Chương 14
Xương Chạc không thích cái vòng cổ đó chút nào. Nó lồng lên như ngựa hoang, cái đầu quẫy lắc liên tục khi bị tôi tròng chiếc vòng vào cổ. Sau đó, nó ngồi xuống và khoanh chân hệt như một chú la bướng bỉnh khi tôi nắm dây thừng và cố kéo nó ra khỏi chiếc bẫy. Nhưng sau một hồi kiên nhẫn rải từng lát xúc xích bologna trên đường giống như Hansel và Gretel* rải vụn bánh mì, Xương Chạc cũng chịu theo chân tôi vào nhà. Khi chúng tôi vào hẳn trong nhà, bác Bertha liền khóa cửa và tôi tháo đoạn dây thừng buộc vào vòng cổ của nó. Chúng tôi cùng ngồi trên tràng kỷ quan sát nó khám phá căn nhà.
Hansel và Gretel: một truyện cổ tích thần tiên có nguồn gốc từ nước Đức.
Nó đánh hơi mọi thứ trong nhà. Cái thảm xanh lông xù trước cửa ra vào. Ghế tựa của bác Gus. Giỏ len của bác Bertha. Sau đó, nó thận trọng kiểm tra phần còn lại của căn nhà: ngửi cái giá treo áo cạnh cửa hậu, rồi liếm sạch vụn bánh dưới gầm bàn bếp. Nó cất tiếng sủa khi nhìn thấy một con mèo trên bậu cửa sổ. Chú mèo đó liền cong người và rít lên. Nhưng Xương Chạc không gây sự với nó mà tiếp tục khám phá chỗ khác, nên tôi thấy nhẹ nhõm. Bác Bertha đã lo rằng nó sẽ đuổi bọn mèo, và thú thực là tôi cũng đã hơi lo lắng về chuyện đó.
Sau một hồi đánh hơi chán chê, Xương Chạc đến nằm ngủ cạnh tràng kỷ. Tôi khẽ nhón chân đến bên nó, rối vuốt ve và khẽ gọi tên nó. Tôi thật không thể tin được là mình đã có một chú chó.
Tối đó, bác Gus về nhà và tỏ ra hết sức hài lòng khi nhìn thấy Xương Chạc ngồi đợi bác Bertha nâù món lườn gà chiên và đậu trắng trong bếp.
“Ồ, ngạc nhiên thật đấy!” bác Gus thốt lên.
Tôi cứ vuốt ve Xương Chạc mãi. Tôi vỗ nhẹ đầu nó, vuốt nhẹ đôi tai dài và gãi bụng nó.
“Trông nó cũng bảnh phết bác nhỉ?”.
Bác Gus gật đầu. “Chắc chắn rồi.”
“Nó cũng hôi ra phết đấy,” bác Bertha chun mũi. “Ngày mai cháu phải đưa nó ra sân và tắm cho nó thật sạch nhé.”
“Vâng ạ.”
Ngày mai là thứ Bảy, nên tôi có thể dành cả ngày cho Xương Chạc. Tôi sẽ tắm cho nó, rồi dắt nó đi dạo. Có thể tôi sẽ dạy nó một mệnh lệnh nào đó, như ngồi hay nằm xuống chẳng hạn. Có thể tôi sẽ đưa Xương Chạc đến nhà Howard, nếu ngày mai tôi hết giận nó vì gọi tôi là kẻ nhụt chí và đứa con nít. Nhưng sau đó tôi sực nhớ rằng mình đã gọi Howard là đứa nhà quê ăn thịt sóc trong khi bác gái đang đứng ngay gần tụi tôi. Ruột gan tôi thắt lại, và mặt tôi nóng bừng khi nghĩ về câu nói đó. Tôi biết Howard chẳng giận tôi đâu, vì nó là kiểu người chẳng bao giờ thù dai. Nhưng tôi chắc chắn là từ hôm đó mẹ Howard ghét tôi rồi. Tôi cá là bác ấy không muốn tôi xuất hiện trong căn nhà đó nữa, bởi những từ ngữ cộc cằn, thô lỗ của tôi chỉ tổ làm vấy bẩn lòng thánh thiện của họ mà thôi.
