← Quay lại trang sách

Chương 13

Và cứ thế, tôi lại tiếp tục cuộc sống buồn tẻ ở thị trấn Colby miền bắc Carolina. Hằng ngày ngồi xe buýt cùng Howard đến trường. Cố phớt lờ những đứa trẻ chẳng bao giờ niềm nở với tôi. Chơi trò Thám tử Kinh thánh ở nhà thờ. Chờ đợi Xương Chạc đến ăn xúc xích trong bẫy. Ngồi ngoài hiên ngắm sao cùng bác Gus và bác Bertha mỗi tối. Và ngày nào tôi cũng ước.

Thi thoảng Jackie lại gọi điện để ba hoa về cuộc sống hạnh phúc của bả ở Raleigh. Bả sẽ đi dạ tiệc cùng anh chàng bạn trai Arlo này. Có thể hè này bả và bà Carol Lee sẽ làm việc ở Tiệm bánh Waffle. Và bả vừa dán hình xăm giả hình con bướm trên mắt cá chân nữa.

Tôi kể cho Jackie chuyện Xương Chạc, và nói rằng tôi sẽ nuôi nó, nhưng bả chỉ hỏi liệu tôi làm vậy có ổn không. Tôi nói, chuyện đó quá tốt ấy chứ, và sau đó chúng tôi cúp máy.

Tôi đã gặp Xương Chạc thêm ba lần nữa. Một lần là khi nó sục sạo thùng rác trong bãi đậu xe của cửa hàng Dairy Freeze. Lần tiếp theo tôi thấy nó chạy dọc theo Quốc lộ 14 trong màn mưa. Và một lần nữa khi nó đang ăn một thứ gì đó trong túi giấy dưới chiếc bàn ăn ở khu cắm trại suối Brushy.

Chiếc khuôn bánh đựng đồ ăn trong bẫy đã hai lần được chén sạch sẽ, nhưng cả hai lần tôi đi tìm xung quanh đều không thấy bóng dáng Xương Chạc đâu. Thật may là tôi chỉ phải đi học hai tuần nữa thôi, sau đó tôi sẽ có cả ngày rảnh rỗi để canh bẫy. Nhưng tôi lại bắt đầu thấy lo rằng mình sẽ không bao giờ bắt được Xương Chạc. Có lẽ tôi đang lãng phí thời gian vô ích rồi.

“Đêm qua tớ nghe thấy tiếng Xương Chạc sủa đấy,” một hôm Howard nói với tôi khi hai đứa ngồi ăn kem trên chiếc tràng kỷ ngoài hiên nhà nó.

“Sao cậu biết đấy là Xương Chạc?” tôi hỏi lại, mắt vẫn nhìn thằng bé Cotton nhảy ra nhảy vào cái thùng đựng sữa đặt trong sân. Nước từ que kem đá vị cam chảy dài từ cằm xuống cái bụng trần của nó.

“Linh tính mách bảo thôi,” Howard đáp.

“Chắc chúng ta không bao giờ bắt được nó đâu,” tôi than vãn. “Bác Gus nói đúng đấy. Chắc nó thích làm chó hoang hơn.”

“Đừng nhụt chí thế chứ,” Howard nói.

“Tớ có nhụt chí đâu.”

“Có mà.”

Tôi hục hặc giậm chân. “Tớ không nhụt chí!”

Howard liếm nước kem đá chảy dọc bàn tay nó và nói, “Dứa.”

Tôi ngả phịch người vào lưng ghế rồi quẳng que kem ra ngoài sân. Câu thần chú dứa ngu xuẩn của nó bắt đầu khiến tôi bực mình.

“Trời đất, Charlie,” Howard nói. “Đừng hờn dỗi như em bé thế.”

“Tớ không phải em bé!” tôi la lên.

Howard nhún vai. “Nhưng cậu đang cư xử hệt như một đứa con nít vậy.”

Đúng lúc đó, mẹ Howard ra ngoài hiên và lau tay bằng chiếc khăn lau bát. Nhưng cơn tức giận đã xâm chiếm toàn bộ cơ thể tôi, và tôi không thể chống cự được. Tôi đã buột miệng nói, “Ờ, ít ra thì tôi không phải đứa nhà quê ăn thịt sóc như cậu.”

Sau đó, tôi đùng đùng đi về phía xe đạp của Lenny và phóng như bay về nhà bác Gus và bác Bertha. Khi về đến nơi, tôi vứt chiếc xe xuống sân và định lao thẳng vào nhà. Nhưng khi vừa đặt chân đến cửa, tôi nghe thấy có tiếng động trong chiếc bẫy. Tôi quay người về phía đó, và tôi không tin nổi vào mắt mình nữa! Xương Chạc đang đứng trong chuồng ăn ngấu nghiến món thịt băm và khoai tây chiên.

