← Quay lại trang sách

- 10 -

Tuy tiếp xúc với ông chưa được một ngày, Tư có cảm giác như mình vừa trải qua một đoạn đường dài lắm! Ở đầu đoạn đường, chàng là người đang vác trên vai cái túi đựng đầy sỏi đá. Những viên sỏi, hòn đá đó đã được ông dần dà đẩy bật ra, bằng chất hài hước trong giọng nói khi kể cho Tư nghe những cơn bỉ cực của cuộc đời mình. Ở cuối đường, cái túi ấy đã trống, được lộn ngược và giũ sạch để chỉ còn lưu lại những dấu vết mờ nhạt. Những dấu vết ấy có thể không mất đi, nhưng chúng sẽ chẳng còn làm chàng trầy vai, bật máu nữa.

Mối tình chàng dành cho Ý đang từ trạng thái vô vọng cũng bắt đầu le lói mầm xanh.

Tư bỗng ao ước giá mà mình có một người cha như vậy! Chàng sẽ được gần gũi hằng ngày, để cuộc sống đầy màu sắc và tâm hồn thêm phong phú.

Tới bến phà mưa đã tạnh nhưng trời lại tối hẳn. Chiếc phà không còn chòng chành, quăng quật nữa. Những con sóng đã qua cơn hờn giận nên nằm im thiêm thiếp.

Phà cập bến, ông Hai chở Tư chạy thẳng lên bờ. Ghé vào chỗ bán vé, Tư chưa kịp nhắc đã thấy ông móc tờ giấy mười đồng ra đưa rồi nói:

-Hồi nãy gấp quá nên qua chưa trả tiền bận đi, tính luôn đi chú em.

Người bán vé là một thanh niên trạc tuổi Tư, nhìn ông một cách ngạc nhiên. Y xé mấy tờ giấy nhỏ xíu đưa cho ông rồi thối lại một mớ tiền lẻ.

Chạy đến một cái sạp có mái che, có lẽ được dựng lên để phục vụ cho khách bộ hành hoặc bày bán thứ gì đó. Ông Hai cho xe tấp vào rồi bảo Tư:

-Hai bác cháu mình nằm nghĩ lưng một chút rồi đón xe đò về Sài gòn.

Tư hỏi:

-Còn chiếc xe Hon Đa thì sao hả bác?

Ông đáp:

-Người ta kéo nó lên mui rồi cột lại, tới xa cảng mình lấy xuống chạy về nhà, tiện lắm!

Họ nằm chưa nóng lưng đã nghe tiếng xe vọng tới. Ông Hai lồm cồm bò dậy liền, ông hối Tư:

-Dậy lẹ lên đi cháu, trễ chuyến nầy là năm giờ sáng mới có xe đi lận!

Tư hỏi:

-Sao lạ vậy bác?

Ông hỏi lại:

-Giới nghiêm mà, bộ cháu không biết sao?

Tư chợt hiểu ra là vì sao ở chuyến xe trước, đến bến bắc qua Châu Đốc xe phải nằm lại chờ đến mấy tiếng đồng hồ, khiến chàng đã sốt ruột rồi âm thầm oán trách bác tài.

Tư thầm khen mình đã nghĩ ra cái sáng kiến nhờ ông bác Hai nầy chở giùm, đồng thời nghe mang ơn ông biết mấy. Nếu không có ông, chàng phải mất thêm ít nhất là một hoặc hai ngày nữa. Anh chàng Tân chắc chắn sẽ phát hiện, Tư sẽ gặp rắc rối vì khó giải thích cho người công an khu vực ấy tin.

Xe vừa dừng, anh lơ liếc thấy chiếc xe của họ, liền trèo lên mui thoăn thoắt rồi hối như giặc. Ông bác và Tư đứng dưới đất, lật đật nâng chiếc xe cho anh ta kéo lên. Họ chưa kịp đi tới hàng ghế trống ở cuối xe để ngồi vào, bác tài đã cho xe chạy vù đi liền. Cả hai loạng choạng ngã vào nhau, may mà Tư nắm được cái lưng ghế rồi trụ lại kịp.

Vừa ngồi xuống ghế là Tư liền than:

-Ngồi chỗ nầy chắc tới khi xuống xe xương sống thành cây đàn ắc cọt.

Ông bác rầy:

-Mình đi vào giờ nầy nên mới có chỗ ngồi. Nếu chờ tới sáng cho dù sắp hàng chen lấn mua được tấm vé cũng chưa chắc trèo vô xe nổi. Họ xô đẩy nhau, người trên xe chưa xuống người dưới đất đã trèo lên để xí chỗ. Đi xe đò mà cực như đi hành quân vậy.

Tuy khởi hành vào giờ trái khoáy, trên xe vẫn đông người, hàng hóa chất đầy, choán cả lối đi. Hành khách hơn phân nửa là dân đi buôn. Họ đi giờ nầy để trốn mấy cái trạm gác, nếu không trốn được thì cũng dễ đút lót hơn. Đêm tối là trợ thủ đắc lực cho những hành động mờ ám. Điều nầy giải thích tại sao trạm gác mọc lềnh khênh nhưng ở Sài Gòn hàng lậu vẫn tràn ngập thị trường. Chúng có mặt không chỉ ở mấy cái chợ nổi tiếng ở trung tâm, mà cả những cái chợ chồm hổm ở hốc bà tó cũng nhan nhản.

