Mùa thu Nam kinh
Thiên nhiên vùng Giang Nam đã chí tình giăng cả một vùng trời thu trong xanh bao la để đón tiếp tôi, mặc dù tôi chẳng phải là một thi nhân nổi tiếng thời cổ hay một hoàng đế triều Thanh ưa ngao du.
Buổi sáng sớm, nắng thu vàng óng như mật ong nhẹ nhàng dấy lên từ dãy núi Trung Sơn Lĩnh xanh mờ ở phía xa, rồi lan tỏa ra khắp mọi cửa nẻo của thành phố Nam Kinh, như tô một lớp phấn hồng lên đôi má của một cô gái dậy thì còn ngái ngủ. Vào thời khắc đó mới thấy cái đẹp tuyệt vời của những hàng cây dâu tây (được các nhà ngôn ngữ siêu lãng mạn ở Việt Nam gán cho cái tên chữ là “tiêu huyền!”) san sát dọc hai bên các con đường chính của thành phố.
Dân Nam Kinh rất tự hào về những hàng cây “tán dù” này, mặc dù chúng có một lý lịch không mấy rõ ràng. Người ta đồn rằng những cây sycamore này đã được những người Pháp đem từ cố quốc sang trồng để xác nhận sự chiếm hữu của họ, sau khi liên quân Âu châu đánh bại loạn Thái bình thiên quốc vào cuối triều Mãn Thanh. Đó là cách giải thích dưới cái nhìn hạn hẹp của lịch sử, đượm màu sắc dân tộc tính. Ngày nay, dân Nam Kinh chẳng ai thắc mắc, vấn nạn gì lôi thôi, chỉ biết là những hàng cây đó đã tạo thành nét đẹp duyên dáng và độc đáo của Nam Kinh, nơi đã nhiều lần là kinh đô miền nam của nhiều triều đại người Hán và nhiều chế độ chính trị khác nhau suốt hàng ngàn năm. Những hàng cây cổ thụ trầm mặc như vươn những vòng tay khổng lồ ôm lấy thành phố mà che chở và an ủi thị dân trong những cơn bão tố, thăng trầm của lịch sử.
Người Việt nào đó phải cực kỳ lãng mạn mới có thể nghĩ ra cái tên tiêu huyền diệu kỳ đó. Hầu như những hàng cây tiêu huyền được rải ra trồng đều ở các đại lộ trong Nam Kinh và các thành phố quanh vùng Giang Nam, cho đến tận vùng Thượng Hải. Cây thường được cắt cụt ngọn ở chiều cao khoảng ba thước để đẩy hết sức sống qua các cành chĩa ra bốn phía, tựa như những cánh tay hào hiệp giương những chiếc dù lớp lớp lá xanh che cho khách bộ hành trong những buổi trưa hè nắng chói chang. Lá cây tiêu huyền to cỡ lòng bàn tay, gồm năm cánh, có hình dáng như lá cây sồi ở phương Tây. Vào cuối thu, lá cây đổi màu từng lớp vàng nhạt, rồi chuyển sang màu rượu chát đỏ đậm, khiến cả thành phố rực rỡ, như những người đẹp mãn khai đang dạo chơi trong những chiếc áo gấm đỏ huyết dụ. Có lẽ đấy mới thực sự là lý do người lính viễn chinh Pháp đem trồng những cây sycamore, để tạo một “góc quê hương” ở xứ sở ngàn dặm xa xăm này!
Nghĩ cho cùng, kẻ tha hương nào mà không có một phút mềm lòng khi nghĩ về quê nhà:
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi mặt nhớ cố hương...”
(tạm dịch thơ Lý Bạch)
Nếu kể đến sự thay da đổi thịt ở bề mặt của Trung Quốc ở những thành phố cỡ lớn như Nam Kinh với những xa lộ hiện đại thẳng tắp, những tòa nhà cao tầng ngất ngưởng, những cây cầu treo vĩ đại, những khu thương mại đồ sộ... thiết tưởng cũng chỉ là những chuyện thời đại bình thường. Điều đáng nói là, bên cạnh những thay đổi tầm cỡ về vật chất, là những một sự biến dạng sâu xa trong cách sống và sinh hoạt công cộng của người dân bản xứ. Nói chung, người Trung Quốc vẫn còn ồn ào lắm, ăn ồn ào, nói ồn ào (nhất là các chủ nhân máy điện thoại di động) và... khạc nhổ ồn ào ngoài đường phố! Thế nhưng, trong cung cách sinh hoạt công cộng, đã có một bước cải thiện khá xa so với những thập niên trước. Người Trung Quốc vào cuối niên kỷ 1990 ăn mặc đàng hoàng hơn, nhà cửa gọn gàng hơn, khang trang hơn và đường phố ngăn nắp hơn.
