Giã từ Giang Nam
Thuở nhỏ, tôi thường được nghe các nhà thơ lãng tử kháo nhau về cảnh đẹp ở Trung Quốc: “Trên trời có thiên đường, dưới đất có Tô, Hàng”. Đó là nói đến hai vùng đất danh lam thắng cảnh nổi tiếng, không những ngày nay mà hàng trăm năm trước Thiên Chúa giáng sinh ở vùng Giang Nam. Cũng như hội chứng du lịch tân thời “tôi đã có mặt ở đây” (I was here), vùng đất hạ lưu của sông Dương Tử đã ghi dấu chân của hầu hết đại thi hào cổ thời như Lý Thái Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục, không quên nhà-thơ-hoàng-gia-tài-tử Càn Long! Nhiều vần thơ xướng hoạ trác tuyệt của họ đã được khắc lên những bức tường, trong những khu vườn cổ của các nhà mạnh thường quân ‘phú quí sinh lễ nghĩa’ học đòi yêu thơ.
Nghe nói trong một lần đi sứ sang Trung Quốc, Tiên điền Nguyễn Du - nhà thơ tài hoa của Việt Nam - cũng có ghé Hàng Châu và đã để lại đôi câu thất ngôn tứ tuyệt, mà bút tích vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Chính tại nơi đây, thi sĩ họ Nguyễn đã đứng trên cầu Tiền đường, thai nghén những dòng thơ đầu tiên của Truyện Kiều bất hủ! Và một giai thoại trong làng thơ đã làm nhiều tấm lòng đa cảm thổn thức: cũng ở tại Hàng Châu này, nhà thơ tài hoa Lý Bạch trong một cơn say lúy túy đã buông mình nhảy xuống Tây Hồ để ôm mảnh trăng rằm vào lòng, rồi đi luôn vào thế giới mộng ảo[1]. Si tình với cảnh hồ như ông thì chỉ có Lamartine ở phương Tây mới sánh kịp, nhưng thi hào họ Lý cũng phải chờ đến hơn 12 thế kỷ sau mới có được người đồng điệu!
Vào cuối thiên niên kỷ thứ hai, với phương tiện giao thông hiện đại, bạn có thể từ Thượng Hải đến Hàng Châu và Tô Châu bằng xe lửa hay xe khách trong vòng vài tiếng đồng hồ, chẳng cần phải ngồi nhâm nhi ấm trà Long Tĩnh, lênh đênh trên chiếc thuyền con từ ngày này sang ngày khác, như các nhà thơ cổ đời Đường. Chiều chiều, từ Tô Châu còn có dịch vụ du lịch trên nước đưa bạn đi Hàng Châu, xuyên qua các con rạch nằm phơi mình dưới những cây cầu đá nhỏ mái vòm cong xinh xắn. Từ những chiếc thuyền trang bị hiện đại, bạn vẫn có thể thả hồn theo những hàng liễu rũ tóc, la đà hai bên bờ kênh. Tối đến có thể ngồi nhâm nhi một ly Mao đài ngát hương, trong ánh đèn lồng màu đỏ từ những dãy nhà cổ, thấp, đầy rêu phong, hắt xuống lòng thuyền chao đảo.
Tất cả hầu như đều còn đó, nhưng sao khách lãng du phương Nam vẫn nghe một ai đó, vừa đi thăm Tô, Hàng trở về, đã không để linh hồn ở lại cùng với vùng thiên đàng hạ giới này, mà lại quay mặt thở dài:
“Tô Châu cảnh cũ chẳng còn,
Giai nhân đã vắng, anh hùng làm chi!”
(Tạm phỏng thơ của bạn hiền Vũ Đức)
À, thì ra là thế! Cái đẹp tao nhã và thi vị trong phong thái hưởng đời nhàn nhã cố hữu của người Việt ta phải có đủ bộ: trà ngon, rượu ngọt, cảnh đẹp và nhất là phải phảng phất (chỉ phảng phất thôi nhé, để giữ tính chất thanh tao của hồn thơ!) bóng dáng thướt tha của các nàng tố nữ! Thử đi một vòng qua Vô Tích, Dương Châu, Nam Kinh, Tô Châu, Hàng Châu, để chứng kiến tận mắt biết bao cảnh “vật đổi sao dời” của Trung Quốc mở cửa thời nay, mới cảm thông được nỗi lòng hoài cổ của người lữ khách từ phương Nam.