Tư và ông bác ngồi ở cái băng ghế sau cùng, xung quanh họ toàn là phái đẹp. Giới đi buôn đa số là phụ nữ. Chàng lo sợ phập phồng. May quá! Không có ai nhờ giấu hàng giùm.

Người lơ xe đến thu tiền, Tư hỏi:

-Bao nhiêu vậy anh?

Y đáp:

-Một chiếc xe, hai người. Năm chục!

Tư ngạc nhiên trước cái giá rẻ bất ngờ đó.

Trả tiền xong, chờ anh ta đi khỏi Tư quay sang bác Hai hỏi nhỏ:

-Ảnh tính có lộn hông bác? Hôm trước một mình cháu đã gần ba chục rồi.

Bác Hai cười giải thích:

-Đường nầy gần lại không qua bắc nên rẻ hơn.

Ông lấy túi ấu ra đưa Tư rồi nói:

-Cháu ăn đi cho đỡ đói.

Tư mời lại:

-Bác ăn với cháu cho vui.

Ông cười hết cỡ, lấy ngón tay trỏ chỉ vào hai cái răng cửa rồi nói:

-Răng cỏ đâu mà cắn. Hai cái nầy là răng giả chỉ để làm kiểng thôi! Cắn tàu hủ, sưng sa, sưng sáo thì được, chớ gặp ba cái thứ cứng cồng như vầy là chịu chết!

Tư chẳng nói, chẳng rằng, cầm lên cắn giập từng trái, đoạn cẩn thận bóc hết vỏ chỉ lấy cái ruột bên trong ra đưa cho ông.

Được chừng sáu, bảy trái, ông liền ngăn lại:

-Thôi bác không ăn nữa đâu!

Tư chia túi ấu ra làm hai, đưa cho ông một phần rồi nói:

-Bác đem bọc nầy về cho bác gái, cháu ăn bây nhiêu đây là no tràn họng rồi.

Bác Hai vừa cầm vừa nói:

-Bả cũng trồng mấy cái răng cửa y như bác. Đem món nầy về chắc bả cười tới mắc nghẹn luôn vì nghĩ bác cố tình chọc ghẹo.

Rồi ông nói thêm:

-Chắc bác phải lấy cái chày đâm tiêu đập cho bể ra rồi lột giùm. Phải làm như vậy may ra bả mới chịu ăn cho hết, hông thôi dám còn nguyên lắm!

Tư hỏi:

-Bác gái có nghĩ là bác chơi xỏ rồi giận hay không?

Ông cười:

-Ba cái chuyện đó để giành cho tụi con nít! Cái bọn già của bác, còn hơi sức đâu mà phung phí vô mấy cái vụ hờn giận tầm ruồng đó.

Tư lại hỏi:

-Từ hồi cưới tới giờ, hai bác có khi nào đòi chia tay với nhau không?

Ông gật đầu, giải thích:

-Cưới được hơn một tháng là vợ bác bị bịnh rất nặng. Bác có cầu xin trời phật cho bả qua khỏi, rồi muốn cái gì bác cũng chìu hết, bỏ bác cũng được. Bác nghĩ cái bịnh ấy chắc tại thất tình mà ra. Bác bèn hỏi bả coi nếu đúng như vậy thì khi bả hết bịnh, bác sẽ đưa trả về gia đình, rồi xin với ông nhạc cho bả được lấy người bả thích, để bả vui vẻ mà sống. Nói thiệt khi đó bác buồn hết sức, ráng cầm lòng mà nước mắt cũng chảy ra.

Nói tới đây ông bỗng dừng lại. Tư quay sang nhìn thấy trái cổ của ông liên tục chạy lên chạy xuống, như thể đang ráng nuốt thứ gì sắp sửa trào ra.

Ông kể tiếp:

-Nào ngờ nhờ vậy mà bả cảm động. Lúc ấy da bả xanh rờn, ốm nhom, ốm nhách, đi không muốn nổi, tưởng chừng sắp chui xuống lỗ. Bác bỏ hết công việc để ở gần một bên mà săn sóc. Người ta đồn uống trứng gà so là bổ hạng nhứt. Cái trứng nầy phải dùng khi nó vừa chui ra khỏi cái bụng con gà, còn nóng hổi mới tốt. Bác để tai nghe ngóng. Hể nghe mấy con gà mái tơ cục tác là rình để lấy liền cái trứng còn nóng đó. Bác ủ trong túi rồi lấy cái lông nhím chọc thủng hai đầu bắt bả hút cho hết. Ở quê, bà con nuôi gà để ăn thịt chớ không ai nở ăn trứng. Chừng nào nó ấp xong rồi bỏ lại mấy cái trứng ung, trứng vữa không nở thành con được mới đem luộc chấm muối mà ăn. Má bác khó tánh và tiết kiệm lắm! Ngày nào bà cũng kiểm coi có con gà nào đẻ hông. Thấy nguyên bầy gà mái tơ, nghe cục tác rân nhà mà không có cái trứng nào bà sinh nghi. Hết rình mấy con gà rồi rình luôn tới bác. Bữa đó bắt gặp bác lộn cái trứng gà trong lưng quần, bà rầy cho một chập, đòi lại mà bác nhứt quyết không đưa, làm bà tức tới nổi trợn trừng hai con mắt. Mấy ngày sau bà lại bắt gặp nữa. Lần nầy bà giận quá, rút cây chổi lông gà ra quất bác tới tấp. Bị đòn thì bị, bác nhứt định không bỏ cái tội ăn cắp trứng gà, cho tới khi vợ bác ngán tới ói bác mới chịu thôi. Nhờ hút cả chục cái trứng gà so mà vợ bác khỏi bịnh. Nhờ cây chổi lông gà te tua nên bả mới bắt đầu thương bác.