Không chần chừ thêm nữa, tôi liền chạy như bay đến cái bẫy và đóng “sầm” cửa lại. Xương Chạc bất ngờ “ẳng” lên một tiếng, rồi nhảy dựng lên. Sau đó nó lùi vào trong góc và gục đầu xuống, đôi tai dài rủ xuống tận mặt đất. Tôi thấy thật buồn khi khiến nó sợ hãi đến thế.

“Chào, Xương Chạc,” tôi thầm thì.

Nó cố huých thật mạnh đám dây thép đến mức tôi cứ sợ nó sẽ phá hỏng cái bẫy và trốn đi mất.

“Chị vẫn còn nhiều thịt băm lắm,” tôi nói.

Nó nghếch đầu nhìn tôi.

“Đứng đây chờ nhé,” tôi nói. “Chị sẽ quay lại ngay.”

Tôi cài then cửa và chạy thật nhanh vào nhà để gọi bác Bertha. Chúng tôi suýt đâm sầm vào nhau khi tôi phi như bay vào trong bếp.

Bác Bertha ôm tim và thốt lên, “Charlie! Lạy Chúa! Cháu làm bác sợ gần chết!”

“Cháu bắt được nó rồi!”, tôi reo lên mừng rỡ. “Cháu bắt được Xương Chạc rồi!”.

Tôi mở toang cửa tủ lạnh và lấy một ổ thịt băm bọc giấy nhôm, sau đó lại chạy ra sân. Bác Bertha đuổi theo tôi và nói. “Bác biết mà! Bác biết ngay là phải dùng món thịt băm của bác thì mới bắt được nó!”

Khi chúng tôi đến nơi, Xương Chạc đang đào hố cạnh hàng rào dây thép, cứ như thể nó đang đào đường hầm để chạy trốn sang Trung Quốc ấy. Đám bụi đất và sỏi đá dần chất đống phía sau lưng nó. Khi thấy chúng tôi, nó liền ngưng đào bới và lại lủi vào góc chuồng.

Tôi bóc giấy nhôm. “Chị đem thêm thịt băm này,” tôi nói.

Nó rên lên khe khẽ thật đáng thương. Bác Bertha khuyên tôi phải cẩn thận, và đừng thò tay qua hàng rào thép hay đại loại thế. Nhưng tôi chỉ chăm chú nhìn Xương Chạc và dỗ dành nó đừng hoảng sợ. Sau đó, tôi đưa một miếng thịt băm qua mắt lưới gần chỗ nó và chờ đợi.

Nó chun mũi hít hà mùi thịt băm thơm nức. Nó quyết định đứng dậy và đánh hơi kĩ hơn một chút.

“Nào, Xương Chạc,” tôi nói. “Cho mi cả đấy.”

Nó tiến thêm một bước, mắt vẫn dán chặt vào miếng thịt. Nó thận trọng tiến thêm bước nữa, và cứ thế bước đến chỗ tay tôi. Sau đó nó đớp gọn miếng thịt băm, nuốt chửng trong một nốt nhạc, rồi vẫy đuôi.

Vẫy.

Vẫy.

Vẫy.

Ba cái vẫy đuôi thật nhẹ, có lẽ nó muốn nói cảm ơn tôi vì miếng thịt đó.

Tôi quay sang bác Bertha. “Bác có thấy không ạ?” tôi hỏi.

Bác ấy gật đầu. “Chắc chắn rồi. Thú thực là bác đã nghĩ nó sẽ đớp mất một hay hai ngón tay của cháu cơ đấy.” Bác ấy thò tay vào túi tạp dề và lấy ra hai chiếc bánh quy mặn. “Cháu cho nó đi,” bác ấy nói.

Tôi đưa bánh cho Xương Chạc, và sau khi chén bánh gọn ghẽ, nó lại ngước lên nhìn tôi và vẫy đuôi lần nữa.

Bác Bertha tìm giúp tôi chiếc vòng cổ được Bác Gus chế từ chiếc thắt lưng cũ. Chúng tôi lấy một đoạn dây thừng từ trong nhà kho rồi chằng vào vòng cổ. Rồi tôi lại chạy vào trong nhà lấy thêm chút thức ăn. Một ít ngũ cốc. Một miếng bánh mì nho. Và vài lát xúc xích bologna.

Sau đó, tôi lại phi như bay ra chỗ cái bẫy, còn bác Bertha cố gắng đuổi kịp tôi. Bác ấy vừa chạy vừa hổn hển, “Đợi bác với nào!”.