Văn minh công nghiệp
Đồng hương đi du khảo hay du lịch ở Thái Lan chắc hẳn đã có những ấn tượng tốt đẹp về đất nước này. Xin chỉ liệt kê hai đặc tính căn bản của “nền văn minh công nghiệp” của nước bạn: tính tiêu chuẩn và tính tổ chức.
Hãy lấy một thí dụ đơn giản nhất. Bạn thử gọi một đĩa cơm gà từ một xe đẩy tầm thường trên đường hay ở một quầy “đặc sản” trong khu ăn uống (food court hoặc food market). Đĩa cơm gà dọn ra trước mặt bạn đều như nhau, khiến bạn có cảm giác là nó được “chế tạo” theo một tiêu chuẩn đồng nhất từ cùng chung một lò sản xuất mà ra. Đĩa cơm gà đó bao gồm: một khoanh cơm được nén theo hình cái chén úp ngược ở giữa, khoảng chừng 6 lát thịt gà có da thái mỏng được xếp trải đều lên trên, xung quanh phần “cốt lõi” là bốn lát dưa chuột dày màu trắng trong, hai miếng huyết luộc nhỏ hình vuông màu tím đỏ, điểm một vài cọng ngò xanh tươi mỏng. Bên cạnh đĩa cơm giản dị về “nội dung” nhưng được tô điểm đủ loại “màu sắc” đó là một chén canh nhỏ chắt ra từ nước luộc gà, thêm một vài miếng bí đao cho ngọt nước. Và cái giá thống nhất từ bắc chí nam cho đĩa cơm gà đó là 25 baht (khoảng 10.000 đồng tiền Việt), cho dù nó được dọn ra ở bất cứ một thành phố hiện đại, thị trấn xa xôi hay trung tâm du lịch tấp nập nào trên đất Thái.
Bạn tự hỏi: một đĩa cơm gà như thế thì có gì hấp dẫn và đáng để bạn lưu tâm? Vâng, nếu so sánh với những đĩa cơm gà trong một tiệm “Cơm gà Thượng Hải đặc biệt” ở nước ta thì có thể không “ngon” và không “sang” bằng như bạn có thể nghĩ. Nhưng điều đáng quan tâm là “sản phẩm” đó đã được “xã hội hóa” khiến mọi thành phần trong xã hội Thái, bất luận sang hèn, đều có thể thủ đắc bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào khi có nhu cầu. Nói theo ngôn ngữ quản lý doanh nghiệp thì “đĩa cơm gà” (và nhiều thí dụ khác nữa) ở Thái Lan đã được “tiêu chuẩn hóa” để có thể bảo đảm được chất lượng, giá cả, vệ sinh an toàn thực phẩm và ổn định thị trường của sản phẩm một cách nhất quán qua thời gian và qua không gian.
Tính tiêu chuẩn hóa và cung ứng sản phẩm trên qui mô đại trà nhưng nhất quán đó là nền tảng căn bản giúp cho việc phát triển các hệ thống phân phối “nhượng quyền thương hiệu” (franchising) lớn của thế giới ở Thái Lan được thuận lợi và có hiệu quả. Ví dụ cụ thể nhất là các kênh “thực phẩm nhanh” (fast food) như McDonald, Burger King, KFC, Pizza Hut, Oishi, hoặc những quán cà phê siêu hạng như Black Canyon, Starbucks; hình thức hợp tác mà Cà phê Trung Nguyên có thể thực hiện được ở nhiều nước (Nhật Bản và Thái Lan), trong khi vẫn chưa an tâm lắm về khâu tiêu chuẩn hóa và bảo đảm chất lượng sản phẩm và uy tín nhãn hiệu của mình đối với các đối tác được nhượng quyền khai thác (franchisee) trong nước.
Cũng trong lĩnh vực ăn uống, người Thái đã tiến rất xa trong khả năng tổ chức và quản lý những địa điểm và trung tâm sinh hoạt công cộng có qui mô rất lớn. Ở tất cả các siêu thị, trung tâm mua sắm có tầm cỡ (chẳng hạn Ma Boon Krong, Future Park hay Xuan Lum Night Bazaar, đều có những khu ăn uống rộng rãi và đa dạng, được điều hành rất hiệu quả và phối hợp nhịp nhàng bởi một ban quản lý chung theo kiểu hợp tác xã và hệ thống …tem phiếu (coupons)! Nếu quan sát kỹ một chút, thực khách sẽ thấy toàn bộ hệ thống cung cấp dịch vụ ăn uống phức tạp đó được “phân công, phân nhiệm” rất cụ thể và rõ ràng đến từng cá nhân phụ trách, từ nhân viên kiểm soát tổng quát, người bán tem phiếu ở quầy, đến người bếp, phụ bán món ăn và thu dọn vệ sinh bàn ghế… Các quầy đều được trưng bày gọn gàng và tươm tất, sàn nhà luôn luôn được giữ gìn và lau chùi sạch sẽ cấp thời. Tất cả đều chu toàn nhiệm vụ giao phó (dù nhỏ, dù lớn) một cách tận tâm và chuyên nghiệp. Không thấy cảnh tranh giành, lôi kéo và chào mời khách của các “cò” một cách bừa bãi, bát nháo như ta quen thấy ở nhiều nơi trong nước. Mô hình quản lý tập thể này cũng rất thành công và trở thành biểu trưng của “nếp văn minh công nghiệp” của những trung tâm sinh hoạt công cộng vừa thành lập ở các thành phố đang hiện đại hóa ở Trung Quốc (Wang Fu Jing ở Bắc Kinh và Nanjijng Donglu ở Thượng Hải). Đáng tiếc là những “mô hình có tổ chức” đó vẫn chưa thể “định hình” được ở Phố ẩm thực Cấm Chỉ (Hà Nội) và các khu chợ ăn đêm ở Bến Thành và Đại thế giới (TP. Hồ Chí Minh), mặc dù trên một qui mô nhỏ hơn nhiều chục lần và kinh nghiệm quản lý hợp tác xã và điều hành theo tem phiếu thì chắc chắn là ta có thừa.
Nhân lúc bàn chuyện “đi một ngày đàng, học một sàng khôn” ở một nước láng giềng mà “trước đây còn kém xa ta” (sic) như nhiều người vẫn thường tin tưởng, anh bạn tôi lim dim cặp mắt, sau khi nhấm nháp mấy ngụm cà phê filtre nhỏ từng giọt đến sốt ruột, bảo tôi: “Tổ chức mà chặt chẽ và hoàn hảo quá thì sẽ làm mất đi nhiều thi vị của cuộc đời, bạn hiền ạ!”
Với nụ cười hồn nhiên, cái tăm xỉa răng vẫn còn trong miệng, điếu thuốc ngậm hững hờ bên kia mép, anh đứng lên choàng vai tôi nhiệt tình đẩy ra phía cửa tiệm phở “gia truyền”, chân thản nhiên đạp trên sàn nhà nhớp nháp, vung vãi những miếng chanh đã bị vắt kiệt. Sau lưng chúng tôi, giấy chùi miệng bay tơi tả dưới sức gió vù vù thổi xuống từ chiếc quạt trần.
9-2003