con ruột thịt.

Ông nói:

-Hai bác già rồi, không đủ sức làm ruộng làm rẫy nữa. Ở Sài gòn coi vậy mà dễ sống hơn quê mình. Cái buồn thì nhiều nhưng cái bực ít hơn.

Im lặng một chút ông lại nói tiếp:

-Hai bác chỉ cầu mai mốt chết chung một lượt. Chớ kẻ đi trước người đi sau thì khổ lắm! Về quê may ra còn có mấy đứa em, mấy đứa cháu tới lui dòm ngó giùm, lại gần mồ mả của ông bà. Tới chừng nằm xuống khiêng ra gần xịt. Bác cũng có chút đỉnh, tính về dưới cất cái chòi nhỏ nhỏ trên miếng đất hương hỏa, rồi trồng trọt lai rai chắc cũng đủ ăn. Vậy mà nghĩ tới nghĩ lui lại thấy hổng êm chút nào!

Tư ngạc nhiên:

-Sao vậy bác?

Ông giải thích:

-Được cái nầy, mất cái kia cháu ơi! Ở Sài gòn thì thiếu người tâm sự, khi thắt ngặt khó tìm người giúp đỡ. Ở quê mình thì khổ kiểu khác!

Tư hỏi:

-Khổ kiểu gì?

Ông do dự:

-Bà con mình nói quan tâm cũng được mà nói tò mò cũng hổng sai! Cái gì cũng để mắt, để tai, để miệng tới. Mình mà vô tình làm mất bụng ai là bị họ rêu rao cho mọi người ghét lây khó sống lắm! Đã vậy còn phải lo trả nợ miệng dài dài mới khổ đại hạng.

Tư thắc mắc:

-Nợ miệng là nợ gì hả bác?

Ông chắc lưỡi:

-Hổng biết tại làm sao mà thiên hạ ngày càng chạy theo hình thức. Hồi bác còn nhỏ, ít ai làm đám giỗ rình rang lắm! Bây giờ thì thôi, họ đua nhau làm cho lớn, mời khách cho đông. Vừa được tiếng có tiền vừa được khen có hiếu. Ở quê bác đi ăn đám giỗ chỉ đem cúng cặp rượu, hộp bánh là đủ, không tốn kém nhiều. Ngặt cái nỗi phải mời qua mời lại. Mình ăn nhậu phủ phê ở nhà người ta rồi, tới phiên phải làm trả lại sao coi cho được. Mà đám sau phải bằng hoặc hơn cái đám trước mới khỏi sợ bị chê cười. Một năm mỗi nhà ít gì cũng vài ba đám. Mất thì giờ là một chuyện, mất sức khỏe mới ác. Họ nhậu búa xua, ai đem cúng thứ gì là lôi ra uống cho hết. Ba cái rượu đế ngày xưa làm bằng nếp rặc, bây giờ nghe đâu họ mua men công nghiệp bỏ vô nước cho có độ nồng, độc không biết bao nhiêu mà nói!

Tư thở dài:

-Nghe bác nói cháu cũng dội. Về đây thấy khí hậu mát mẻ cây cối xanh tươi, cháu đang ham mà nghe bác than nên cũng sợ. Cháu không thích uống rượu, cũng dỡ tệ cái vụ nói năng giao tiếp. Cháu yêu thiên nhiên nhưng lại sợ con người, chắc sống ở núi rừng hợp hơn.

Ông bác xe ôm lắc đầu, nói:

-Chưa chắc!

Con đường họ đang đi thuộc loại tỉnh lộ. Nó không rộng, không kiên cố, có rất nhiều ổ gà nên mấy chiếc xe hơi, xe gắn máy và cả xe đạp đều hì hụt, vất vả.

Tư nghe cả người ê ẩm, chân tê, lưng mỏi... Nhưng bù lại hai mắt được no nê.

Chạy song song và ôm sát con đường là hai con mương không sâu lắm! Người ta trồng sen, súng, rau muống, rau ngổ, ấu...và những loại thủy sinh khác. Đặc biệt là những mảng lục bình với những chùm hoa màu tím rất đẹp. Loại nầy không được trồng, không được săn sóc nhưng rất khỏe, tăng trưởng nhanh, sinh sản mạnh, chiếm gần hết mặt nước, đến độ chúng bị vớt bỏ lên bờ để ghe, xuồng di chuyển dễ dàng.

Tư đang thầm khâm phục sự dẻo dai của ông bác xe ôm, thì chiếc xe chậm dần rồi dừng lại trước một căn nhà sàn sát bên lộ.

Căn nhà nầy giống chòi nhiều hơn vì bốn bề không có vách. Chiều dài chừng ba mét còn chiều rộng thì mênh mông, đến gấp bốn gấp năm lần chiều dài.

Trong chòi có đến năm chiếc võng và hai cái bàn thấp chủm cùng tám cái ghế đóng bằng tre.

