Về miền Trung
Quê hương em nghèo lắm ai ơi!
Tôi gặp người đàn bà đó lần thứ hai, hầu như vào cùng một thời điểm và ở cùng một địa điểm như năm ngoái trước chợ Đông Ba (Huế), nơi mà những tàng cây thấp lè tè, dù có quằn người vặn vẹo đến kiệt lực cũng chỉ đủ sức hắt một chút bóng mát xuống mặt đường nhựa cứ như nhảy đựng lên vì phỏng lửa, dù đã vào giữa tháng Tám. Ở khoảng trống đó, những người “trốn nắng” tạm thời thường được “mời” mua vé số. Phải dùng chữ mời mới đủ diễn đạt cái cung cách tuy thiết tha nhưng chừng mực của những người bán vé số ở Huế. Họ không giống những “đồng nghiệp” xông xáo, có lúc rất phiền hà, ở các nơi khác trên toàn quốc. Ở họ toát ra một tác phong “nghiệp dư” rõ ràng như muốn nhắn nhủ người xung quanh: “Này, tôi chỉ bán vé số cầm chừng, tạm thời cho vui thôi nghe”!
Lần này, vì nắng chói chang, tôi đội một cái mũ gần phủ hết mặt. Người đàn bà từ mái hiên của chợ Đông Ba bước ra, hướng về phía tôi với một đôi mắt không mở hết vì nắng gay gắt, khiến những điều muốn bộc lộ như bị đẩy thêm thật sâu vào tận cuối đáy mắt. Rõ ràng là cái nhìn đó không phải nhằm để tạo sự thương xót cho chính bản thân bà, khiến bạn động lòng ra tay làm một nghĩa cử, vì tập vé số trước sau vẫn còn nằm nguyên vẹn trong lòng tay nắm chặt. Tôi nghe một tiếng thở dài phát ra từ cặp môi nhăn nheo như khô cháy đi vì những cơn gió Lào dai dẳng: “Đi mô mà nắng nôi rứa?”.
Thế ra cái nhìn thương tâm ấy là dành cho tôi, một người ăn mặc khá chu đáo, đang trú nắng an toàn dưới bóng cây! Cái lối chia sẻ tình mẫu tử giữa đường, từ một người không quen, không biết ấy khiến tôi sững sờ. Những hành động tiếp theo đến từ vô thức, nhẹ nhàng xuôi chảy như dòng sông êm ả sau lưng. Tôi mở bàn tay của bà, lấy ra tập vé số, chọn vài tấm, trả tiền, rồi nhét trở lại vào túi của chiếc áo cánh lụa màu mỡ gà ủi rất kỹ. “Xin biếu bác. Mong bác được may mắn hơn cháu”. Cho đến nay, tôi vẫn cho đó là cách ít xúc phạm nhân cách con người nhất, mặc dầu cuộc “trao đổi” xem ra không sòng phẳng chút nào. Điều phiền là tôi không bao giờ mua vé số vì không tin vào những chuyện “lộc trời cho”. Đồng thời, trong những ngày tìm về nguồn, tôi cũng đã thấm thía sự tôn vinh tuyệt đối về phẩm giá của người miền Trung (và cung cách đài các của các ‘mệ’), cái xứ Huế “đói nhăn răng, nhưng vẫn ngẩng cao đầu” của tôi.
Phản ứng của người đàn bà (dĩ nhiên) là dễ hiểu. Cũng với cử chỉ dứt khoát, nhưng khoan hậu của năm ngoái, bà nhất định buộc tôi nhận lại những tấm vé số tương ứng với số tiền tôi đã biếu. Có một chút gì chua xót trong cái nhìn kèm theo cử chỉ từ chối của bà khiến tôi nghẹn lời.
Vóc dáng khiêm nhường của người đàn bà vừa di chuyển khỏi vùng bóng cây, chưa kịp nhòa ra trong nắng xế trưa, đã quay trở lại: “Tui nhớ rồi. Anh là người tôi đã gặp năm ngoái”. Và không đợi tôi trả lời, bà lặng lẽ quay đi. Tôi đứng tần ngần nhìn theo bà, nước mắt cứ chực ứa ra, tự nhủ thầm mình đã quá lẩn thẩn.
