← Quay lại trang sách

Nửa ngày ở Hà Nội

Sương mai còn đọng trên cành

Gánh quà trong sớm biết dành cho ai?

Anh Độ, 1954

Cuối cùng tôi chỉ ở Hà Nội được nửa ngày. Cô thư ký trẻ bận bịu suốt hai hôm vẫn không thể nào đổi chuyến bay vào buổi sáng. Thấy tôi nhăn nhó, cô giễu: “Chú thuộc loại Việt kiều chân không chạm đất, trả tiền thì theo giá tây, nhưng ưu tiên thì xếp theo danh sách ta.” Sự việc giản dị như thế, có gì phải bực mình. Ít ra, tôi cũng được hưởng nửa ngày thu tuyệt đẹp ở Hà Nội.

Tôi đã nhiều lần đến Hà Nội, nhưng chưa lần nào được thưởng thức cái đẹp riêng biệt của mùa thu ở miền Bắc. Lần này đến Hà Nội trời đã vào chiều, một thời khắc mà bình thường, trời đang nhàn nhã nhả một mảng đen nặng nề xuống góc phía Tây, từ từ nén từng làn ráng đỏ muộn màng tan dần ở cuối đường viền chân trời. Chiều cuối thu ở Hà Nội rất lạ. Khung trời như được vén cao hơn, rộng hơn. Cả một vùng không gian bát ngát như được tưới một màu xanh trong suốt như ngọc thạch. Trời xanh, nước xanh và cây cũng xanh biêng biếc. Trong bầu không khí thoang thoảng lan tỏa ra từ mầu xanh mênh mang đó, khách nhàn du bỗng dưng cảm thấy một chút xao xuyến, nôn nao trong lòng. Một chút nhớ, một chút quên, nhập nhằng nhưng rất êm ả.

Đi dọc đường Thanh Niên, nhìn ra mặt hồ nhạt nhòa một lớp sương mong manh thoáng hơi lạnh buổi hoàng hôn, người-khách-nửa-ngày bỗng thèm một bàn tay mềm ấm, nồng hương thơm ủ lá sen của cốm làng Vòng. Người sẽ đi như trong mơ suốt con đường bao phủ lá xanh phượng vĩ, cắt đôi hai vùng hồ vắng lặng chừng như đã ngủ quên suốt cả mùa thu dài. Ai đã oái ăm dựng lên con đường đẹp thần kỳ đến thế nhỉ? Chắc ai đó hẳn rất thiên vị, đã dồn hết tất cả tinh túy, trữ tình của thiên nhiên về phía Hồ Tây. Quanh bờ hồ bên kia, phía Ngũ Xã không còn thấy bóng dáng một... cây trúc trắng (!) nào. Những bảng quảng cáo điện quang cắt xé màn đêm thành từng mảng, như một đám khủng long quấn quýt, cấu xé lẫn nhau, làm xốn xang cả mắt và tâm tư của khách dạo như trong những đêm thanh vắng.

Trong nửa ngày ở Hà Nội, tôi đã nuốt vội vàng màu xanh giăng tỏa của trời đất đang dần dần thu nhỏ lại của một địa danh vốn rất dư thừa cây cỏ và sông nước. Tôi đã ngửa cổ hít đầy vào hai buồng phổi chút hương thơm váng vất tỏa xuống từ những chùm hoa sữa, vào nửa khuya trên đường Quán Sứ. Đó là một chút mảng xanh, một chút hương thơm còn sót lại sau cuộc lột xác thần sầu, nhanh đến chóng mặt của Hà Nội. Cái làng “cổ truyền” phân chia rạch ròi ba-mươi-sáu-phố-phường trong thoáng chốc bỗng trương phình ra như một anh khổng lồ tham ăn, lại nhẫn tâm dứt tung những “núm vú” đã miệt mài nuôi sống mình suốt hàng ngàn năm. Ngồi ở “nhà thủy tạ” thả mắt nhìn ra phía xa, khách nhàn du không còn mường tượng ra được những mảng rau xanh, những luống hoa màu rực rỡ của Đông Anh, Ngọc Hà, Thanh Trì, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân... Bốn phía chỉ là nhà, nhà và nhà. Những khối bê-tông nặng nề, những “tháp” nhọn đầy màu sắc, quê kệch, lạc điệu và vô hồn, níu tay nhau, đẩy những mảng xanh hài hòa cây-cỏ-sông-nước ra tận những vùng quê tít mù khơi! Suốt đêm đó, tôi không ngủ được trong một niềm tiếc nuối như vừa đánh mất một cái gì đó rất đỗi yêu thương.