Càng đi về phía đông, tiếp giáp với cửa khẩu Thượng Hải, dấu vết thời vàng son của vùng Giang Nam càng rõ nét qua một kiến trúc đặc thù. Phần lớn những ngôi nhà (kể cả những ngôi nhà mới xây theo kiểu hiện đại) đều có vòm cuốn trên mái, ở giữa thường đặt một phù điêu trang trí nhỏ (cây tùng, tượng phước-lộc-thọ, hoa thược dược) để tạo phúc cho gia đình chủ nhân. Thế nhưng, ngoại trừ những nơi đã được khoanh thành khu bảo tồn và phục chế nhằm phục vụ mục đích khai thác tiềm năng du lịch, những dãy phố cổ mi-ni xinh xắn thời xưa hầu như không còn nữa. Điều đó tưởng cũng chẳng có gì lạ. Vùng Giang Nam vốn là nơi phồn hoa đô hội của vùng trung nguyên đã hơn hai thiên niên kỷ, hiển nhiên những cái còn lại hiện nay để người đời nhìn ngắm chẳng phải là những cảnh trí nguyên thủy như trong hoài niệm.
Trong số những tác nhân góp phần phá hủy cảnh đẹp kỳ thú của Tô, Hàng tàn bạo nhất, phải kể đến con người. Sau thời ngũ đại, thập quốc, là một loạt các cuộc tao loạn, tàn phá liên tục qua các triều đại, mãi đến nạn Thái bình thiên quốc vào đầu thế kỷ, Giang Nam tưởng đã khó lòng tồn tại. Nhưng phải chờ đến khi các bàn tay hung hãn của “vệ binh đỏ” hung hãn xuống tay thì hầu hết các lâu đài, miếu mạo, danh lam, thắng cảnh của vùng Giang, Tô mới thật sự đi vào dĩ vãng! Ngày nay, các hướng dẫn viên du lịch thường xuống giọng, mở một dấu ngoặc trong lời thuyết minh cho khách tham quan, là có lần thủ tướng Chu Ân Lai đã phải xuống tận Hàng Châu “van nài” các “hung thần đỏ mũi lõ chưa sạch” xin bỏ qua, không tàn phá một số danh lam nổi tiếng hiếm hoi còn lại của Trung Quốc. Nhờ thế mà khách nhàn du từ năm châu ngày nay còn có được những khu vườn tư nhân để thưởng ngoạn và trầm trồ, mặc dù phần lớn thực sự chỉ là tân tạo, phỏng theo các phiên bản cũ.
Dù mới hay cũ, những khu vườn tư nhân ở Dương Châu, Tô Châu và Hàng Châu quả thật là những thiên đàng mi-ni dưới thế. Trước đây, những khu vườn của vị hưu quan khiêm nhường, ngư ông hay của Hà gia, Cát gia, là những không gian riêng rẽ, rất cá nhân, là nơi các vị quan đã chán ngấy hoạn lộ “qui khứ lai từ”, hay các phú hộ buôn muối và hàng lụa lắm của, lắm tiền thèm cảnh nhàn hạ, hoặc các lãnh chúa đã ngán cảnh chém giết muốn tìm lại chút tĩnh lặng cho tâm hồn. Sau 1949, tất cả những khu vườn tư nhân này đã được sung công, mở rộng cửa cho khách bốn phương thưởng lãm. Phải mở những cánh cửa đó ra mới thấy được các ngón nghề tuyệt xảo của nghệ nhân tạo vườn ngày xưa và mức xa hoa tột cùng của các phú hộ thời phong kiến!
Bình thường, các khu vườn xưa thường được gọi là Tây viên vì được thiết kế về phía mặt trời lặn để hứng trọn tất cả ánh sáng trong ngày, rất cần thiết cho khí hậu ẩm thấp ở vùng Giang Nam. Đá dùng để xây hòn non bộ thì lấy lên từ lòng Thái Hồ ở Vô Tích, gạch lót đường thì được ghe, thuyền thồ về từ các lò chuyên nung gạch cho các lăng, tẩm triều Minh, cây cảnh thì qui tụ từ khắp mọi miền đất nước để thu hết hương hoa của thiên nhiên vào một khoảng đất hẹp, thường không lớn hơn 2, 3 mẫu tây. Cũng trong chu vi nhỏ hẹp đó, những ngôi nhà mái ngói xanh cong vút, những con đường lót đá ngoằn ngoèo, những hòn non bộ đầy dáng vẻ, nhà thủy tạ xinh xắn, dòng suối mơ màng, cùng chung với trăng, nước, hoa, cỏ và chim muông dựng lên một cảnh trí hài hòa, năng động nhưng tĩnh lặng, làm nhẹ hẳn lòng khách nhàn du.
