Cố tri tương ngộ
Trong suốt thời gian làm việc ở Nam Kinh, lần nào sau buổi đi dạo tối, vợ chồng tôi cũng ghé mua khoai nướng của một cụ già trong khu ký túc xá của trường đại học thành phố. Dần dần, những buổi ghé thăm ông trở thành một thói quen không thể thiếu mỗi đêm và mối liên hệ giữa người bán và người mua cũng trở nên đằm thắm và gắn bó hơn, mặc dù ngôn ngữ bất đồng. Ông cụ lúc nào cũng chọn một góc vắng vẻ trong sân trường, khuất sau một thân cây, ngồi trầm ngâm như một triết nhân, cố tình tránh né mọi người, không màng thế sự. Ông thường mặc một bộ quần áo trấn thủ dày cộm, đen đúa, khiến cái bóng của chính ông như lẫn vào bóng đêm. Ông cụ lại ít khi mở lời, khiến có lúc tôi đã tưởng là ông bị khuyết tật.
Đó là một cụ già quê mùa, chân chất, tay chân thô tháp, cô độc trong tuổi già, có lẽ chỉ bán khoai cho vui thôi, như chúng tôi thường nghĩ, vì bao giờ những mảng khoai đã nướng cũng còn đầy ắp, bốc khói dưới lớp bố ủ phủ trên chiếc thùng phuy màu nâu đã tróc sơn. Cách nướng khoai phổ biến của vùng Giang Nam cũng rất đặc trưng. Những củ khoai nhỏ bằng hai lóng tay thường không dài hơn một gang tay, được xếp thành nhiều tầng theo hình vòng cung dọc theo mặt trong của một chiếc thùng phuy, phía trên được đậy kỹ bằng một lớp vải bố để giữ hơi nóng ổn định. Lửa được đốt từ một cửa nhỏ ở cạnh hông gần đáy thùng, đủ độ nóng để hâm chín phần trong của những củ khoai màu đỏ tía. Khi lấy ra, một lớp vỏ khoai dày thường khô cháy nhưng không khét, lòng khoai bên trong vàng rộm, dẻo như bột sánh lại nhưng không bở rệt như bị lùi trong bếp tro theo kiểu thông thường. Ủ một củ khoai (giá một NDT) vừa nướng chín, đảo qua lại vài lần trên tay để truyền hơi nóng và hương nồng của lớp vỏ khoai cháy rộp vào lớp da đã bị tê cóng trong một đêm đông ở xứ người, khách tha phương tưởng như bất chợt tìm lại quê hương của mình trong lòng bàn tay!
Có hôm trời mưa dầm, đã tưởng ông cụ ở nhà, nhưng không, ông vẫn ngồi ẩn mình sau chiếc thân cây cố hữu, lặng lẽ như bóng đêm. Im lặng là thế, nhưng khi nghe mấy tiếng Tàu lõm bõm của tôi: “Lảo bá, nỉ hảo?” thì ông lại nhanh nhẩu chọn khoai, cân đếm tỉ mỉ, ra dấu giá tiền bằng mấy ngón tay, rồi lật bật cho khoai vào bao ni-lông. Chúng tôi vẫn hay giả vờ vô tình để lại chút tiền quan lẻ, ông khẳng khái gạt đi. Ông cụ làm tôi nhớ đến những cụ bà bán xôi trên lề đường ở Hà Nội đã chạy theo tôi, nhất quyết trả lại vài ngàn đồng bạc nhỏ nhoi tôi đã bỏ quên!
Lần này trở lại Nam Kinh, chúng tôi cũng ghé qua để mua khoai như mọi khi, nhưng không thấy ông cụ ở chốn cũ. Quả tim cố tri tưởng chừng đã hụt hẫng. Nhưng cám ơn Trời Phật, ông vẫn còn đó, tuy ở một góc khác, với chiếc thùng phuy cố hữu. Bóng ông to lớn, hiện ra rõ rệt dưới ánh sáng trong vắt hắt xuống từ cây cột đèn cao áp có lẽ vừa mới được lắp đặt không lâu. Tôi đã nghĩ (và thật lòng mong như thế) là ông đã quá ngao ngán với những đêm dài lê thê và ngặt nghèo của mùa đông và đã tìm được nguồn ấm cúng trong mối giao tiếp với người đồng cảnh, một đồng hương nào đó cũng thường ngồi âm thầm ôm bóng đêm trong lòng như ôm cuộc đời của mình, cũng lặng lẽ như ông.
Rời Nam Kinh vào cuối tháng Mười, những cơn gió bấc giá buốt từ vùng Nội Mông đã bắt đầu nhuộm vàng những chiếc lá tiêu huyền nhiều cánh trong thành phố, tôi chân thành cầu mong mùa đông năm nay sẽ không lạnh lắm, để tôi còn có dịp gặp lại người cố tri trong lần tới.
11-2002