Hàng quán ở Nam Kinh thường không lộng lẫy lắm, nhưng khá gọn ghẽ và xinh xắn, trên hẳn tiêu chuẩn vệ sinh thông thường. Nhà bếp và người hầu bàn đều mặc đồng phục tươm tất. Phần lớn các tiệm ăn đều ghi bảng giá rất rõ ràng. Chỉ có những quán ăn “dã chiến” trước các cửa trường đại học và bệnh viện bình dân xem ra vẫn còn hỗn tạp và kém vệ sinh, nhưng không hiểu sao các vị “bạn dân” vẫn nhắm mắt làm ngơ, không ra tay dẹp bỏ. Ngược lại, các quầy “lưu động” bán CD và các thứ tạp phẩm trên lề đường thường lúc nào cũng nhớn nhác, canh chừng xe cảnh sát hốt về “phú de [1]”!
Thực ra, nền văn hóa ẩm thực hiện đại của Trung Quốc chỉ phát triển ở vế cuối. Nhà hàng, quán ăn thì nhan nhản khắp phố phường, nhưng tìm đỏ mắt cũng không thấy một nơi để có thể nhâm nhi một ly trà, một tách cà phê. Muốn uống cà phê cho ra trò, bạn phải ghé vào một khách sạn cao cấp trên bốn-ngôi-sao, nơi giá một ly cà phê bằng một bữa cơm kha khá! Là xứ sở của các loại danh trà, nhưng người Trung Quốc hiện đại không cầu kỳ như các “trà nhân” thời xưa. Người đi làm hay đi học đều mang theo một chiếc bình nhựa nhỏ có nắp đậy đựng trà pha sẵn, thường đã nguội ngắt. Cách pha trà cũng rất giản dị, xác trà để nổi lều bều trên mặt nước, khi uống rất khó khăn để xác trà không luồn theo vào miệng.
Người Trung Quốc không ăn rau sống như các dân tộc khác ở miền nhiệt đới. Các loại rau đều được luộc nhừ hay xào kỹ, khiến mất hết mùi vị, hương sắc của đất trời và vườn tược gắn bó với người như ở vùng phía Nam đất Việt. Món ăn nào cũng đậm vị xì dầu (chảng dzủ), dấm chua và thường rất mỡ màng. Sau một thời gian ngắn, ngán ngẩm yến tiệc, người lữ khách phương Nam đã bắt đầu khao khát những giọt nước mắm đậm đà, đằm thắm của quê hương.
Dân Nam Kinh có vẻ như rất “sĩ diện”, cũng như người Huế của ta thời xưa. Trời se lạnh một chút thì dù là người sửa xe đạp đầu đường, tài xế xe lôi, xe thồ, anh bán hàng rong, bảo vệ cơ quan, sinh viên, hay... giáo sư đại học đều se sua áo veste, áo dạ như nhau. Những ngày khô ráo, chí ít cũng áo màu nhạt bỏ trong quần, giầy vớ cẩn thận, dù đang quét đường hay cuốc đất ngoài đồng. Áo quần nhiều chủng loại, giá cả phải chăng bày bán khắp nơi. Bình dân thì chọn veste giá 50 nhân dân tệ (NDT). Nếu muốn chơi sang thì vào các cửa hàng áo quần ngoại, nơi những cái máy chém từ Hồng Kông hay Âu Mỹ sẵn sàng “hét” giá một bộ veste tới hơn 2.000 NDT!
Đa số người Trung Quốc rất sính dùng sản phẩm chế tạo trong nước, từ chai bia cho đến xe hơi du lịch. Một cuộc điều tra của chi nhánh Gallup gần đây cho thấy có đến hơn 80% người tiêu dùng chỉ chọn hàng sản xuất nội địa. Tuy vậy, hàng nhái rất phổ biến, được nhóm trẻ “ít tiền nhưng ham vui” ưa chuộng. Cà-vạt đủ loại được bày bán khắp nơi với giá thật mềm, chỉ từ 2-20 NDT.