Trong cái cảnh trí tuyệt hảo ấy, nhâm nhi một tách danh trà, uống cạn một chén rượu ngọt còn quyện mùi da thịt trinh nguyên do tận tay mỹ nữ rót mời, xướng một câu thơ ưng ý giữa đám bạn hiền lãng tử trong hội tao đàn, mới thật sự đáng gọi là trọn hưởng mùi đời! Mời bạn hãy đến ngồi chơi ở một ngôi nhà thủy tạ bằng gỗ trắc đen nhánh, có những cửa sổ che bằng lụa Tô Châu mỏng, bốn cửa lớn mở ra cảnh trí tứ thời: cửa xuân thì có những cành mai trắng, hồng khoe sắc; cửa hạ thì cả một hồ sen thơm ngát; cửa thu thì thênh thang một vườn cúc; cửa đông thì rào rạt một rừng trúc. Nếu muốn ngắm cảnh tuyết rơi thì dựng một bức tường ở vùng ngoại cảnh, quét vôi trắng xóa. Có viên ngoại chơi ngông còn cho xây cả một nhà riêng biệt bên cạnh hồ, để khi trời mưa, hẹn bạn tri âm nhâm nhi tách trà, chén rượu, thưởng thức tiếng mưa rơi trên thánh thót những cánh lá sen trong hồ!
Nếu có dịp, bạn nên ghé thăm Tây Hồ cho biết. Lưu truyền rằng những ngày mưa bụi đầu xuân thì cảnh trí Tây Hồ mới thật tuyệt hảo. Mặt hồ mênh mông được dát một lớp bạc mỏng, như hơi sương lãng đãng không bến bờ. Quanh hồ là những loại mai trắng, hồng và đỏ nở rộ, ngả nghiêng trong gió, dưới nước thì cá chép vàng bơi lội tung tăng. Thời gian tưởng như dừng lại vì mọi sự dường như không thật nữa. Muốn thăm thú cho hết các chùa chiền, đền miếu quanh hồ cũng mất đôi ba ngày. Một cái thú tiêu khiển nhàn hạ cần nhiều thì giờ!
Nhưng đó chỉ là những cảnh vườn riêng rẽ còn lưu giữ được tinh túy của nền kiến trúc cổ của Trung Hoa và những khu hồ thiên nhiên chưa mất hết cái duyên dáng trời cho, còn sót lại trong cơn bão đô thị hóa và hiện đại hóa ngày nay. Chỉ cần hai thập niên ngắn ngủi, với những phương tiện hiện đại và lòng nhiệt thành phá bỏ để xây dựng của con người, cái đẹp của vùng Giang, Tô hầu như đã bị mai một.
Đã đành là những con kênh nhỏ, những hàng liễu rũ, những cây cầu mái vòm tròn, những con thuyền gỗ lặng lờ trên nước, những chiếc lồng đèn đỏ, những cao lâu, tửu quán vẫn còn đó, nhưng “tấm hồn thu thảo” của vùng Giang, Tô không còn nữa! Nó như một cô gái được chưng diện diêm dúa để lên xe hoa lần thứ hai, nhưng trái tim thì nàng đã gửi cho một ai đó mất rồi, như một người đẹp không tim!
“Giai nhân đâu vắng?” khiến khách anh hùng chạnh lòng nhớ nhung? Quả vậy, không còn cảnh các kiều nữ chân thon, ngồi xõa tóc, giặt lụa dọc bờ sông (phải nói là kênh, rạch mới đúng), chỉ thấy những cô bán hàng lưu niệm rành rỏi, chào mời ríu rít không khép miệng, chuyên vứt tiền thối lại cho khách! Bạn còn phải mặc cả tận tình, nếu không, có thể hớ đến gấp ba bốn lần! Cái nhàn nhã, thi vị của lượt là áo lụa, tay phất phơ quạt trầm, dừng lại bên cầu dõi theo dáng ai đó nhẹ nhàng như sương khói, lẩn khuất sau những mảnh tường rêu phong chẳng còn đâu nữa. Trên suốt chiều dọc của thành phố nước ở Tô Châu khách du lịch bốn phương chen chúc trên những con hẻm nhỏ giữa hai dãy phố thấp lè tè (bóng dáng khu phố cổ ở Hội An) chỉ để tự nhìn ngắm mình; dưới nước cũng thuyền bè tấp nập trên những dòng kênh, rạch đã mất đi màu trong xanh nguyên thủy, ồn ào náo động khắp cảnh quan.