Đêm đó, tôi dắt Xương Chạc ra ngồi ngoài hiên cùng bác Gus và bác Bertha. Thi thoảng nó lại ghếch tai lên nghe ngóng tiếng thỏ, hoặc tiếng con gì đó sột soạt trong rừng. Nhưng một lúc sau, nó quyết định nằm xuống và gác cằm lên mấy ngón chân tôi. Nó còn chẳng thèm bận tâm tới lũ mèo đang lảng vảng xung quanh.
“Bác nghĩ cháu có một chú chó ngoan đấy, Charlie,” bác Gus nói.
Tôi cười với Xương Chạc. “Cháu cá là nó cũng ngoan như con Skeeter của bác vậy,” tôi đáp.
Bác Gus gật đầu tán thành. “Bác cũng nghĩ vậy.”
“Hai bác cháu biết em thích nhất điều gì về loài chó không?” bác Bertha lên tiếng.
Bác Gus và tôi chờ đợi câu trả lời.
“Chúng luôn yêu thương người chủ vô điều kiện.” Bác Bertha cười với Xương Chạc. “Hừm, em biết có những kẻ gàn dở, hợm hĩnh, và thậm chí cả những kẻ hai mặt đểu cáng, thế mà tụi chó vẫn yêu thương và tôn thờ những kẻ đó, như thể người chủ của chúng là thánh thần vậy. Hai người hiểu ý em không?”.
Bác Gus gật đầu và đáp, “ừm.”
“Em ghét phải thú nhận điều này,” bác Bertha tiếp tục, “nhưng em tin là một nửa đám mèo kia sẽ bỏ em nếu ai đó đem cá mòi đến dụ chúng, và nếu đã đi rồi thì chúng sẽ chẳng quay lại với em nữa đâu.”
Tôi cúi người và luồn tay xuống dưới mạn sườn Xương Chạc. Lông của nó thật mềm mại và ấm áp, và nó đang khe khẽ ngáy trong giác ngủ say sưa. Sau đó, tôi ngước nhìn bầu trời và thấy biết ơn vô hạn. Đã lâu lắm rồi tôi không có cảm giác này. Tôi biết ơn vì có một chú chó, và biết ơn vì chú chó đó sẽ mãi yêu thương tôi vô điều kiện.
Sáng hôm sau, việc đầu tiên khi tôi vừa mở mắt dậy là đi kiếm Xương Chạc để chắc chắn chuyện xảy ra hôm qua không phải là mơ. Và tất nhiên, nó vẫn nằm đó, cuộn tròn người trên sàn nhà ngay cạnh giường tôi. Tôi đã cho nó một chiếc gối, và nó liền nằm ngay lên đó mà chẳng hề do dự.
Cả buổi sáng hôm đó tôi tắm rửa, chải chuốt, gắp gai nhọn găm vào đuôi Xương Chạc và bắt ve rận trong đôi tai dài của nó. Tôi biết nó không thích, nhưng nó vẫn để tôi kiểm tra từng bộ phận cơ thể. Khi tôi xong việc, Xương Chạc trông vô cùng bảnh bao và thơm tho, nên bác Bertha cứ xuýt xoa mãi, và bác ấy cứ chạy ra chạy vào để lấy thêm gan gà cho nó. Xương Chạc gầy đến mức bạn chỉ cần nhìn cũng có thể đếm được từng chiếc xương sườn trên người nó.
“Chúng ta phải tẩm bổ cho nó thôi” bác Bertha nói.
