← Quay lại trang sách

Một ngày trên quê hương

Tôi quen một người bạn miền Bắc khá thân. Trong những chuyến ra thăm Hà Nội, tôi và người bạn thường đạp xe qua các khu phố cổ nhỏ, có khi vượt đê Cổ Ngư, lên tận Quảng Bá, nơi tôi đã có lúc lưu lại vài ngày, tập tành làm một anh “tẩm” (từ của dân Hà Nội dùng để chỉ người sống ở thôn quê). Hai chúng tôi cùng mê cái hương thơm thoang thoảng của hoa sữa trong những đêm đầu thu thanh vắng và những khoảng xanh thoáng mát của cỏ, cây và những mặt hồ trầm lắng của Hà Nội.

Người bạn trẻ của tôi tốt nghiệp khoa tâm lý từ một viện đại học ở Moscow, về nước làm ở Ủy ban Khoa học xã hội, chuyên về tâm lý trẻ em. Ngoài giờ còn phụ thêm ở Trung tâm trẻ khuyết tật và thực hành trị liệu tâm lý cho trẻ em “có vấn đề” ở Bệnh viện Đống Đa. Tối đến còn đứng lớp Anh ngữ dành riêng cho người lớn tuổi ở Trường Amsterdam, trong khu Giảng Võ.

Quần quật suốt ngày với một lịch “kín” như thế, nhưng đời sống của bạn tôi rất chật vật, nếu không nói là rất túng quẫn. Chỉ cơm rau qua ngày, áo quần giản dị, nhà trọ nhếch nhác tạm bợ. Thế mà từ người bạn vẫn toát ra một phong thái lạc quan, tự tin, tự mãn rất hiếm hoi giữa dòng người qua lại đương thời. Tôi chưa từng nghe người bạn trẻ của tôi than phiền bao giờ. Tôi quí và trọng người bạn tôi là vì thế.

Chiếc xe đạp của người bạn vốn đã già nua, trở nên quá tải khi phải gánh sức nặng của hai người “trí thức”. Đôi lúc chúng tôi phải dùng chân để thắng những khi phải lách giữa rừng xe cộ hỗn tạp. Có lúc tôi đã cố tìm một dịp để “phục chế” (và nếu có thể “tân trang”) chiếc xe để bảo đảm an toàn tối thiểu cho người sử dụng. Và tôi đã nhân lúc chờ người bạn đang thực hành trị liệu ở Bệnh viện Đống Đa (với thù lao 5.000 đồng cho hai giờ) để thực hiện ý định đó.

Người sửa xe trước cửa bệnh viện trông đã ngoài sáu mươi, hẳn là một hưu viên kiếm tiền độ nhật, dáng thanh nhã, ăn mặc gọn ghẽ. Ông quan sát tôi từ đầu đến chân. Có lẽ thấy tôi mang giày, áo bỏ vào quần tử tế, ông hỏi tôi như muốn diễn tả một điều thương xót cho người đồng cảnh:

- Ông làm sao mà đến nỗi phải đi chiếc xe đạp khổ sở như thế này?

Khi tôi giải thích cho ông sở hữu chủ của chiếc xe là bạn tôi, người đang phụ trách chữa trị tâm lý ở bệnh viện đối diện, ông không nói gì, làm như chăm chú vào việc sửa chữa bộ thắng. Một lúc sau, vẫn không nhìn lên, ông nói như cho chính mình trong một tiếng thở dài:

- Như thế thì nhiều người quả là có tội!

Để khỏi chờ đợi, tôi hẹn người sửa xe sẽ trở lại trong vòng một giờ. Tôi thả bộ dọc theo con đường trước bệnh viện, cố tìm một “cái gì” giản tiện cho bữa ăn trưa. Tôi để ý đến một bà cụ với mấy cái bánh chưng bày bán trên một chiếc thùng gỗ nhỏ, dùng như sạp hàng. Chỉ cần một cái đảo mắt là có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ “cái gọi là quầy hàng” của bà. Rất giản dị: hai cái bánh chưng bằng lòng bàn tay trẻ con, vài gói hạt bí, mấy gói đậu phụng rang, một ấm nước vối và một ống điếu cho “khách” hút… nhờ (phải mang thuốc theo). Tôi đoán chừng “tổng giá trị” của cả quầy hàng quy ra tiền khoảng chừng 15.000 đồng. Được một điều là mọi thứ đều được xếp đặt ngăn nắp và sạch sẽ, một chuyện khá hiếm hoi ở Hà Nội. Tôi chọn cụ bà là vì thế.

Cụ bà mời tôi ngồi trên chiếc đòn con. Tôi “gọi” một cái bánh chưng và một bát nước vối. Bà lặng lẽ ngồi nhìn tôi ăn và lặng lẽ thu nhặt những chiếc lá tôi đặt trên mặt thùng, không xun xoe, không mời đón rộn ràng như điều tôi đã quen ở mọi miền đất nước. Không thấy bà cụ rót nước tôi nhỏ nhẹ nhắc chừng:

- Xin cụ bát nước vối.

Không vội vàng, bà cụ thản nhiên trả lời:

- “Bác” cứ thong thả xơi bánh. Ăn xong, “em” sẽ mời bác dùng nước. Vừa ăn, vừa uống không tốt cho dạ dày.

Tôi nhìn (thật ra phải nói là ngắm) bà cụ, rồi quay mặt ra quãng đường chói nắng, nước mắt tự nhiên ứa ra. Một chút gì vừa ướt, vừa cay, rất riêng tư. Tôi không muốn giải thích sự xúc động đột ngột này (làm sao giải thích được?), nhưng có một điều gì đó khiến tôi không an tâm. Việc một bà cụ ngoài tám mươi dùng “ngôn ngữ xã giao” tôi đọc đâu đó trong những tác phẩm của Ngô Tất Tố (diễn tả một xã hội phong kiến đầu thế kỷ) đã khiến tôi nghi ngờ về bước đi của thời gian, hơn là buồn lòng cho số phận già nua, hẩm hiu của một đời người.

Trên dải đất thân yêu của đất nước đang được vực dậy từ muôn vàn những khó khăn, tôi đã gặp vô số những đồng bào như thế. Cứ vậy, thản nhiên, không giành giật, không kêu than. Họ đã đối xử với tôi rất thân thiện, rất chí tình dù không quen biết, hoặc trong buổi sơ giao tình cờ. Tôi biết ơn và quý trọng họ biết mấy!

Nếu ai đặt cho tôi câu hỏi: tại sao tôi thiết tha trở về với quê hương, tôi sẽ không có một câu trả lời nào dứt khoát và văn hoa. Nếu đọc những chuyện tầm thường ở trên, chắc họ sẽ hiểu. Đất nước ta đã tồn tại và vươn theo lịch sử với những người bình thường như thế!

Amsterdam, tháng 12-1993