Tư nghe ông kể rồi tưởng tượng cái cảnh ông bác lớn chồng ngồng, có vợ rồi mà bị đòn thì mắc cười quá chừng. Không dám bật thành tiếng, ráng nén xuống nên nghe tức bụng.

Ông Hai đang nhìn về ký ức nên gương mặt tràn đầy cảm xúc, ông nói tiếp:

-Cái lần đó bác tưởng đâu hai đứa rả rồi, nào ngờ khi hết bịnh bả không về nhà mà lại đổi tánh không còn lạnh nhạt với bác nữa. Vậy mà bác cũng chưa dám leo lên giường ngủ chung. Một hôm bác đang nằm dưới đất như mọi lần thì bả xuống nằm kế rồi ôm bác. Trời ơi! Bác mừng muốn đứng tim luôn. Hai đứa ôm nhau mà rung bần bật. Bác biết liền là từ đây về sau, hai vợ chồng bác sẽ thương nhau cho tới chết.

Cơn cười bỗng dứt hẳn, thay vào đó là một nỗi xúc động làm Tư nghẹn ngào.

Nếu bây giờ đức mẹ có giáng lâm, rồi nói sẽ ban cho chàng chỉ một điều duy nhứt. Tư sẽ chẳng ngần ngại, xin đức mẹ ban phép cho mình và Ý thương yêu, gắn kết bền chặt, mãi mãi bên nhau như hai vợ chồng ông bác Hai nầy, chớ chẳng cầu mong bất cứ thứ gì khác.

Ông Hai thấy Tư ngồi im như tượng, bèn thoi nhẹ một cái rồi nói:

-Bộ buồn ngủ rồi sao?

Tư lắc đầu, nói:

-Cháu thức khuya lắm! Giờ nầy dễ gì ngủ nổi.

Ông bèn nhắc:

-Vậy thì ăn đi, để bụng đói còn khó ngủ hơn nữa.

Tư cầm trái ấu lên, bắt đầu cắn rồi nhai từ từ. Chàng ngạc nhiên hết sức! Ban nãy khi bà chủ quán đưa mời, bụng còn no nên Tư nghe nó dở òm, ăn ngán ngược. Bây giờ lại thấy ngon một cách lạ thường. Chàng cứ cắn nhai, cắn nhai liên tục cho đến trái cuối cùng.

Tư lấy chai nước của bác gái trao cho họ ban nãy ra, mở nắp rồi đưa lên miệng uống. Hình như cái vị của nó ngọt hơn chai nước của mình, cho dù cả hai đều xuất thân từ thủy cục.

Chiếc xe đò như đua với thời gian. Nó chạy quá nhanh, bác Hai và Tư ngồi hai chỗ cuối ở băng ghế sau cùng nên cứ bị hất tung lên từng chập.

Cơn mưa tạm nghĩ lấy sức giờ bắt đầu hoành hành trở lại, mạnh gấp đôi lúc trước. Mưa to và bóng tối đã át tiếng và làm nhạt nhòa hình dạng của chiếc xe đò. Mấy trạm gác đóng cửa để tránh mưa, tránh gió, càng giúp nó đi qua chúng một cách êm đềm, suôn sẻ.

Bác tài tận dụng lợi thế đó, bắt chiếc xe năm mươi chỗ nầy chạy hoài không nghĩ, càng nhanh càng tốt. Nó bị buộc phải phi liên tục chỉ dừng lại một lần khi bị hành khách phản đối. Họ cần giải quyết một nhu cầu bức thiết nhứt, nên buộc lòng ông ta phải tuân theo.

Chiếc xe chưa kịp dừng lại, hành khách trên xe đã rời khỏi chỗ. Họ đổ dồn ra cửa, người nào cũng lăm le xuống xe trước tiên. Một phụ nữ trung niên đứng ngay sau lưng người phụ xế, người căng thẳng, miệng mím chặt y như một chưởng môn nhân, sắp so tài trong một trận đấu sống mái, đang tập trung mười tám thành công lực để sẵn sàng tung ra một đòn chí mạng.

Cuối cùng cái ông tài xế ngoan cố ấy cũng cho xe dừng lại. Người lơ, vốn cẩn thận và nhiều kinh nghiệm, chờ bốn cái bánh hết lăn mới chịu mở cửa xe. Mọi người đẩy lưng nhau, hối hả bước xuống. Anh chàng nào mà nổi máu ba gai, cố tình chơi ác đứng chặn ngang cửa, chắc chắn sẽ bị họ đập chết tươi rồi giẫm lên người hắn mà đi.