Chắc chắn là tôi đã không quên ghé qua hồ Hoàn Kiếm, nơi tôi đã ôm ấp một phần đời mơ mộng thuở thiếu thời về một huyền thoại lịch sử và những mối tình lãng mạn đầy đắng cay đầu thế kỷ. Nhưng phải thú thật rằng hồ Thuyền Quang lặng lẽ như một đứa con èo uột xấu số giữa một gia đình đầy dẫy giai nhân, mới chính là nơi tôi gần gũi nhất trong những lần ngắn ngủi ở Hà Nội. Nó nằm gần nơi tôi thường ở trọ. Vào buổi rạng đông, con đường dạo quanh hồ trở nên sinh động với cảnh người tấp nập tập thể dục sáng và những gánh hàng rong sớm. Những người tập thể dục đến từ những “khu tập thể” bình dân gần đó và những gánh hàng rong đến từ những “núm vú” bao quanh Hà Nội. Thông thường, nếu có thì giờ tôi vẫn nhập chung với những người dậy sớm đó, cùng hít thở không khí trong lành buổi sáng, làm một vài động tác thể dục cho nóng người, rồi dừng lại ở một chị hàng rong, mua một củ khoai, khúc sắn rồi hít hà vừa thổi vừa nhai, như một gã... đói ăn!

Cũng cái cảnh sinh hoạt quen thuộc sáng sớm quanh bờ hồ, nhưng vẫn có một cái gì khang khác. Gió thu heo may hay cái dáng vẻ mới của một Hà Nội đang bắt đầu tập tành làm dáng? Tôi tò mò quan sát một người lớn tuổi đang tập dưỡng sinh. Những động tác cắt ra từng chi tiết rời rạc, chậm rãi đến cường điệu. Rất Hà Nội! Và còn gì nữa nhỉ? Những khuôn-mặt-không-đoán-được-tuổi, xanh xao như mang theo cả trời đêm thăm thẳm suốt con đường đê từ làng dẫn ra mấy cửa ô Hà Nội, mệt mỏi bên những thúng xôi hoặc sọt khoai, sắn tầm thường ủ dưới lớp bố gai, đặt sau chiếc xe đạp có quai sắt. Mệt mỏi là phải! Những cô gái làng muộn-màng-tuổi-xuân đó chắc chắn phải thức dậy từ tờ mờ sáng để kịp chuẩn bị cho cái “thương vụ” cỏn con, nhưng đầy truyền thống của mình, rồi còn bươn bả trên chiếc xe đạp cà khổ qua con đường dài ngoằng lồng lộng gió sớm, vào Hà Nội trước bình minh. Tương lai của họ sẽ ra sao trong cuộc thoát xác cao tốc của Hà Nội?

Dĩ nhiên tôi không ích kỷ đến nỗi chỉ muốn Hà Nội phải dừng lại trong hoài niệm và mơ tưởng hão huyền. Hà Nội phải lột xác, thay da đổi thịt để xứng đáng với tư thế của một thủ đô. Nhưng Paris, Rome, Budapest, Vienne, Amsterdam ... cũng đã phát triển trong mối hài hòa đầy tính mỹ thuật giữa tân kỳ và cổ truyền. Tôi vốn yếu lòng, chỉ sợ rồi đây mình sẽ trở nên lẩm cẩm, học đòi người xưa ngâm nga đôi ba bài “Thăng Long thành hoài cổ” của bà Huyện Thanh Quan, chỉ làm bận lòng người thêm.

Trở về Bangkok, trời tự nhiên trở lạnh. Những sinh viên gốc Bắc nói đùa là tôi đã mang theo một chút hương thu của Hà Nội sang. Có lẽ một chút ưu tư thì đúng hơn!

Hà Nội - Bangkok, cuối tháng 10, 1995.