Sau bữa trưa, tôi tập dắt nó đi dạo với chiếc dây thừng chằng vào vòng cổ của nó. Đầu tiên, nó tỏ vẻ không thích ra mặt. Nó liên tục lúc lắc đầu, hoặc lì lợm ngồi xuống và không chịu nhúc nhích. Nhưng tôi đã thủ sẵn một túi nilon đầy phô mai, thịt muối và mấy thứ ăn vặt khác để dụ nó đi theo, nên một lát sau, nó đã có thể đi dạo bên tôi vô cùng thuần thục. Chúng tôi đi quanh sân. Trong khu vườn. Đến đầu đường rồi quay lại. Sau đó, tôi buộc dây thừng vào cây sồi to đậu cheo leo trên vách núi sau hiên nhà để Xương Chạc nằm ngủ, và bác Bertha đặt một tấm khăn trải bàn ngay cạnh chỗ nó nằm. Chúng tôi ăn trưa bằng món bánh mì kẹp phô mai ớt ngọt, và uống trà ngọt. Bác Bertha kể cho tôi câu chuyện về ông già Cooter từng là thị trưởng ở Colby.
“Ông ta lúc nào cũng đeo súng,” bác ấy nói. “Và nếu ai đó đỗ xe không đúng quy định trước tòa thị chính, ông ta sẽ bắn xịt lốp xe họ.”
“Thật ạ?”
“Thật đấy. Và hồi trước vợ ông ta giặt quần lót xong toàn buộc vào ăng ten xe hơi, rồi lái xe vòng quanh thị trấn để hong khô quần nữa đấy.”
Tôi chun mũi và thốt lên, “Eo ơi.”
Bác Bertha cười phá lên. “Công nhận là ghê thật! Mỗi lần bác thấy cái quần chíp to cũ xì đó bay phần phật trong gió, bác đều tưởng tượng nó là quốc kỳ của Xứ sở Mông to đấy.”
Tôi và bác Bertha bật cười ha hả sau câu nói đó. Thi thoảng, Xương Chạc lại khẽ giật cẳng chân và thở dài trong lúc ngủ say. Tôi thắc mắc liệu có phải nó đang mơ về việc được chạy nhảy tự do vì bị tôi tròng dây xích không. Tôi hy vọng là không phải vậy.
Tôi nháp một ngụm trà ngọt và ngắm lũ ong mật rập rờn giữa đám cỏ ba lá.
Cỏ ba lá! Có thể tôi sẽ tìm thấy một nhành cỏ bốn lá trong đám đó. Nên khi bác Bertha tiếp tục kể chuyện vợ chồng ông Cooter mua một mỏ vàng ở Nevada rồi chuyển nhà tới đó, tôi bắt đầu tìm kiếm trong đám cỏ. Và tất nhiên tôi đã tìm thấy một nhành cỏ bốn lá. Nhưng tôi không ngắt nhành cỏ đó. Nếu bạn ngắt cỏ bốn lá, thì bạn sẽ gặp may mắn, nhưng nếu bạn để nó tiếp tục sống, thì bạn có thể ước một điều, nên tôi đã thầm ước với nhành cỏ bốn lá đó.
Sau bữa trưa, tôi quyết định sẽ đến làm lành với Howard, nên tôi đã buộc dây thừng xích Xương Chạc vào ghi đông xe đạp của Lenny rồi đạp xe về phía nhà Odom. Có vẻ Xương Chạc rất thích chạy theo xe đạp của tôi. Đôi tai dài của nó bay phần phật trong gió, còn lưỡi thì lè ra để thở.
Khi tôi tới nhà Howard thì nó, Dwight và Cotton đang chơi một trò gồm ném lon và đâm nhau trong sân.
“Này, mọi người!” Tôi reo lên. “Xem tớ mang ai tới này!”
Tụi nó chạy như bay đến chỗ tôi, rồi đúng túm tụm quanh Xương Chạc và thi nhau vuốt lưng và vỗ về đầu nó.
“Woa, Charlie,” Howard nói. “Cậu bắt được nó rồi!”
Tôi cười toét miệng đầy tự hào. “Đúng vậy!” tôi nói. “Nó thật bảnh phải không?”
Howard gãi nhẹ tai Xương Chạc. “Hình như nó lai giống chó săn thỏ đấy,” nó nói. “Tớ thích đôi tai của nó.”
Khi cả lũ con trai nhặng xị vì Xương Chạc, nó chỉ ngồi im lặng và lim dim mắt mỉm cười.