Trời tối và mưa nên sợi dây thần kinh mắc cỡ trùm mền đi ngủ sớm. Chẳng ai thèm đi xa. Họ ngồi ngay trên lề, nam một bên, nữ một bên giải quyết nỗi buồn một cách nhanh chóng rồi leo lên xe liền. Lúc nầy ai cũng cúi đầu, nhìn xuống chân, chẳng dám ngước mặt và đưa mắt nhìn người khác.

Chiếc xe lại lên đường, hấp ta, hấp tấp lấy lại thời gian đã mất. Nhờ chạy nhanh nên chưa đầy bốn giờ sau, nó đã ghé vào xa cảng.

Bác Hai năn nỉ người lơ, nhờ anh ta thả chiếc xe Hon Đa của mình xuống trước tiên. Bác nổ máy, chạy một lèo ra cây xăng gần đó liền, để đổ đầy cái bình xăng sắp cạn.

Trong khi Tư móc tiền ra trả thì bác cho máy nổ. Tiếng tạch tạch của nó nghe giống tiếng hối thúc Tư phải làm lẹ lẹ. Lấy tiền thối xong chàng leo lên xe ngay lập tức.

Bác vừa gài số vừa quay đầu căn dặn:

-Cháu ôm thật chặt nghe, mưa tạnh rồi nhưng bác chạy nhanh nên lạnh lắm đó!

Con đường vắng người nên rộng thênh thang. Hai chiếc xe gắn máy từ phía sau chạy qua mặt bác Hai một cái vèo. Ông cảm thấy mất mặt đối với Tư, bèn tăng ga để đuổi theo lấy cái mặt lại. Cả ba cùng phóng ào ào như muốn thi nhau nuốt trộng con đường trước mặt.

Giờ nầy những người vô gia cư cũng không còn lang thang trên đường phố. Họ đang nằm trên những tờ báo lót trên nền nhà, dưới những mái hiên của những căn phố đã tắt đèn, đóng cửa.

Chỗ nầy, dưới mái hiên thấp và tối om: Một khối tròn, to, dài của hai người đang nằm ôm nhau với tấm mền trùm kín, chỉ chừa từ cái mũi trở lên.

Chỗ kia, trên nền nhà cao được ngọn đèn nê ông ba tấc chiếu sáng: Một gia đình năm người với ba đứa bé nằm giữa, cha và mẹ chúng nằm hai bên. Cây quạt trong tay họ phe phẩy liên tục để xua muỗi cho bầy con. Cái cảnh màn trời chiếu đất ấy tuy thương tâm nhưng cũng đượm đôi phần ấm áp, khiến Tư nghe tận đáy lòng mình, đang dâng lên một niềm cảm xúc dào dạt khó tả!

Điều khiến trái tim Tư nhoi nhói là hình ảnh của các cụ già. Họ thích yên tỉnh hay ngại làm phiền người khác mà không chịu ngồi sát bên nhau? Những cụ bà đầu trùm khăn, những cụ ông tóc lưa thưa, rối bời bời. Mỗi người đều ôm một cái bóng âm thầm của chính mình mà nép vào một góc.

Cụ thì ngồi tựa lưng vào cánh cửa sắt, một chân duỗi thẳng, một chân gập lại với hai cánh tay ràng cái đầu gối nhọn hoắc để giữ cho nó yên vị.

Cụ thì ngồi cong lưng, vòng tay bó cả hai gối lại làm một, đầu cúi gập, tựa hẳn lên hai cái đỉnh tròn tròn, nhọn nhọn đó. Bất động y như một khối đá.

Cụ thì nằm cong quắp, mang cái dáng quắt queo của một con tôm kho đi kho lại nhiều lần.

Cụ thì nằm ngửa, duỗi thẳng người, tay chân dang ra như trẻ nhỏ.

Cái túi nho nhỏ tròn tròn bằng vải ni lông dầu màu cứt ngựa, kích thước và hình dạng như nhau, được xem như đồng phục của các cụ. Nó phân biệt các cụ với những người cao tuổi không cùng một đẳng cấp. Chúng được ôm trong lòng, gối lên đầu để không thể rời bỏ các cụ một cách dễ dàng.

Đa số những người nầy là nạn nhân của buổi giao thời. Nhà nước áp dụng chính sách giản dân và kinh tế mới một cách vội vả, thiếu trù bị, nên chẳng những không có hiệu quả mà còn dẫn đến cái hậu quả tai hại. Tạo ra những mảnh đời lang thang, cơ nhỡ.

Sài gòn chỉ thưa người ở giai đoạn đầu rồi nhanh chóng được lấp đầy. Nó như một viên kẹo quá ngon, quá ngọt, quá đẹp, quá hấp dẫn... Bầy kiến đen nhỏ bé, nhút nhát nầy vừa bị xua đi, thì ngay lập tức bầy kiến vàng to lớn, dữ dằn, bậm trợn khác bu lại liền sau đó.

