Một ngày trên ba biên giới
MỘt
Để đến Ubon Ratchathani, cách nhanh nhất là theo một trong những chuyến bay (độc quyền) của hãng Hàng không Thái. Chỉ khoảng 50 chục phút bay, bạn đã đến được thủ phủ nằm ở biên giới Đông Nam của Thái Lan, cách thủ đô Bangkok hơn 600 cây số. Các phương tiện công cộng khác như xe lửa và xe buýt đường dài cũng rất tiện lợi và có giá cả phải chăng. Tôi đã chọn giải pháp đường bộ để có dịp ngắm kỹ càng hơn vùng đất chuyên về nông nghiệp, được xem là kém phát triển nhất của nước Thái, nhưng lại là nơi sinh sống của nhiều kiều bào người Việt.
Cộng đồng kiều bào người Việt ở Thái Lan thường tập trung ở hai tỉnh Udon Thani (ở phía Đông Bắc, tiếp giáp với Lào) và Ubon Ratchathani (ở phía Đông Nam, tiếp giáp với biên giới Lào và Campuchia). Nhìn vào bản đồ địa lý, bạn có thể thấy đó là kết quả tiệm tiến của hai luồng di dân khác nhau khởi từ các tỉnh ở phía Bắc và Trung bộ của Việt Nam, qua ngã Vientiane và Paksé của Lào. Nhiều gia đình đã định cư ở xứ người qua thế hệ thứ ba.
Mức độ phát triển và hiện đại của hệ thống giao thông đường bộ của Thái Lan giúp cho người đi xa có thể chủ động về thời gian của chuyến đi. Vị nghị sĩ thượng viện vốn là sinh viên đang viết luận án tiến sĩ với tôi vì bận phải họp ở Chiang Mai (một thành phố ở tận mút Tây Bắc của Thái Lan) không thể đi cùng chung xe, đã hẹn sẽ theo chuyến bay cuối cùng về tỉnh nhà vào lúc 17.15´ và sẽ đến thẳng nơi hẹn là một tiệm ăn, vừa kịp để cùng dùng cơm với kiều bào người Việt ở địa phương cùng khách phương xa. Trong những hoàn cảnh như thế mới thấy được mức hữu dụng tuyệt đối của máy điện thoại di động, một sản phẩm thời đại tuyệt vời mà tôi vẫn thờ ơ chưa nắm được những chức năng cơ bản!
Nói cho cùng, cho dù hệ thống đường sá có hiện đại đến cách mấy cũng không thể bảo đảm cho tôi đến nơi hẹn đúng giờ. Thế nhưng, mọi sự đã xảy ra theo như dự tính, như một điều hiển nhiên, rất bình thường. Ngán cảnh đường dài, vừa đóng cửa xe, tôi đã hỏi người tài xế chuyến đi sẽ kéo dài bao lâu. Người tài xế trẻ, hầu như không nói một tiếng nào trong suốt cuộc hành trình, đã trả lời thật ngắn gọn và đầy tự tin “chệt môn, khrap!” (Dạ, bảy tiếng).
Điều đáng nói là anh đã hoàn thành nhiệm vụ đưa chúng tôi đến nơi an toàn, đúng hẹn và trong một trạng thái thoải mái. Mà có phải là một khoảng cách ngắn ngủi gì cho cam. Đó là cả một đoạn đường dài tương đương giữa thành phố Hồ Chí Minh và Qui Nhơn, cũng đi qua những địa hình khó khăn hiểm trở và không phải lúc nào cũng có thể “phom phom” trên xa lộ bốn làn ranh lên xuống. Tất cả chỉ mất sáu tiếng đồng hồ phù du, đến nỗi, trong cơn ngật ngà “say xe”, dù đã đến điểm dừng chân cuối cùng, người viễn khách vẫn cứ ngỡ ngàng tưởng mình vẫn còn ở đâu đây trên đường thiên lý.