Tụi tôi chơi cùng Xương Chạc cả chiều hôm đó. Cotton ném bỏng ngô cho nó đớp, còn Dwight cầm dây thừng dẫn nó đi vòng quanh sân, và lệnh cho nó nhảy lên ngồi trên một chiếc thùng ướp lạnh cũ. Howard thậm chí còn dạy Xương Chạc bắt tay nữa, và nó tiếp thu rất nhanh!
“Nó thông minh thật!” Howard thán phục, và tất cả chúng tôi đều gật đầu tán thành.
“Tụi mình đưa nó đến chỗ mẹ biểu diễn đi,” Howard nói, rồi đi cà nhắc lên hiên nhà.
Bởi mọi người đều nhặng lên khi thấy Xương Chạc, nên tôi đã quên béng điều tôi nói hôm qua trong cơn giận dữ. và tôi đã sực nhớ ra những lời lẽ xấu tính đó khi bác gái xuất hiện ngoài sân đế gặp Xương Chạc. Mặt tôi nóng bừng vì xấu hổ, và tôi không tài nào nhìn thẳng vào mắt bác ấy.
Howard cho bác gái xem Xương Chạc diễn trò ngồi trên thùng ướp lạnh và bắt tay.
“Nó thật thông minh, mẹ nhỉ?” Howard nói. “Chắc chắn rồi,” bác ấy đáp. “Và nó thật may mắn khi tìm được người bạn tốt như Charlie.”
Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm. Có lẽ mẹ Howard không hề giận tôi.
“Con sẽ đi lấy chút đồ ăn vặt để dạy nó lăn,” Howard nói.
“Ý hay đấy.” Bác gái xoa đầu tôi. “Món bánh thịt sóc của mẹ vừa mới ra lò đấy.”
Khi nghe bác ấy nói thế tôi chỉ ước mặt đất nứt ra một lỗ để tôi chui xuống. Hoặc tôi có thể đột nhiên biến mất vào thinh không. “Bam!” một tiếng. Rồi biến mất. Nhưng tất nhiên tôi chẳng có khả năng đó, nên tôi cứ đứng trân trân ngoài hiên với khuôn mặt nóng bừng và ruột gan quặn thắt.
Dwight và Cotton la hét và đập bôm bốp vào đầu gối phản đối, “Bánh thịt sóc á?”
Bác gái quàng tay lên vai tôi, và khi tôi có đủ dũng khí để ngước lên, thì bác ấy đã nháy mắt với tôi. “Bác rất vui khi ở đây có thêm một cô gái nóng nảy để giúp bác quản lý mấy đứa con trai này. Bác mong mãi mới có được một cô gái về phe mình đấy.”
Về phe bác ấy ư? Bác gái cần tôi về phe mình á?
Tôi ước mình có thể lưu lại mãi mãi khoảnh khắc đẹp đẽ trong khoảng sân um sùm cỏ đó: một mình tôi đứng giữa những người nhà Odom tốt bụng và trước mặt là Xương Chạc ngồi trên thùng đá. Tôi ước mình có thể đong khoảnh khắc đó vào một trong những chiếc hũ thủy tinh bác Bertha chất đầy phòng tôi. Và sau này, bất cứ khi nào tôi thấy bản thân tồi tệ, hoặc cảm thấy quá tải vì phiền muộn, tôi có thể mở chiếc hũ đó ra để hít hà cái khoảnh khắc tốt lành, trong trẻo này, bởi nó có thể khiến tôi thấy phấn chấn hơn.
Nhưng tôi chẳng thể lưu lại khoảnh khắc đó. Howard mang một miếng gà trong bếp ra, và chúng tôi đã thử dạy Xương Chạc lăn. Nhưng nó chỉ nhăm nhe chén miếng gà đó thôi.
“Căn nhà ở Raleigh của tớ có hàng rào bao quanh, nên khi nào về đó Xương Chạc có thể tha hồ chạy nhảy trong sân,” tôi nói.
Khuôn mặt tươi cười của Howard xị xuống, và nó nói, “Cậu nghĩ liệu mẹ cậu có cho phép cậu nuôi Xương Chạc không?”.