Hiện giờ Sài Gòn giống như một thai phụ đang lâm vào cảnh bần hàn, mang gương mặt nhem nhuốc và cái bụng căng phồng trông rất tội!

Tất cả những điều nầy đều do "công" của vị thần chiến tranh tạo dựng.

Người ta lên án chiến tranh, cho rằng nó là cái giải pháp ngu xuẩn nhất, thế nhưng nó đều được thực hiện bởi những người được ca tụng là thiên tài và giàu lòng nhân ái!

Quốc gia nào cũng phải trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử. Đâu phải vô tình, vô lý khi người ta ghép bốn chữ "núi, sông, xương, máu" chung lại với nhau.

Tư không biết bắt nguồn từ đâu mà từ hạnh phúc gắn liền với chữ giàu, chữ mạnh...Khiến con người ta phải tranh, lấn nhau triền miên không dứt.

Đất nước của Tư, như phần đông những quốc gia nhược tiểu khác. Cùng mang thân phận của một bà mẹ nghèo, không đủ thức ăn để phân chia cho bầy con. Sự thiếu thốn khiến bọn chúng luôn khao khát, hướng mắt nhìn chăm chăm vào những căn nhà to và đẹp của láng giềng, ao ước sẽ được sống trong đó. Trớ trêu thay, chính những đứa con khỏe mạnh, giành giật được nhiều miếng ngon hơn, được mẹ cưng chiều hơn, lại là những đứa nuôi ý định xa bà nhiều nhất! Chúng chẳng những không trả lại vô số vật thực mà bà đã hết sức rộng lòng ban cho, để đền đáp công ơn dưỡng dục, còn nhẫn tâm vơ vét cho bằng hết!

Thấy Tư làm thinh, vòng ôm lỏng le, nên bác Hai tưởng lầm.

Ông nhắc:

-Đừng có ngủ quên rồi té xuống xe nghe hông? Nguy hiểm dữ lắm đó!

Tư trả lời cho bác yên tâm:

-Cháu đâu có buồn ngủ...

Ông ngắt:

- Không phải buồn ngủ, sao ngồi im ru vậy?

Tư đáp, mượn cái giọng têu tếu của bác:

-Cháu buồn cái khác, cái nầy sâu và rộng hơn nhiều!

Bác Hai gặng tiếp:

-Cái gì? Đâu nói bác nghe thử coi!

Tư thở dài, vừa chỉ tay vào hai bên lề vừa nói:

-Cháu thấy những người không nhà, không cửa, không công ăn, việc làm, phải sống lang thang như thế nầy thì rầu giùm cho họ lắm. Cái cảnh "du" mà không có "mục" nầy sẽ đưa họ đến đâu. Người già thì không nói gì, nhưng thanh niên và những đứa trẻ thì sao? Không khéo họ lại bị kẻ xấu rủ rê, gia nhập vào thành phần bất hảo, trở thành mối nguy cho xã hội. Khi ấy chẳng những khổ cho họ mà còn khổ lây cho những người khác nữa!

Ông Hai chép miệng:

-Cháu mà ra đường mỗi ngày, gặp đủ thứ chuyện, đủ thứ người như bác chắc sống không nổi. Ở cái đất Sài gòn nầy, giàu nghèo chênh lệch nhau nhiều quá, khiến tâm tánh thiên hạ dần dần điên đảo. Ngẫm ra người ta chết đói đâu có nhiều bằng chết vì mấy thứ khác.

Ý đang buông mùng thì nghe tiếng cậu Ba gọi ngoài cửa:

-Út ơi! Ý ơi! Có đứa nào còn thức đó hông?

Dì Út tốc mùng chui ra trước, hỏi bằng giọng hớt hơ, hớt hãi:

-Má có sao hông anh?

Cậu Ba đáp:

-Má không có bị gì hết?

Dì hỏi tiếp:

-Vậy sao tối hù, trời mưa ào ào mà anh còn đạp xe vô đây?

Cậu Ba gắt:

-Cô mở cửa lẹ đi! Cho tui vô nhà rồi muốn hỏi cái gì thì hỏi.

Bà ngoại của Ý đã gần tám mươi, sức khỏe giảm sút nhiều nên khi nghe tiếng cậu Ba gọi cửa, cả dì Út lẫn Ý đều lo. Nghe bà không sao nên hai dì cháu đều trấn tỉnh lại.

Dì Út nghe ông anh hối mở cửa, bèn đi lò mò trong bóng tối, tiến thẳng về hướng giữa nhà để lấy cái hột quẹt đá, đang nằm kế bên cây đèn dầu hôi đặt trên đầu tủ thờ.

Dì bật quẹt, kề ngọn lửa vào tim đèn. Vừa cháy lên là dì lật đật chụp thật nhanh cái ống khói vào. Động tác nầy phải làm thật nhanh, nếu không mấy ngón tay bám vào ống khói sẽ bị phỏng, bởi nó- ống khói- làm bằng thủy tinh trong và rất mỏng nên nóng hết sức nhanh..

Dì Út thấp sáng cây đèn xong liền rút cây then bằng gỗ me nước nặng trịch ra.