Cơn lũ đô thị hóa đã cuốn đi những thiên đàng còn sót lại trên mặt đất và phá tan sự hài hòa vốn có giữa thiên nhiên và con người của thời xa xưa. Bầu trời Giang Nam như luôn luôn có một màn sương bao phủ vì nạn ô nhiễm công nghiệp và khói than[2]. Nhiều khu nhà cổ đã được phá bỏ, nhường chỗ cho những khu thương mại hiện đại. Trong chiều hướng phát triển chung, những dãy nhà cao tầng lừng lững đã trở thành cảnh quan quen thuộc của những thành phố đang lên ở Trung Quốc.
Cuộc giao tranh giữa truyền thống và hiện đại hầu như không khoan nhượng. Khu thương mại mới ở Tô Châu, vốn là niềm tự hào của thời mở cửa, là một kiến trúc hỗn tạp tân, cổ giao duyên, với các cửa hàng KFC, Mc Donalds chen lẫn với cao lâu, tửu quán cổ truyền.
Hầu hết chùa chiền không còn là nơi thờ phượng trang nghiêm nữa. Linh Sơn tự nằm bên Thái Hồ bao la ở Vô Tích là một sự phô trương vô tiền khoáng hậu, không hương khói, không tăng ni sư sãi, với một tượng Phật dát đồng khổng lồ, cao gần 90 thước, sừng sững trên một ngọn đồi ngồi chờ khách du lịch chụp ảnh lưu niệm, trong tiếng phóng thanh tụng niệm nghe như một loại hợp xướng tân thời! Người Trung Quốc hiện đại hầu như không còn thói quen chiêm bái và cúng tế nữa, khác hẳn với Hoa kiều ở nước ngoài sùng bái đủ loại tín ngưỡng, đến độ mê tín dị đoan. Ngôi chùa lớn (ít ai phân biệt được đền của Lão giáo và chùa của Phật giáo) được phục chế nằm giữa trung tâm thương mại ở Tô Châu chỉ nhằm phục vụ khách du lịch hơn thiện nam tín nữ. Hai dãy nhà ngang đồ sộ, vốn là nơi ngự trị của các vị thần thiện, ác và 36 tượng La Hán, nay trở thành những dãy tiệm bán đủ loại hàng hóa, kể cả áo quần ngắn phụ nữ! Một cuộc thương mại hóa không nương tay, rất phổ biến khắp vùng Giang Nam! Chẳng biết rồi đây cái gì sẽ còn lại sau cơn toàn cầu hóa rộn ràng của niên kỷ mới.
“Tô Châu cảnh cũ chẳng còn”. Thôi, cũng đành bắt chước Thôi Hiệu giã từ Giang, Tô trong… tiếng thở dài: “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông!”. Mà người đẹp má hồng mơn mởn như quả đào tươi của ngôi vườn cổ kia thì cũng đã quá xa vời. Thân xác của nàng có lẽ đã hòa lẫn với cát bụi cả gần một thiên niên kỷ rồi, đâu mới chỉ là năm ngoái đâu mà tiếc, mà nhớ!
Thôi thì cứ cho cô nàng ngủ yên trong hoài niệm, như cảnh thiên đường hạ giới Tô, Hàng được ủ trong tâm tưởng của các thi nhân lãng tử, để còn có đề tài mà kháo nhau lúc trà dư, tửu hậu nữa chứ!
Nam Kinh, lập đông 1999
Chú thích!
[1] Thật ra, đại thi hào họ Lý đã không từ giã cõi trần với vầng trăng trong tay, mà chết trên giường bệnh vào năm 762, thọ 61 tuổi, tại nhà ông chú ruột ở huyện Dang Tụ.
[2] Mức ô nhiễm do khói than trầm trọng đến nỗi, theo báo chí chính thức đưa tin, Bắc Kinh đã phải đóng cửa hàng trăm xí nghiệp ở thủ đô, để phục hồi màu xanh thiên nhiên của mùa thu, hầu kịp tô điểm cho ngày kỷ niệm 50 năm thành lập CHNDTH!