Vừa bước xuống xe, không chờ chủ quán mời, ông bác xe ôm và Tư mỗi người chọn liền một cái võng. Họ cùng thả lưng nằm xuống rồi thở cái khì một lượt.

Chủ quán là một phụ nữ trung niên, đang nằm trên cái võng xa họ nhứt với một đứa bé còn rất nhỏ. Bà ta đang dỗ cho cho nó ngủ.

Thấy có khách đến bà vẫn ôm đứa bé trong tay rồi nhẹ nhàng ngồi dậy. Bà đặt đứa bé nằm xuống võng trở lại, để cái gối ôm be bé vào hai cánh tay nhỏ xíu, dằn cái mền lên ngực cho nó không bị giựt mình và vẫn còn cái cảm giác được ôm trong vòng tay của bà.

Vừa bới tóc lại bà vừa hỏi:

-Ông anh với chú em đây dùng gì?

Bác xe ôm hỏi Tư:

-Cháu uống nước dừa hông?

Vừa hỏi ông vừa chỉ tay vào một quầy dừa trái nhỏ xíu bằng cái chén ăn cơm.

Nhìn quầy dừa với mấy trái đèo ngắt héo queo, Tư chẳng thấy thèm chút nào, trong bụng nghĩ thầm:

"Dừa non xèo, đâu có mùi vị gì, thà uống nước sướng hơn". Thế nhưng vẫn gật đầu và đáp nhẹ hều:

-Bác uống thì cháu cũng uống.

Ông bác biết Tư do dự, chắc cho rằng không ngon, chẳng muốn uống nhưng ngại mất lòng ông và chủ quán nên không dám từ chối.

Ông cười mỉm chi, rồi bảo:

-Chị chặt cho bác cháu tui hai trái dừa.

Bà ta hỏi:

-Có cạy lấy cơm hông?

Ông lắc đầu:

-Thôi khỏi?

Bà rút cái mác bén ngót giắt trên mái hiên xuống, vạt cái đuôi nhọn của trái dừa chỉ với một nhát. Không trút nước ra ly mà cho một cái ống hút vào rồi đưa cho bác xe ôm trước. Ông ta uống liền không chờ Tư.

Cầm trái dừa nhỏ xíu trên tay Tư hơi ngần ngại. Chàng hút một hơi ngắn bỗng dừng lại liền, nhả cái ống hút ra rồi nhìn đăm đăm vào bên trong và cả bên ngoài trái dừa.

Gương mặt bác xe ôm biểu lộ sự khoái trá cực kỳ.

Ông hỏi:

-Cháu thấy sao? Ngon hông?

Sự ngạc nhiên và thán phục tràn đầy trong giọng nói của Tư:

-Cháu chưa từng uống thứ dừa nào mà ngon đến vậy. Nếu không nhờ bác biết mà giới thiệu, chưa được thưởng thức qua, nghe tả thôi cũng không tin được. Cháu cám ơn bác lắm!

Ông bác nói một cách tiếc rẻ:

-Phải chi rộng rải thì giờ, bác dắt cháu đi tùm lum cho biết mấy món đặc sản ở quê bác. Trên đó cũng có nhiều thứ ngon lành lắm!

Tư uống từng chút, cố kéo dài cảm giác thú vị. Trái dừa cạn queo còn chưa muốn bỏ, nhìn nó thêm một chập rồi hỏi tiếp:

-Dừa nầy tên gì, có mắc hông bác?

Bác ta cười, đáp:

-Nó tên là dừa "ẻo". Giá chừng gấp rưởi trái dừa xiêm thôi!

Tư hỏi tiếp:

-Quê bác có trồng thứ dừa nầy không?

Ông lắc đầu:

-Không, cái giống nầy chỉ có ở miệt dưới như Gò Công, Mỹ tho...thôi hà!

Tư ao ước:

-Phải chi bác cháu mình về đây, mua một miếng đất rồi trồng chừng một trăm cây dừa như vầy để uống thả ga, đã đời hén bác!

Bác ta cười rồi nói:

-Mình không có thứ nầy thì được thứ khác. Lâu lâu hưởng một lần mới quí, nhiều quá đâm nhàm. Giết mất cái ngon đi. Ông trời coi vậy mà công bằng lắm cháu. Chỗ nào mà thiếu thứ nầy thì ổng bù lại cho thứ khác liền. Chỗ thì tôm cá nhiều, chỗ thì cây trái tốt.

Tư hỏi cắc cớ:

-Sài gòn thì được trời cho món gì vậy bác?

Ông bác cười:

-Cho người ta, dân Sài gòn giỏi lắm, không có đất mà họ trồng ra tiền ra bạc mới hay.