Yếu tố giúp người lái xe giữ được tốc độ vừa chuẩn vừa cao (thông thường ở trên mức 120 cây số/giờ) trong một thời gian dài nhưng vẫn bảo đảm được an toàn cần thiết, là do ở sự tổ chức phối trí có qui củ các hệ thống phương tiện đi lại và chấp hành luật lệ giao thông khá chặt chẽ trên các tuyến đường trong toàn bộ nước Thái. Ngay trên những đoạn đường nhỏ hai chiều, có phân luồng rạch ròi cho xe gắn máy, tuyệt nhiên không thấy cảnh phơi phóng bừa bãi, rất phổ biến dọc quốc lộ 1A từ Bắc chí Nam như bên nhà, khiến người lái xe máy có lý do để lấn đường ra ngoài. Nhà cửa, phố xá, chợ búa đều nằm sau hành lang an toàn tối thiểu (ít nhất là sáu thước) dọc hai bên đường. Các giao lộ đều có bảng biểu chỉ dẫn rõ ràng và được điều hành bởi trụ đèn lưu thông hiện đại. Thỉnh thoảng đây đó thường có các “trạm dừng chân” công cộng để khách đường xa có thể rửa qua mặt mày, đi vệ sinh, nghỉ ngơi đôi ba phút, thả hồn ngắm cảnh trời mây, nghe vài tiếng chim hót cho nhẹ người trước khi tiếp tục đường xa vời vợi. Thường thì các địa điểm này được chọn lựa rất hợp lý và được xây dựng theo cấu trúc địa phương. Đặc biệt được thường xuyên gìn giữ rất sạch sẽ. Đâu đâu cũng có thùng rác, chẳng ai nỡ lòng nào vứt bừa bãi xuống đất!
Nói chung, các phố huyện đi qua đều mang tính chất đặc trưng của một vùng nông thôn đang phát triển của bất cứ nước nào trong khu vực. Ở một điểm dừng giữa đường vào tầm cơm trưa, khách phương xa ngỡ mình đang ở Định Quán hay Bảo Lộc trên đường đi Đà Lạt. Chỉ khi vào quán, bạn mới thấy sự khác biệt giữa “người” và “ta”. Công bình mà nói, thức ăn, bài trí bàn ghế và cung cách phục vụ của nhân viên “người” thường tốt hơn các quán xa bên đường ở nước ta vài bậc. Chủ nhân Thái không chú trọng lắm đến yếu tố đa-dạng-hoá thực đơn và giới thiệu “đặc sản” (hầu như chỉ cung cấp các món ăn căn bản). Họ cạnh tranh bằng cách cung cấp sự tiện lợi cho khách đường xa (nhà vệ sinh sạch sẽ, phòng ăn thoáng mát, rộng rãi, thức ăn gọn nhẹ nhưng hợp khẩu vị, phục vụ nhanh chóng và cởi mở) và nhất là đảm bảo vệ sinh an toàn. Các cửa hàng đều treo bảng chứng nhận cung cấp thức ăn “sạch sẽ và ngon” (clean and good food). Riêng khoản này cũng giúp các loại khách du lịch ‘pharang’ (ngoại quốc) như tôi yên tâm, không sợ bị “Tào Tháo” đuổi chạy nửa chừng!
Nông thôn Thái cũng không mấy “đa dạng” như vùng quê ở Việt Nam, nếu vội vàng có thể nói là rất nhạt và nhàm chán. Nông dân Thái lại không “lo xa” như đồng nghiệp ở miền Bắc nước ta nên chẳng chú trọng mấy đến cơ sở vật chất và điều kiện sinh sống. Đành rằng phần lớn họ đều dùng điện gia dụng, nước máy sạch và sử dụng nhà vệ sinh riêng biệt (không biết gì đến “thú quận công”!), nhưng nhà cửa xem ra rất tạm bợ, không chắc chắn và đa dạng như những vùng quê đang lên ở ta. Thông thường đó là những căn nhà sàn cột bê tông hay cây, liếp gỗ sơ sài, phía dưới để một bộ ván hoặc chiếc giường tre để mọi người nghỉ chân. Mọi sinh hoạt gia đình đều dồn hết lên tầng trên, nếu gia