Chết tiệt! Tôi đã mong nó không hỏi câu đó, vì đây chính là nỗi lo âu thường trực trong tôi mấy hôm nay - dù tôi đã cố gắng hết sức để kìm nén nó lại. Thực ra tôi biết thừa mẹ sẽ phản ứng thế nào nếu tôi dẫn Xương Chạc về nhà. Nhưng tôi đã xoay xở gạt nỗi lo đó đi và đáp, “Chắc chắn rồi. Mẹ tớ chắc chắn sẽ thích nó.”
“Bao giờ cậu đi?” Howard lí nhí hỏi tiếp. Giọng nó có vẻ hơi run rẩy.
Tôi nhún vai. “Tớ chẳng biết,” tôi nói. “Sớm thôi. Chắc vậy.” Nhưng trong thâm tâm, tôi biết rằng mẹ tôi vẫn chưa hề bình ổn trở lại. Kể từ khi đến Colby, tôi vẫn chưa nhận được tin gì từ mẹ, dù là những thứ vô cùng nhỏ bé tầm thường như một tấm bưu thiếp hay một cuộc gọi. Tôi biết mẹ vẫn đang nằm bệt trong căn phòng tối, mặc áo choàng tắm, uống nước có ga không đường trừ bữa, và chẳng mảy may nghĩ đến tôi.
Sau đó Howard yên lặng, nên một lúc sau tôi lại buộc dây xích Xương Chạc vào ghi đông rồi đạp xe quay về nhà bác Gus và bác Bertha. Khi tôi về tới nơi, bác Gus đang ngồi bên bàn bếp, còn bác Bertha bận thái những quả ớt chuông xanh trong vườn và nói liến thoắng về cái hiệu thuốc “sang chảnh” người ta mới xây trên Đường 26.
“Ồ, hai đứa về rồi này,” bác Gus nói khi thấy tôi và Xương Chạc. “Cô bé Butterbean và chú chó Xương Chạc.” Sau đó bác ấy lục tìm trong túi áo rồi chìa một vật về phía tôi. Đó là một chiếc thẻ tên cho chó hình khúc xương, phía trên được khắc chữ Xương Chạc. Bác ấy lật chiếc thẻ tên lại để cho tôi xem số điện thoại được khắc trên mặt đó.
“Gus!” bác Bertha reo lên. “Anh đúng là chàng hoàng tử trong nhà này.” Bác ấy thơm nhẹ vào má bác Gus. “Bác ấy đúng là một chàng hoàng tử nhỉ, Charlie?”
Tôi gật đầu.
“Thế thì chắc anh phải là vua mới đúng, hai người nhìn cái kia đi,” bác Gus gật đầu về phía cây treo áo cạnh cửa hậu. Bên cạnh những chiếc áo mưa và áo khoác len là một chiếc dây dắt chó màu đỏ.
“Bác nghĩ nó cần một chiếc dây bằng da xịn thay vì cái dây thừng cũ xì đó,” bác Gus nói.
Bác Bertha lại thơm má bác Gus lần nữa. “Giờ thì anh là vua thật rồi,” bác ấy nói. “Nhỉ, Charlie?”
Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên khi bác Gus đối tốt với tôi hết lần này đến lần khác như vậy. “Dạ, thưa bác,” tôi tán thành. “Đúng vậy ạ.”
Sau đó bác Gus tháo vòng cổ của Xương Chạc, gắn thẻ tên lên đó, rồi đeo lại cho nó. Khi nhìn Xương Chạc đeo chiếc vòng cổ và chiếc thẻ mang tên nó, tôi cảm thấy nó sẽ mãi thuộc về mình. Ngay lúc này ở bên tôi, nó không còn là chó hoang nữa rồi.
Và ngay giữa khoảnh khắc hạnh phúc đó, đột nhiên tâm trí tôi nảy ra một suy nghĩ khiến tôi phải vội vã gạt bỏ ngay. Và suy nghĩ đó là: Tôi thực sự thuộc về nơi đâu trong thế giới rộng lớn này?