Vừa mở cửa dì vừa hối:

-Anh vô lẹ đi, dắt chiếc xe theo luôn đặng em đóng cửa liền hông thôi mưa tạt.

Cậu Ba dắt xe đạp vào nhà. Trên cái bọc ba ga là một gói rất to có miếng ni lông trùm kín, được ràng bằng sợi dây thun đen thùi làm bằng ruột xe hơi.

Dì Út hỏi:

-Anh chở cái gì mà kềnh càng dữ vậy?

Cậu Ba móc tờ giấy trong túi ra đưa cho Ý. Cậu vừa tháo sợi dây ràng vừa nói:

-Có một thanh niên đem thùng quà nầy tới giao cho cậu. Y nhờ chuyển cho cháu gấp.

Ý cầm tờ giấy lịch mỏng te, bị thấm nước mưa nên ướt nhẹp lên tay một cách e dè. Cô chưa chịu mở ra xem liền mà hỏi:

-Y ta có nói tên gì và ở đâu hông cậu?

Cậu Ba giục:

-Y không xưng tên, cậu cũng không có hỏi. Cháu coi thơ là biết liền mà.

Ý cẩn thận mở thư ra, mực ngấm nước bị lem nên chữ nầy gác chữ kia rất khó đọc. Ý đang mò mẫm thì cậu Ba đã đặt thùng hàng lên bộ giạt tre.

Ý nhìn thùng quà trân trân, mặt tái nhợt như đang thấy ma. Rung giọng hỏi:

-Cái thùng nầy sao lại ở đây?

Cậu Ba trả lời:

-Cái người viết cái thơ nầy đem tới đó

Ý nghe hai chân rung bắn, đứng hết nổi nên ngồi phịt xuống tấm giạt.

Cậu Ba thấy Ý thất thần liền lấy tờ giấy trong tay Ý lại. Cậu mang lá thơ đến gần sát ngọn đèn rồi đọc to để mọi người cùng nghe.

Phải mấy phút sau Ý mới định thần.

Cô hối dì Út:

-Dì lấy cho cháu mượn cây kéo để cắt mấy sợi dây nầy ra liền đi.

Dì Út bưng cả cái rỗ may ra cho nhanh. Dì lấy cái kéo màu đen, được rèn từ thanh sắt của cái nhíp xe đã gảy, không đưa nó cho Ý mà tự cắt.

Những cái hủ nhựa đựng mắm ruốc, thịt, cá chà bông và mấy gói kẹo vẫn còn nguyên chưa mở. Ý moi cái gói cà phê lên, tháo sợi dây thun cột miệng rồi trút ra. Bột cà phê đã kết lại thành một khối, nó thấm một lượng nước rất ít nên không tan chảy nổi.

Chưa yên tâm, Ý mở nắp hộp thịt cà bông, xóc hoài cho đến khi tờ giấy nằm dưới đáy trồi lên mặt. Ý không mở ra đọc, nắm chặt nó trong tay mà khóc một cách tức tửi.

Dì Út và cậu Ba nhìn Ý rồi nhìn nhau với nét mặt chưng hững. Họ không hiểu tại sao đứa cháu gái của mình lại khóc một cách thê thảm như vậy.

Dì Út thấy Ý không thèm đưa tay lau những giọt nước ràn rụa trên mặt thì thương quá. Dì kéo vạt áo của mình lau mặt cho cháu rồi cầm lòng không đậu cũng khóc theo rấm rức.

Cậu Ba nhìn Ý rồi nói:

-Hôm cháu về đây cậu đã thấy nghi rồi. Cháu hay tránh trả lời mấy câu hỏi về anh chị Hai và con Thu con Bích. Cũng không chịu ngủ với ngoại, còn đòi đi thăm dì Út liền nên cậu biết ngay là có chuyện chẳng lành. Bây giờ không có bà ngoại ở đây, cháu nói hết cho dì với cậu nghe cho nhẹ lòng đi. Có như vậy mọi người mới biết để tránh chạm tới cái vết thương trong lòng của cháu.

Ý vẫn khóc mùi mẫn. Cô không dừng được, cũng không mở miệng nói nổi một lời nào.

Dì Út bỗng nức lên rồi kể thay Ý:

-Anh Hai, chị Hai với hai đứa kia vượt biên chết mất xác rồi anh Ba ơi! Con Ý nhờ thương một ông sĩ quan đi học tập. Nó không nở bỏ cậu ta mà đi nên trốn trên bờ, không chịu xuống tàu với gia đình. Nó định về đây ở luôn với má và mấy anh em mình đó!

Cậu Ba buông người xuống tấm giạt, nghẹn ngào không thốt nổi một lời. Cậu muốn đưa tay vuốt tóc đứa cháu để bày tỏ sự cảm thông của mình mà cũng làm không nổi.

Dì Út như chợt nhớ ra nên hỏi Ý:

-Phải đây là thùng quà có cái gói cà phê mà cháu nói đó hông?

Ý gật đầu.

Dì Út chợt hiểu ra ý nghĩa của những chữ trong bức thư ngắn ngủi đó. Dì ôm chầm Ý bằng cả hai tay rồi nói thật to gần như hét:

-Cháu thoát tội rồi Ý ơi! Cái thùng hàng chưa mở ra. Mấy gói đồ ăn còn nguyên. Bịt cà phê cũng còn nguyên, nó không có giết ai hết!