đình kha khá thì có trổ cửa sổ hẳn hoi, thường thì dùng ván đóng kín tứ phía. Có lẽ, cũng như “đồng nghiệp” ở miền đồng bằng sông Cửu Long, họ sống ngoài trời nhiều hơn trong nhà và khí trời thường mát hơn vào ban đêm. Một loại nhà khác hiện đại hơn, thường chỉ có tầng trệt, mái ở giữa dôi ra che dọc bề ngang (khoảng 8 thước), cho cảm giác thoáng mát rất thích hợp với quang cảnh miền quê. Dù là loại gì đi chăng nữa, vật liệu dùng trong việc xây cất đều nhẹ và giản dị (ngoại trừ các căn nhà “dị dạng” của các nông dân hãnh tiến đang lên), chủ yếu là dùng gỗ lấy trong vườn hoặc từ ngoài đồng. Một điều đặc biệt nữa là chúng thường rất giống nhau, như theo một mẫu chung, nhan nhản từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây (kể cả các trạm xe buýt cũng theo một cấu trúc được tiêu-chuẩn-hoá chung cho toàn quốc). Vì thế mà khách phương xa ít thấy được sự khác biệt trong cách sinh hoạt và mức sống của các vùng quê trên đất Thái. Ấy thế mà nếu khách chú tâm nhìn kỹ một chút sẽ thấy hầu như nhà nào cũng tậu một bộ bàn ghế đá để cả gia đình ngồi hóng gió chiều trước sân; thỉnh thoảng còn có bóng dáng một chiếc pick-up (loại xe có thùng nhỏ) như con trâu ngủ yên ắng bên hè, để chủ nhân có thể vừa chở vợ con đi đây đó đi đó trong buổi nông nhàn, vừa là phương tiện chuyên chở sản phẩm rau đậu vườn nhà đi “tiếp thị” trực tiếp ở các chợ đầu mối trong các thành phố lớn. Nông thôn Thái cũng không có những cột đài viba phát tuyến lừng lững giữa trời như đa số các huyện xa xôi như ở ta. Các phòng điện thoại nhỏ theo mẫu mã chung được thiết đặt dàn trải ở những giao lộ và địa điểm công cộng, giúp nông dân liên lạc với bên ngoài mà không cần phải đi xa.
Cuộc sống của nông dân Thái xem ra thoải mái có thể nhờ ở khoảng không gian hào phóng, vẫn còn rất rộng rãi cho tất cả mọi người. Diện tích Thái Lan gấp rưỡi nước ta, nhưng dân số lại ít hơn đến 22 triệu người. Vì thế, tầm mắt của khách phương xa không bị hạn chế bởi những khu tập trung nhà ở chen chúc, manh mún, rác rưởi bừa bãi, mà trải dài với mênh mông cây cỏ và ruộng vườn xanh tươi mát mắt. Nông dân Thái trên vùng đi qua chỉ làm một vụ lúa vì thiếu nước và có thói quen đốt rạ để dọn đồng trước khi cày ải. Trên những mảnh ruộng lớn thường được điểm xuyết bởi nhiều loại cây lớn nhỏ và những túp lều tranh tránh nắng tạm bợ. Sự hiện diện của những cây xanh đủ loại làm dịu đi cái nắng gay gắt nhiệt đới ở đồng quê, là nơi trú ẩn giải lao giữa một ngày lao động mệt nhọc và đồng thời cung cấp vật liệu xây dựng cho những căn nhà mới.
Điều kiện thiên nhiên ưu đãi và óc thực dụng của nông dân Thái được thể hiện qua cung cách làm lụng và vui chơi của họ. Một câu hỏi vẫn khiến tôi bận tâm trong suốt chuyến đi là nếu nông dân địa phương chỉ làm một vụ lúa (thông thường chỉ kéo dài không hơn 100 ngày) thì họ sẽ làm gì với số ngày còn lại trong năm. Câu trả lời là điều lặp lại cái vòng “kim cô” muôn đời và muôn thuở: bài bạc, rượu chè, lễ hội và … làm công quả ở chùa!