Phần lớn đường sá ở Nam Kinh đều rất thoáng đãng và rộng rãi, được phân luồng rõ rệt cho xe hơi, xe đạp và người đi bộ. Mặc dù đây đó có đôi chút xâm phạm luật lệ giao thông cho có “chất người”, nhưng tựu trung người Trung Quốc tuân thủ luật lệ giao thông nghiêm túc hơn người Việt ta rất nhiều. So với tiêu chuẩn của ta, luật giao thông ở nước bạn xem ra có phần hơi gay gắt, chẳng hạn cấm chở người ở yên sau xe đạp, cấm vứt tàn thuốc hay xả rác xuống đường. Nếu vi phạm, bạn sẽ bị phạt 50 NDT. Số tiền nhỏ đó không “hù dọa” được ai, nhưng đã giữ thành phố khá sạch sẽ và có trật tự vào mọi thời điểm trong ngày. Cũng nhờ luật pháp khắt khe mà dạo chơi phố xá suốt ngày, khách nhàn du cũng không thấy cảnh người người “ôm gốc cây” hay “diện bích”[2] thiếu mỹ quan thường gặp ở bên nhà. Tương tự các thành phố khác ở Trung Quốc, phương tiện lưu thông chính ở Nam Kinh là xe đạp. Xe hơi và xe gắn máy chỉ là thiểu số trên đường phố. Cũng có thể một ai đó tạm “cầm nhầm” xe đạp của người khác, nhưng nói chung chẳng ai ngại phải để xe trên lề đường (trong các lô được phân định riêng), miễn là khóa xe cẩn thận. Hè phố thường được lót gạch bằng phẳng, rộng rãi, ẩn dưới những hàng cây um tùm, râm mát. Phố xá cũng không nhô ra, thụt vào, buôn bán chiếm lòng đường bừa bãi, vướng chân bộ hành. Ở những khu phố mới xây, các nhà thiết kế đô thị thường không quên đặt một luồng gạch riêng trên hè phố để người mù có thể nhận ra, không vướng vấp.
Tuy nhiên, phương tiện lưu thông chính trong thành phố vẫn là xe buýt. Giá xe taxi (loại xe “made in China” nhỏ, thế hệ đầu tiên của nền kỹ thuật chế tạo xe hơi Trung Quốc, trông đã rất tàn tạ) không đắt lắm. Thông thường, bạn chỉ cần trả khoảng 7 NDT cho một cuốc xe trong chu vi thành phố. Còn nếu không muốn ngồi trong cái khung di chuyển rệu rã đầy bụi khói đó, bạn nên đi xe buýt, vừa rẻ lại vừa an toàn. Mạng lưới xe buýt trong thành phố rất dày, phủ gần hết các tuyến đường chính và được giữ gìn sạch sẽ, có trang bị băng tự động để báo cho hành khách biết các trạm đến bằng tiếng phổ thông và cả tiếng Anh với giọng...Hoa rặt! Bạn chỉ cần chuẩn bị sẵn 1 NDT (tiền giấy hay tiền kẽm), bỏ vào thùng ở cửa lên là có thể ngồi trên xe đi bất cứ đâu trong thành phố. Dù không có người bán vé lẫn kiểm soát viên, nhưng nếu không có sẵn 1 NDT thì bạn không nên lên xe. Cũng là một cách tạo kỷ luật tự giác và trật tự lưu thông cho mọi công dân.