Gió thổi hiu hiu. Tư nằm trên võng, thòng một chân xuống để đưa qua, đưa lại. Hai bàn tay chồng lên nhau, lót sau ót để nhìn cho dễ. Tâm trạng chàng chưa bao giờ được sảng khoái như thế nầy.

Ông bác xe ôm đang nằm nhắm mắt định thần. Tư cũng muốn ngủ nhưng tiếc. Bà chủ quán thấy chàng mở mắt trao tráo, bèn kéo ghế lại, ngồi gần rồi bắt chuyện:

-Chắc cháu mới đi đường nầy lần đầu tiên hả?

Tư đáp bằng cách hỏi lại:

-Sao bác biết?

Bà cười:

-Khách đi thường, ghé quán là nằm nhắm mắt liền, như cái ông anh nầy đó! Mấy người tới đây lần đầu như cháu là hay ngó chỗ nầy, chỗ khác.

Vừa nói đến đó bỗng đứa bé ré lên một tiếng. Bà lật đật chạy đến, tay đưa võng, miệng nói:

-Ngoại nè! Ngoại nè!

Nãy giở Tư đang thắc mắc nghĩ thầm "bà chủ quán nầy chắc cũng cỡ má mình, vậy mà con còn nhỏ xíu, thì ra...”

Chàng bèn hỏi:

-Con gái bác đâu?

Bà trả lời:

-Nó đi hái ấu rồi.

Rồi bà hỏi:

-Cháu biết trái ấu hông?

Tư lắc đầu.

Bà đẩy thêm vài cái cho chiếc võng đưa đều, miệng ru mấy câu ầu ơ, ví dầu...Chờ đứa bé ngủ yên trở lại, bà liền bước lại sạp, lấy từ cái thúng đặt trên đó ra một thứ có hình dạng như cái đầu của con trâu thu nhỏ, màu tím gần như đen, đưa cho chàng rồi nói:

-Nó nè!

Tư cầm lấy, thấy cứng như đá nên hỏi:

-Trái nầy để làm gì hả bác?

Bà trả lời:

-Để ăn.

Thấy Tư săm soi ra vẻ nghi ngờ. Bà hối:

-Cháu cắn cho nó bể làm hai rồi ăn cái ruột ở trong đi, cho biết với người ta.

Tư làm theo. Trái ấu gãy ở ngay chính giữa, để lộ phần thịt màu tím rất nhạt gần như trắng. Chàng nhai thử. Nó không mùi và có vị bùi của khoai, của hột mít luộc.

Bà hỏi:

-Cháu thấy ngon hông? Có thích hông?

Tư không thích lắm nhưng gật đầu cho bà vui.

Bà nói một cách sốt sắng:

-Nó mát và bổ lắm cháu, đem hầm giò heo, nhứt là nấu chè, ăn không thua hột sen chút nào!

Thấy Tư thờ ơ, bà hơi phật ý nên làm thinh, không thèm quảng cáo thêm cái ngon, cái bổ khác của trái ấu nữa.

Tư bỗng hỏi:

-Bác ăn ở chỗ nầy luôn sao? Cháu thấy nhà không có vách thì làm sao mà...

Bà chỉ tay về phía sau lưng Tư, nói:

-Tối bác với con gái, cháu ngoại về đó ngủ, sáng mới ra đây.

Tư nhìn theo hướng tay bà chỉ, thấy có một căn nhà lá nhỏ phía bên kia mương với cây cầu nối qua quán. Cách đó một đổi có vài mươi căn tạo thành một xóm nhỏ.

Những căn nhà ở đây đều nhỏ, chỉ một hoặc nhiều lắm là được hai gian. Vật liệu chủ yếu là tre, lá và cây tràm. Chúng không đứng khít rịt bên nhau để ăn gian một tấm vách như ở chợ, mà tách nhau ra để tạo thành những cụm nhỏ chừng năm bảy căn. Mỗi căn cách nhau hơn chục thước.

Đấy là khoảng cách lý tưởng để bạn có thể sai con, sai cháu... bưng một tô canh, tô cháo, dĩa bánh khọt, bánh xèo vừa lấy từ bếp xuống, đem biếu láng giềng. Người nhận có thể ăn liền không phải thổi và cũng không cần hâm lại.

Tất cả đều cất giống hệt nhau, nhà sàn, lót ván hoặc vỉ tre, lợp lá.

Những căn nhà ấy đều có một cây cầu nhỏ trước nhà, bắc qua con mương để ra lộ. Dưới chân cầu thường có những chiếc xuồng nhỏ, hoặc cái bè ghép bằng vài cây chuối. Điều nầy chứng tỏ dân ở đây đi lại bằng đường thủy nhiều hơn.

Mấy cây cầu khỉ nối chúng với con lộ được chia làm ba nhịp, nhịp giữa không được gắn dính để có thể lấy ra cho những chiếc xuồng chở đồ cồng kềnh chui qua, chui lại.