Phật giáo là quốc giáo ở Thái Lan. Chỉ riêng ở Ubon Ratchathani đã có 300 trong số hơn ba ngàn ngôi chùa trên toàn quốc. Ubon là một tỉnh địa đầu, đông dân, chuyên về nông nghiệp, thuộc vào một trong những tỉnh nghèo nhất ở Thái, nhưng lại là nơi tập trung nhiều chùa chiền nhất. Theo ước tính, mỗi ngày các chùa thu nhận khoảng 300 triệu baht tiền công đức (khoảng gần 10 triệu đô la Mỹ) trên toàn quốc, phần lớn từ những người dân có lợi tức thấp, nhưng có kỳ vọng đổi đời cao. Bài bạc, rượu chè và lễ hội cũng là những hình thức thăng hoa hữu hiệu giúp con người quên đi những nhọc nhằn đời thường. Cách vui chơi của họ cũng thể hiện mục đích “giết thì giờ”, không có tính cách rườm rà và rộn rã như các lễ hội thường thấy bên nhà. Trên đường, chúng tôi đã dừng lại xem một cuộc bắt cá truyền thống ở một làng cạnh tỉnh Iỵ. Nông dân, già trẻ, trai gái tập trung ở một cái đìa rộng chừng 50 thước mỗi chiều, ở giữa có những cọc đóng theo thế cái ghế tạm thời bằng cây. Mỗi ứng viên phải đóng một khoản phí (20 baht) cho chỗ mình chiếm để được tung lưới bắt cá. Thỉnh thoảng có người lúng túng thế nào ngã ùm xuống nước bơi lóp ngóp, cũng chẳng thấy ai reo hò hoan hô cổ xúy gì. Thi thoảng mới có người bắt được vài con cá nhỏ bằng đôi ba ngón tay, lại đập cho chết rồi xuyên thẻ tre nướng trui tại chỗ. Chẳng biết ngon, thơm thế nào, chỉ biết chẳng bõ công và không vui, vì chẳng thấy trống chiêng ầm ĩ, cờ xí rợp trời như hội hè đình đám ở quê ta.
Mà thật, nông dân ngồi nướng cá trui bên cạnh xe hơi của mình thì hết mất cả thi vị đồng quê cổ truyền, có khác chi cảnh hát quan họ trên thuyền gắn máy đuôi tôm, hay cảnh người da đỏ đóng bộ nhảy lửa trại! Vì thế, “lễ hội” này không giữ được chân người khách phương xa lâu lắm.
Hai
Người Việt sống ở xứ người, dù có thay đổi y phục bên ngoài cũng rất dễ nhận biết. Chỉ cần để ý đến cung cách họ gạt tàn thuốc, vòng vàng quanh cổ, đồng hồ trang điểm (kể cả đàn ông) ở tay, tụ nhóm vào một góc nào đó trong bữa tiệc chung để được nói tiếng Việt thoải mái và nhất là mối quan tâm của họ qua các câu hỏi.
Những người hay quan sát như tôi vẫn thường đồng ý với nhau là trong số các nhóm kiều bào định cư ở những nước lân cận với ta, người Việt ở Thái có một mức sống và thành đạt vượt xa hẳn đồng hương ở Lào và Campuchia. Nói cho cùng, mục đích tối hậu của những chuyến vượt biên của giữa thế kỷ trước trước tiên là để “đổi đời”, vượt qua những khốn khó truyền kiếp ở những vùng đói nghèo và cằn cỗi nhất ở cực Trung và Bắc bộ. Vì thế đối với số đông, sự thành công do nỗ lực thích ứng và làm ăn của họ phải được phô trương cho mọi người thấy và thừa nhận là điều hiển nhiên.
Chỉ có khoảng 4.000 kiều bào người Việt ở Ubon, nhưng sự hiện diện của họ trong sinh hoạt của thành phố ngụ cư thật rõ ràng. Họ làm đủ mọi công việc (trừ những chức vụ chính trị, không như người gốc Hoa) từ sản xuất giò chả, chụp ảnh, buôn xe gắn máy, phân phối vật liệu xây dựng, may mặc, bỏ mối rau, sửa chữa xe hơi và máy móc điện tử, nhà hàng… Thi thoảng họ mới gặp nhau trong các lễ lạc, nhưng ai cũng áo lụa lượt là, vòng vàng sáng chói và chỉ trong một vài phút những chuyện “đầu làng cuối xóm” đã rôm rả, thầm thì ở khắp mọi bàn. Chuyện của cá nhân nào, gia đình nào, cửa hàng nào cũng được lược qua. Tôi được xếp cạnh hai người đàn bà ở tuổi trung niên, có những cái tên rất Việt là Ngọc Anh và Kim Nhung, kèm hai bên là hai cô “con gái rượu”. Một bà nghiêng đầu duyên dáng hỏi với một giọng miền Trung phổ cập ở vùng Đông Bắc Thái: “Thầy dạy ở Bangkok chắc lương cao lắm hỉ?” Dĩ nhiên là câu trả lời né tránh của tôi không làm bà hài lòng. Bà tiếp: “Vậy thầy để dành được bao nhiêu? Nhà thầy có to không?” Bà sốt ruột khi tôi đánh trống lảng: “Ông nhà bác ngồi ở đâu?” “Ông đầu trọc ngồi ở cuối bàn bên kia kìa. Tôi lấy ông hai chục năm, đẻ được con ni nì”. Cả hai cô gái của bà cười hiền từ, không nói được tiếng Việt và không còn có những tên Việt hay ho như các bà mẹ của thế hệ đương thời. Người chồng “đầu trọc” trung thành của bà (cổ và tay đeo những vòng vàng nặng hàng ký lô) sau đó lên sân khấu, hát tặng tôi và đồng hương bài hát có câu: “Xuân này con không về, chắc mẹ… buồn lắm!”, khiến tôi ứa nước mắt dù chỉ vừa ở quê sang.