Xứ Huế của tôi vào mùa hè như thế đó: nắng thì thừa mứa mà bóng mát thì hiếm hoi, tựa như điều nghịch lý muôn đời giữa mức gia tăng hào sảng về dân số và độ dè sẻn trong ban phát về tài nguyên thiên nhiên, khiến người miền Trung suốt đời phải loay hoay với cái “vòng kim cô” truyền kiếp, nặng nợ cơm áo thường tình. Mặc kệ số phận bạc bẽo, đa số những con người ở cái nơi “mưa thúi đất, nắng cháy da” đó vẫn trụ lại, không chao đảo giữa những kêu réo, lôi cuốn rầm rộ của “kinh tế thị trường”, với niềm tự hào muôn thuở, chẳng ... “bán đi mà ăn được một bữa!”, như có người vẫn chua cay.
Mùa hè năm nay tôi đã đi dọc theo dãy Trường Sơn, qua những “xẻo đất” mỏng, gầy gò như những tấm lưng mong manh của các cô gái miền Trung. Điều làm tôi sững sờ vẫn là sự nghèo khó đến mức đau lòng và cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa tuyệt diệu của những nơi đã đi qua. Khách đi tàu xuyên Việt không khỏi thương cảm cho những người đàn bà gồng gánh, chân trần chạy qua những đồi cát cháy bỏng ở Quảng Trị, nơi mà những ngọn cỏ non chưa kịp ngậm sương buổi sớm đã bị mặt trời nung đến khô queo, đến nỗi chỉ cần đụng tay vào là bay tơi tả như bụi tro. Những đồi cát bao quanh Đông Hà trắng đến nhức cả mắt, như thể đã được nắng và mưa gạn lọc hết từng chút cặn, chút rác từ khối tinh thể nóng bỏng ấy qua bao nghìn năm. Từ Quảng Bình đến tận Thanh Hóa, đa số vẫn là nhà tranh vách đất, với những vồng sắn, nương khoai, gốc mít... muôn thuở. Nơi đây tôi đã giật mình khi thấy đông đảo trẻ chăn trâu ở lớp tuổi cháu mình, đứng dọc theo đường ray xe lửa ngửa tay xin tiền hoặc nài nỉ bán những trái chanh còm cõi (đặc sản của địa phương!) cho khách đi tàu. Thế nhưng, cũng bên cạnh những điều đau lòng đó, tôi đã tìm thấy những tấm lòng và thiên nhiên tuyệt vời của quê hương miền Trung.
Có lẽ điều khiến tôi bàng hoàng nhất là vẻ đẹp kỳ bí của những con sông. Những con sông có những cái tên đẹp (Thạch Hãn, Nhật Lệ…) như trong truyện thần thoại, cứ men theo các triền núi mà đi, dòng nước trong veo, như vắt hết mồ hôi của đất, đá và cây cỏ của những vùng đi qua trên đường hẹn hò trùng phùng với biển. Ngay đến núi cũng muốn chia sẻ tâm tình với con người. Cũng cùng nằm trên một dãy Trường Sơn dài như thân rồng bất tận, nhưng qua khỏi Nghệ An, giáp ranh Thanh Hóa, núi bỗng rướn mình, nổi gai góc, vươn những cánh tay đâm thẳng lên trời cao, như muốn cùng con người phản đối số kiếp thảm thương, lam lũ của mình. Sự thân thiết giữa con người và nguồn sống càng trở nên rõ ràng ở những nơi mà sự nghèo khó hầu như đã đạt đến tột đỉnh. Người nông dân ở Quảng Bình và Hà Tĩnh thường xuyên phải giành giật từng hạt lúa với thiên nhiên tàn bạo, từng giây, từng phút, đến nỗi thường dựng nhà, che mái cùng gia đình sống giữa đồng ruộng, như muốn ôm lấy chân cây lúa mà ngủ, mà nâng niu.
Tôi trở lại miền Trung của tôi như một “đứa con hoang tìm về vùng ngực mẹ”. Những con sông, những ngọn núi và những con người khoan hòa và đôn hậu đó (như người mời vé số vô danh ở Huế) đã thúc giục tôi trở về với quê hương nghèo khó của tôi, đầu ngẩng cao hơn.
Tôi mong mọi người đều có được một quê hương để trở về, như tôi!
10-1994