Những xe-buýt-một-giá này không phải là dấu vết duy nhất còn lại của chế độ “bao cấp xã hội” ở Trung Quốc. Dạo quanh một vòng đại học Nam Kinh, bạn sẽ thấy bên cạnh một Trung Quốc hiện đại hóa vẫn còn thấy có sự san sẻ cho những khu vực còn yếu kém, chưa thể tự lực cánh sinh trong xã hội đang phát triển. Phần lớn sinh viên vẫn được hưởng học bổng để trang trải tiền sách vở và ăn uống. Mặc dù phòng ốc còn hiếm hoi (tám sinh viên chia một phòng ở ký túc xá giữa trung tâm thành phố), nhưng những dịch vụ hỗ trợ khác được tổ chức khá hữu hiệu với giá rất rẻ. Căng-tin sinh viên thoáng đãng và sạch sẽ, có rất nhiều quầy để lựa chọn món ăn. Mỗi sinh viên thường sắm một thẻ nhựa từ tính có mệnh giá 100 NDT, mỗi lần mua chỉ cần đút vào máy tính tự động ở quầy để trừ tiền bữa ăn. Nhưng phải nói là “dễ thương” nhất ở khuôn viên đại học xá là cảnh các “kiều nữ” Trung Quốc xách bình thủy đủ màu xanh, đỏ đi lấy nước nóng đun sôi sau buổi cơm chiều (giá một bình là 10 xu NDT). Cũng vào khoảng giờ đó, các “cô nghè, cậu cử” tương lai tay xách túi và chậu nhựa hướng về nhà tắm công cộng duy nhất trong khuôn viên trường đại học (mỗi lần “tẩy trần” tốn 1,8 NDT). Phải chờ đến lúc các “cô nương” ra khỏi nhà tắm, tóc ướt đẫm, hai má hây hây ửng hồng, bước chân nhẹ nhàng thanh thoát, mới ngấm được toàn bộ cái “duyên dáng” của một thời “bao cấp” còn lại. Nhưng bạn cũng đừng vội lạc quan mà quên đi mặt tiêu cực cần phải xét lại: để có thể cung cấp đủ nước nóng tắm và nấu nướng thường nhật cho gần 5.000 sinh viên, những lò máy hơi đồ sộ trong trường phải tiêu thụ một số lượng than khổng lồ và các ống khói cao nghều nghệu cứ xả những đám mây xám ngùn ngụt lên trời. Thế nhưng, trên biểu đồ ô nhiễm của các thành phố lớn ở Trung Quốc được công bố hàng tuần trên báo China Daily, Nam Kinh vẫn được xếp vào hạng ưu!
Dĩ nhiên không có cuộc “thay da đổi thịt” nào mà không gây đau đớn, nhưng Nam Kinh cũng có thể cung cấp một số kinh nghiệm “giảm đau” trong quá trình đô thị hóa. Bên cạnh những khối bê tông xám xịt, màu xanh của thiên nhiên vẫn còn bàng bạc. Nam Kinh đã không chặt phá những hàng cây tiêu huyền để mở rộng đường phố, mà tìm cách điều hòa lượng xe cộ lưu thông cho hợp lý hơn. Những cánh rừng bạt ngàn bao quanh thành phố (nơi tọa lạc lăng tẩm của các vị vua triều Minh đầu tiên và nhà cách mạng Tôn Dật Tiên) vẫn được giữ gìn, tôn tạo và chăm bón kỹ càng như lá phổi của thành phố gần 5 triệu người. Các nhà thiết kế Trung Quốc cũng không quá quan tâm đến mối lợi “tối ưu hóa mặt bằng” mà thu hẹp các khoảng không gian xanh của các công trình công cộng. Đâu đâu cũng thấy cỏ, cây, hoa, lá được phối trí hài hòa, chăm sóc cẩn thận, làm đẹp các con đường, công viên hay quảng trường thoáng đãng. Các công viên thường là nơi lai vãng của lớp người cao tuổi, hiện đã chiếm gần hết 10% tổng dân số toàn quốc. Họ đến đó hàng ngày để tập dưỡng sinh buổi sáng, đọc báo miễn phí, khiêu vũ, múa quạt, đánh cờ và bàn chuyện... thế sự thăng trầm dưới bóng mát của cây cối và tiếng hót của chim muông.
Còn gì nữa nhỉ? Làn sóng đô thị hóa như một cơn thủy triều chụp xuống Nam Kinh nhưng vẫn chưa phủ hết các ngóc ngách nhỏ bé của đời thường giản dị đáng yêu. Ở cổng sau của trường Đại học Nam Kinh, tối tối vẫn có một cụ già đặt chiếc thùng phuy, nướng khoai theo kiểu cổ truyền bán cho lũ sinh viên “mạnh ăn nhưng yếu tiền”. Một tối cuối thu, trên đường đi dạo trở về, bạn hãy ghé qua đó trước khi vào nhà. Chỉ 1 NDT, ông cụ sẽ chọn cho bạn củ khoai nướng còn nóng hổi. Cứ giữ chúng một lát, xuýt xoa cho ấm hai lòng bàn tay rồi hẵng bẻ ra. Ôi chao, cái màu vàng óng ả đó sao mà giống những miếng khoai vùi của mùa đông miền Trung thời trẻ xa xưa thế! Xa xưa mà tựa như rất gần. Cứ thế mà ngồm ngoàm, nuốt cho hết hương vị ngọt ngào vào lòng. Nếu cần thì nghêu ngao “đói lòng ăn nửa củ khoai...”, bạn sẽ ngẩn người, tự hỏi: sao tự dưng lại nhớ nhà đến thế nhỉ?
9-1999
[1] Đồn cảnh sát, nói trại theo tiếng Pháp
[2] “nhìn tường”