Bữa tiệc hội ngộ diễn ra như thế, như hàng trăm bữa tiệc thường tình khác, nhưng hương vị đằm thắm đã được san sẻ, chan hòa trong những thân thể cùng chung một dòng máu truyền thống. Thế đấy, họ gặp nhau trong những bộ quần áo, nữ trang phô trương, bàn đủ chuyện xấu tốt của nhau, không chừa một chi tiết dưới những con mắt gièm pha, tị hiềm của bất cứ một làng quê nào ở Việt Nam, nhưng lòng thành tâm và gắn bó với cộng đồng và quê hương thì vô hạn và chan hòa. Một trận bão lụt ở quê nhà đã đủ làm họ xôn xao quyên góp, lo lắng hỏi han khi nghe một tin đồng hương cao niên trở bệnh, nhiệt tình đón tiếp khi một đồng hương không quen biết tình cờ ghé qua, và cũng rộn ràng đón xuân với đầy đủ thủ tục rườm rà “bánh chưng xanh, hũ dưa muối ” nơi xứ người. “Trái tim quê hương” quả thật đã vượt lên tất cả vật chất phô trương tầm thường, chẳng ai còn lưu tâm sau vài phút tương ngộ… Mà ai còn trách điều chi được khi người đàn bà khả ái ngồi bên cạnh tôi đã đăng đàn kể lể giùm tôi “Huế của ta ơi”, khi biết tôi sinh ra từ đất thần kinh. Để đáp lời cảm ơn của tôi, bà mời cả “phái đoàn” đến quán bà sáng hôm sau để ăn món điểm tâm “bánh mì Huế”!
Có lẽ một trong những yếu tố giúp kiều bào ta thành công ở Thái là “giữ cái lòng Việt trong cái vỏ Thái”. Đúng ra đó là một phương pháp để có thể sống còn trong khoảng thời gian mối liên hệ giao hảo giữa hai nước không được mặn nồng cho lắm. Bà Ngọc Anh, chủ tiệm ăn sáng, bộc lộ điều tế nhị của giai đoạn “ẩn mình” đó hết sức ví von: “Tụi em yêu nước, nhưng phải cất giấu trong tim”. Không ai nghi ngờ gì tấm lòng bao la của bà, chỉ tiếc là bà đã chỉ nhầm vào phía bên kia của trái tim!