Ông cậu ngồi như tượng bên cạnh đứa cháu gái mà mình thương nhứt. Ý vẫn khóc mùi, khóc mẫn.

Dì Út đưa mắt nhìn ông anh một cách cầu khẩn. Bắt gặp tia mắt đó, ông biết cô em gái đang đòi hỏi ở mình điều gì nên lắc đầu thật nhẹ để đáp lại.

Có những bức tường rất cao, rất dày...Có những nỗi buồn quá sâu... nên ngôn ngữ đành bất lực, chẳng thể xuyên qua, chẳng thể chạm vào tận đáy.

Nỗi buồn tuy vô biên nhưng nước mắt lại hữu hạn.

Khi hai vạt áo của dì Út không còn có thể thẩm thấu thêm được nữa! Khi cây đèn ống khói đã uống cạn cái lượng dầu trong bình, bắt đầu ăn đến cái tim của nó rồi cho ra mấy lọn khói đen xì... Ý cũng thôi khóc, hay vẫn khóc mà không còn nước mắt để rơi thì cậu Ba đứng lên đi về.

Cậu nói với Ý bằng giọng tâm tình:

-Cậu biết mất người mình yêu là buồn đến mức nào. Nhưng cuộc đời là một dòng sông, phải vứt hết hành lý để ngoi đầu lên mà bơi thôi! Bây giờ cháu hãy nghĩ đến những món nợ tình cảm phải trả cho thân quyến, bạn bè của mình. Cháu cần phải ráng sống, ráng vui. Đừng để cho ngoại, dì, cậu... cùng những người thương cháu phải chịu cảnh đau lòng giống như cháu hiện giờ.

Dì Út gật đầu:

-Cậu Ba nói đúng đó! Cháu mà buồn rồi bịnh, dám bà ngoại cũng bịnh vì buồn theo luôn.

Dì Út nhìn cậu Ba rồi hỏi:

-Bây giờ mình phải nói với má như thế nào đây anh Ba.

Cậu Ba đáp liền:

-Má yếu lắm rồi, phải giấu nhẹm chuyện nầy. Không nói cho má cũng không hở môi cho ai biết hết! Nếu má có nghi ngờ mà tra hỏi gắt gao thì cô phải lựa cách nói sao cho má yên tâm.

Ngẫm nghĩ một lát, ông nói tiếp:

-Cô cứ nói anh chị Hai lúc nầy bận làm ăn hay buôn bán gì đó! Không có rảnh như lúc trước nên sai con Ý về thăm, bảo nó phải ở lại săn sóc bà ngoại.

Ông nhìn dì Út rồi gằn giọng:

-Cô nhứt định không được nói cho ai cái vụ gia đình chị Hai chết ngoài biển nghe hông! Tới tai chính quyền là không những con Ý mà gia đình mình cũng gặp rắc rối nữa đó! Mấy cái chuyện nầy ai mà nghe được thì khó mà giữ trong bụng lắm. Nhứt là cái thằng chồng của cô đó!

Ý hết hồn! May mà ông dượng đi vắng nên không nghe được, nếu không...

Dì Út phật ý, giọng quạu đeo:

-Sao anh xem thường ảnh quá vậy? Nghèo đâu đồng nghĩa với xấu. Người học ít hơn anh đâu có phải họ ngu hay thấp hèn hơn anh! Ảnh trót sanh ra trong cảnh cơ hàn, ông trời vốn đã bất công rồi còn bị thiên hạ rẻ rúng nữa. Thiệt là tàn nhẫn hết sức!

Cuộc hôn nhân của dì Út khiến gia đình mất mặt. Đến bây giờ ông anh vợ vẫn không ưa người em rể. Kẻ mà ông cho rằng rắp tâm phá hoại gia đình mình.

Ông nhìn dì Út bằng nửa con mắt rồi nói:

-Thì cái tình thương mà ổng và mọi người dành cho nó bị cô gom hết rồi. Còn chút nào nữa đâu mà chia cho người khác? Bởi vậy bây giờ mới phải chui về đây ở. Đang là giáo viên trường lớn, cái rồi xin chuyển về đây dạy ở cái trường nhỏ xíu, lèo tèo có mấy đứa học trò.

Dì Út cũng chẳng vừa, đốp chát lại liền:

-Nhờ vậy mà tha hồ sống theo sở thích, làm việc theo lương tâm mình. Không cần chạy theo thành tích. Khỏi bị ai xăm xoi bắt bẻ. Khỏe re.

Dừng lại một lát rồi dì nói tiếp:

-Nhờ vậy mà thanh thản đầu óc, lâu già. Còn anh đó, ôm cái trường bự tổ chảng nên tóc bạc trắng.

Thấy cô em gái còn chưa đã nư, mở miệng định nói nữa, ông liền át giọng:

-Bây giờ cái chuyện quan trọng nhứt là lo cho má đây nè! Không lo nghĩ cách nói cho xuôi, ở đó mà lo đôi co. Cái miệng cứ tươm tướp...