Từ ngoài nhìn vào, khách khó lòng biết đấy là một quán ăn các món điểm tâm Việt, do một người Việt cai quản. Tất cả đều mang vẻ bề ngoài của Thái. Từ tên của quán, trang phục của bà chủ, cách bài trí, cả những miếng cá dùng làm vật liệu chế biến cho các món cháo đặc biệt của nhà hàng cũng lấy từ con sông (Moon) chảy qua thành phố Ubon, nhưng tất cả chỉ để bao quanh một cái “lõi Việt”. Một khi khách đã bước vào quán, mở đầu bằng vài câu thăm hỏi thường tình bằng tiếng Việt, tô cháo cá và những chiếc bánh mì kẹp chả kiểu Huế đã được dọn ra, thì cái “lõi Việt” đó như đã được tháo gỡ hết các lớp vỏ bên ngoài, lồ lộ một cái gì chợt cựa mình, động đậy như một quả tim thấp thỏm, xôn xao, chỉ trong các cuộc gặp gỡ giữa đồng hương mới cảm nhận được. Tô cháo cá nóng nồng mùi hành cắt nhỏ thơm phức và chiếc bánh mì nhỏ bằng hai ngón tay có chiều dài cỡ một chiếc bánh choux à la crème, không thể tìm đâu ra ở bất cứ nơi nào trên xứ Thái, là một “hoài niệm” của ông nội người chủ quán mang theo từ Việt Nam đã qua hơn hai thế hệ. Loại bánh kẹp chả đó chỉ được sản xuất và bán ở một tỉnh miền Trung, đã theo những chuyến bay đầu tiên Bangkok - Ubon - Đà Nẵng, một tuần ba lần của hãng Hàng không Thái về đây, nhằm thỏa mãn khẩu vị đặc biệt của những kiều bào vùng “quê hương tôi nghèo lắm ai ơi. Mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn…”. Lòng khao khát, thương nhớ quê hương đôi lúc được biểu lộ thâm trầm đến kỳ diệu.
Hậu quả của bữa điểm tâm “vui lòng khách đến, dùng dằng khách đi” là chúng tôi đã đến trạm gác biên giới dẫn lên ngôi đền Khao Phra Wiharn (tên Khmer là Preah Vihear) lúc mặt trời đã lên tới đỉnh đầu. Sắp xếp đi cùng với chúng tôi là cựu trưởng đồn biên phòng người Thái, cùng vợ ông ta và một thông dịch viên người Thái. Ông mặc đồ trận màu đen, dùng gậy chỉ lên đỉnh đền hun hút những bậc thềm dọc hai bờ đá chạm trổ hình dáng rắn hổ mang hóa thần, giải thích rằng người “Khmer cổ” khi xây ngôi đền này 1.000 năm trước đây đã tin tưởng rằng khi vượt qua khoảng chiều cao dựng đứng đó, con người có thể đạt đến cõi niết bàn! Hẳn là ngôi đền phải rất đẹp và hùng vĩ trong những thế kỷ trước đây và chắc chắn không ít khách hành hương thuộc nhiều thế hệ đã vượt qua cái chiều cao thách đố đó để có thể chạm đỉnh trời, nhưng đối với một khách viếng cảnh tình cờ như tôi, ngôi đền đã không gợi một sự thôi thúc khám phá hay chiêm ngưỡng nào. Sự vĩ đại của ngôi đền (mặc dù chỉ bằng một phần trăm mức đồ sộ của Angkor Wat) hiển hiện đến nỗi không một ai có thể đành tâm ngắm nghía, dạo chơi hay trầm trồ khi nghĩ đến khối lượng vật liệu và công sức vô tiền khoáng hậu mà người xưa đã bỏ ra để xếp vô số những tảng đá khổng lồ chồng lên nhau, theo một cấu trúc và kỹ thuật xây dựng kỳ bí mà đến nay vẫn chưa ai có thể giải mã được. Tất cả những điều như “phép lạ đó” đã xảy ra phần lớn là do bàn tay trần của con người (phần lớn là nô lệ) trên một mảnh đất nghèo đói và ít tài nguyên thiên nhiên nhất từ xưa đến nay. Điều quan trọng nhất là ngôi đền đã được xây trên một địa điểm mà ranh giới không được phân định rõ rệt sau khi đế quốc tạo ra nó không tồn tại nữa, khiến nó phải lâm vào cuộc tranh chấp đổ máu triền miên giữa hai dân tộc láng giềng, và cuối cùng phải chịu số phận điêu tàn như chính chủ nhân tạo ra mình hàng chục thế kỷ trước.
Tôi đã “vượt” qua con suối nhỏ phân định ranh giới giữa Thái Lan và Campuchia, giờ này khô queo như một con rắn nằm quăn queo trên một mảnh đất cháy sém, đếm đủ 700 bậc đá dẫn lên “cổng trời” cao dốc đứng 200 mét, và từ đỉnh cao nhìn xuống vùng đồi trải dài bao quanh, một đôi nơi toả khói từ những đám cháy nhỏ, không ngăn được cảm giác vừa đau xót vừa bùi ngùi dấy lên trong lòng. Vạn vật đều như mỏi mệt, ngán ngẩm và cam chịu như những tảng đá ngàn năm trơ gan dưới nắng mưa và bom đạn phũ phàng.