Dì Út định cự lại bỗng bắt gặp tia mắt buồn thiu của Ý nhìn mình như van xin liền tắt tiếng. Nỗi xấu hổ vụt dâng trào như sóng, chụp tắt ngay lập tức ngọn lữa giận đang phừng phừng trong lòng dì. Dì Út cảm thấy mắc cỡ, nhủ thầm: "Cháu mình đang trong tâm trạng buồn thảm như thế nầy mà hai anh em còn gây lộn được sao?"

Dì Út hỏi, giọng đã dịu lại:

-Rủi má đòi mình đưa lên Sài gòn thăm ảnh chỉ thì sao?

Cậu Ba đáp:

-Thì mình nói là mắc đi dạy nên chưa rảnh.

Trầm ngâm một chút cậu lại nói:

-Dè chừng vậy thôi chớ má dễ gì chịu đi xa. Má ghét ở Sài gòn lắm! Má nói cái xứ gì mà ở nhà như ở tù. Đi vô, đi ra gì cũng phải mắc công mở ra, đóng vô hai, ba lớp cửa...

Rồi quay lại nhìn Ý, ông nói:

-Con ở chơi với dì Út một ngày nữa thôi rồi về liền để ngoại khỏi nghi. Người lớn tuổi tinh ý lắm! Ngoại cũng đang nhớ con, cứ hỏi chừng nào con về.

Ý nghe vậy thì nói:

-Vậy con về với cậu luôn để khỏi mắc công dì Út đưa ra.

Ánh sáng hấp hối của ngọn đèn cứ mòn mỏi dần rồi tắt rụi. Dì Út lại mò mẫm đi vào buồng, cầm theo cái hột quẹt để đốt cây đèn trứng vịt mà dì vừa mới tắt trước khi đi ngủ.

Ý đi theo dì, lấy bộ đồ mới giặt hồi chiều còn ướt, đang máng trên sợi dây kẽm treo cặp vách, xếp lại rồi cho vào túi xách. Khăn tắm của dì Út đã quá cũ! Ý cố tình bỏ quên cái khăn còn mới tinh của mình đang phơi chung một chỗ với bộ đồ, để lại cho dì dùng.

Dì Út biết vậy nên rút cái khăn xuống đưa cho Ý mà nói:

-Khăn là tang, là chế đó con. Đi tới nhà ai nhớ đừng bỏ lại, người ta kỵ lắm đó! Mai mốt đừng tặng khăn cho người mà mình thương...

Nói tới đó dì biết mình đã lỡ lời nên nín ngang.

Ý đáp, giọng buồn thiu:

-Chắc con không thương ai nữa đâu dì!

Dì gạt phắt:

-Chuyện nầy không có nói trước được đâu. Hồi chồng chưa cưới của dì tử trận, dì cũng nghĩ mình không còn có thể thương ai được nữa. Vậy mà...

Dì lại bỏ lửng. Ý cũng chẳng buồn gặng hỏi.

Mưa đã tạnh. Bên ngoài, trời đã hơi sáng lên một chút, nhờ ánh trăng đang vạch đám mây mỏng, đưa gương mặt mới tròn được một nửa của mình ra ngoài.

Cậu Ba vừa dắt xe ra, vừa hối:

-Mình về lẹ đi con! Để ngoại ở nhà một mình, cậu không yên tâm chút nào.

Ý vừa leo lên ngồi là bị dì Út kêu giựt ngược:

-Khoan, khoan...Còn cái thùng hàng nữa.

Ý lắc đầu nói:

-Con không đem theo đâu. Dì muốn để lại dùng hay cho ai tùy ý.

Dì Út năn nỉ:

-Đem hủ cá với thịt chà bông về cho ngoại ăn cháo trắng. Nhiều quá dì ăn không hết mà bỏ thì uổng lắm! Đem bịt cà phê cho cậu...

Ý ngắt lời, nói một cách cương quyết:

-Để con mua cá, mua thịt về làm cho ngoại, mua cà phê khác cho cậu.

Dì Út biết Ý chịu không nổi khi thấy chúng nên thôi không ép nữa. Dì đứng nhìn theo cho đến khi con đường lầy lội nuốt chửng họ. Nhìn lên trời thấy mây đen bắt đầu tụ lại sắp che lấp mặt trăng, dì Út sợ trời lại mưa nên lẩm bẩm: " Đừng mưa nữa ông ơi, tội nghiệp cháu tui".

Ông trời chẳng thèm đoái hoài tới lời van xin khẩn thiết ấy. Bắt đầu giáng một tiếng sấm chát chúa, làm xẹt ra mấy tia lửa điện ngoằn ngoèo. Sau màn mở đầu hết sức hoành tráng đó ổng mới bắt đầu nhúng tay vào thau nước mà vẫy đều bốn phương, tám hướng. Những hạt mưa lưa thưa bắt đầu rơi nhè nhẹ rồi từ từ nhanh dần và dày đặc.

Dì Út nghe thương Ý quá, nghẹn ngào mà không khóc nổi. Chắc cái cơn tức do ông anh gây ra vừa rồi, đã khiến nước mắt của dì bốc hơi hết ráo!