Con người thường có một tâm trạng xôn xao kỳ lạ, nửa hiếu kỳ, nửa hụt hẫng như vừa mất mát khi đứng trước đường ranh biên giới giữa các quốc gia. Một con sông, một rặng núi ở phía xa, một bờ biển, vài cột mốc rất bình thường kéo một lằn ranh vô hình, ngăn cách hai vùng đất và con người với nhau. Từ biên giới Thái và Campuchia ở phía Nam, đi ngược lên phía Bắc, dọc theo con sông Mekong chừng vài chục cây số đã đến ranh giới phân chia hai địa phận vốn cùng chia chung một lịch sử vàng son trong thế kỷ trước. Cũng như trường hợp éo le của ngôi đền Preah Vihear, đã được Tòa án quốc tế La Haye phán quyết vào năm 1967 thừa nhận chủ quyền thuộc Campuchia, nhưng con đường độc đạo dẫn lên đền lại nằm trên lãnh thổ của Thái ở vùng giao lưu giữa ba biên giới này, tỉnh Champachak của Lào vượt hẳn qua bên hữu ngạn của sông Mekong, cùng một phía của tỉnh Ubon của vương quốc Thái. Sự phân định thiếu rõ ràng đã là nguyên nhân của nhiều thảm kịch, gần đây nhất là cuộc xung đột quân sự phi lý giữa hai nước Thái - Lào vào cuối những năm 80. Thế nhưng những đám mây nghi ngờ nặng nề lịch sử đó đã được xóa tan đi và những dãy chợ biên giới đã được dựng lên trên các bãi chiến trường cũ. Hàng hóa đã thay thế bom đạn và những chiếc váy thổ cẩm màu sắc tươi mắt của các cô gái Lào và Thái (ngôn ngữ được dùng cho cả hai bên bờ sông là tiếng Lào) đã đẩy lùi những bộ đồ rằn ri trận mạc vào dĩ vãng.
Vào lúc 5 giờ chiều, hoạt động thương mại ở khu chợ biên giới thu hẹp vào một vài cái quán nhỏ xây dựng sơ sài, nhưng hàng hóa thì đủ chủng loại, từ những gốc lan rừng đến những loại đồ dùng bằng mây tre, hay hàng lụa, đồ gia dụng bằng nhựa, rượu chè, thuốc lá. Ở đây người ta có thể tìm thấy lẻ tẻ một vài mặt hàng Việt Nam: thuốc lá Hạ Long, rượu tắc kè sản xuất ở Gò Vấp, rượu nếp Gò Dầu… Khách phương xa tự dưng cảm thấy vừa tự hào vừa tư lự, như tìm thấy một đứa con rơi lạc lõng, giữa một rừng đầy sản phẩm đa dạng của người. Nói cho cùng, từ bao nhiêu thế hệ đã qua, “con người Việt” đã vượt qua sông Mekong, đặt những bàn chân vững chãi lên phần đất bên này, nối liền ba vùng biên giới, nhưng thật sự “hàng hóa Việt” vẫn chưa theo kịp dấu chân người.
Vào khoảng 6.13´ chiều, cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp bắt đầu tạo hình trên sông Mekong. Trong một vài phút ngắn ngủi cuối cùng của ngày, mặt trời bỗng chìm sâu xuống dưới nước, như có một bàn tay nhấn xuống vội vàng, rồi một làn sương mỏng như khói nhạt dấy lên từ lòng sông, làm nhòa đi chút ánh sáng vấn vương còn sót lại ở cuối chân trời. Cái cột mốc phân định lằn ranh giữa một bên là Vang Tao (của Champachak, thuộc Lào) và Chongrek (của Ubon, thuộc Thái Lan) như cũng mờ nhạt đi trong sự giao thoa êm ả của đất trời và sông nước. Nghe đâu đó từ dưới sông vọng lên một tiếng sáo đìu hiu. Vài ngọn đèn đã được thắp lên từ những con thuyền neo dọc theo sông.
Đêm xuống bình yên và trầm lặng như không có dấu tích gì của một vùng biên giới!
6-2001